DÙ LỚN LÊN Ở ÚC NHƯNG TÔI VẪN CẦN được huấn luyện thích nghi với trời nắng nóng. Ở Edinburgh, tháng nào nhiệt độ cũng dưới 16 độ, nên nếu không tự rèn luyện trước, thì tôi không thể đương đầu với cái nóng trong sa mạc được.
Tôi nghĩ ra một cách. Đó là biến phòng ngủ trống trong nhà thành một buồng sưởi mini. Tôi đã sắm hai máy sưởi công nghiệp - loại mọi người hay dùng để hong khô nhà bị ngập nước - và hai máy sưởi xách tay nhỏ. Chưa đủ, tôi còn sắm cả một tấm mành treo cửa sổ dày cộp. Tôi ngộ ra, nếu chỉ có mình tôi trong phòng đó, nhiệt kế mới chỉ gần 38oC. Nếu tôi nài nỉ Lucja vào cùng tôi thì nhiệt độ sẽ tăng thêm được chút nữa. Mấy buổi tập thật khủng khiếp. Tôi mặc áo bó chuyên dụng mùa đông , đội mũ, đeo găng tay, bật máy chạy bộ nấc nhanh nhất. Độ ẩm không khí cực cao. Chỉ sau hai, ba giờ tập luyện, tôi đã kiệt sức mặc dù không đeo ba lô đựng đường hoặc gạo nặng sáu, bảy kí.
Để chuẩn bị cho giải đua qua sa mạc Gobi, tôi đã tăng cường độ tập luyện cao hơn hẳn cường độ tập luyện cho các giải đua trước đây. Lúc muốn tăng độ khó, chạy trong điều kiện khí hậu khô nóng , tôi trả 100 đô đổi lấy một giờ tập trong buồng sưởi của một trường đại học trong vùng. Lucja nói cô ấy chưa từng thấy tôi quyết tâm và tập trung như thế bao giờ. Nhưng tôi vẫn phải tập luyện bởi tôi biết mình không còn lựa chọn nào khác. Tôi từng tham gia Giải Marathon des Sables hai lần, nhiệt độ nơi đó đôi khi còn chạm mốc hơn 54oC. Ấy thế mà tôi chưa bao giờ cảm thấy áp lực. Giải đua ở sa mạc Gobi lại khác. Người bước lên bục vinh quang phải là người chiến thắng cái nóng.
Ngày đua thứ năm bắt đầu lúc 7 giờ, sớm hơn mọi khi một tiếng. Đứng sau vạch xuất phát, tôi tranh thủ nhẩm lại chiến lược đua chẳng biết đã lần thứ mấy. Xuất phát nhanh, băng qua sa mạc với tốc độ ổn định và mạnh mẽ, sau đó tùy vào điều kiện nhiệt độ để tung cú hích và chạy nước rút về đích. Hiện tôi đang xếp vị trí thứ ba chung cuộc. Nhưng chênh lệch thành tích không đáng kể. Vị trí thứ tư chỉ kém vị trí thứ nhất có hai mươi phút thôi. Tôi cần một ngày đua khả quan. Tôi không thể phạm sai lầm nào.
Đầu ngày, tôi chạy tự do. Tôi chạy đằng trước, thỉnh thoảng dẫn đầu đoàn đua, sau đó chủ động tụt lại để vận động viên khác chịu trách nhiệm dẫn đoàn trong chốc lát. Một lần, do quá tập trung vào bước chân nên có một quãng tôi để lạc mất các dấu mốc. Tôi dẫn đoàn đua chạy sai đường một lúc tới tận khi có người gọi chúng tôi quay lại. Chúng tôi giữ vững đội hình, chạy ngược trở về nơi vận động viên khác đang chờ để khôi phục đúng thứ hạng vốn có. Mọi người không cần phải cố chơi ăn gian làm gì. Bởi đường đua và sức nóng đã quá đủ thách thức rồi.
Cả địa hình cũng khôngủng hộ chúng tôi. Sáu dặm đầu là những bụi cỏ lạc đà dày đặc thỉnh thoảng xen lẫn mấy đoạn đường nhựa gập ghềnh. Sau đó, chúng tôi tiến vào bãi cát đen trên sa mạc Gobi. Vẫn còn sớm nhưng tưởng như trời nóng hơn 38 độ rồi vậy. Rõ ràng là cái nóng sẽ khắc nghiệt lắm đây.
Tôi cố chạy thật thư giãn. Thêm một đôi vượt qua tôi, nhưng tôi không để tâm. Tôi phải tuân theo đúng chiến lược đua. Chỉ vài giờ nữa thôi, khi ánh nắng mặt trời bắt đầu thiêu đốt, tôi có thể vượt bất cứ ai đã kiệt sức do tăng tốc ở đoạn giữa chặng đua.
Tâm trí tôi thơ thẩn nghĩ về Gobi, tự hỏi cô nhóc đang làm gì khi tôi chạy nhỉ. Để tránh nhàm chán, tôi cũng tranh thủ ngắm nhìn cảnh vật xung quanh nữa, tự nhủ rằng mình sẽ không có cơ hội chiêm ngưỡng nó lần thứ hai trong đời đâu. Chúng tôi vừa tiến vào bãi cát đen, mọi dấu hiệu của sự sống đều biến mất. Mấy hôm trước, ngày nào chúng tôi cũng bắt gặp những thôn làng hẻo lánh. Khi thì chúng tôi chạy qua những dãy nhà cấp bốn, người dân ai nấy đều tò mò, ló đầu ra xem. Khi thì chạy qua lòng sông khô cạn rộng như sân bóng , mọi người đều dừng lại ngắm nghía. Khi thì băng qua vùng đồng bằng đất đỏ bát ngát. Nhưng càng tiến sâu vào Sa mạc Gobi, dấu hiệu của sự sống con người cũng mất dần. Không ai có thể sinh sống ở địa hình khắc nghiệt thế này.
Đến chốt kiểm soát thứ tư, tôi dừng lại lấy nước như mọi khi, lấy một viên muối và hỏi nhiệt độ.
“46 độ rồi,” nhân viên y tế trả lời. “Nhưng sẽ tăng lên 49 độ sớm thôi. Anh có muốn một lon không ?” Cậu ta đưa tôi một lon Pepsi nóng bỏng. Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng ban tổ chức chu cấp cho chúng tôi thứ khác ngoài nước lọc. Mặc dù cảm thấy như thứ nước ngọt này đang thiêu đốt cổ họng , nhưng tôi vẫn nuốt xuống.
“Cám ơn,” tôi nói. “Anh có thêm gì để chống mất nước không ?” Tôi đã có mấy viên muối. Hãy còn một nửa chặng đường đang chờ nên tôi phải đảm bảo có đủ muối để dùng đến khi về đích. Cậu ta lấy một chai nước của tôi, pha thêm muối và đường.
“Anh vẫn ổn chứ?” Cậu ta vừa hỏi vừa tiến lại gần nhìn tôi khi trả tôi cái chai.
“Tôi ổn. Phòng trừ thôi.”
Trước khi rời chốt kiểm soát, tôi nhân tiện xem thử các vận động viên khác dẫn trước tôi bao lâu. Có Tommy, Zeng và Julian. Họ mới lên đường 15 phút trước. Tôi lấy làm kinh ngạc vì họ không xa như tôi tưởng. Vì vậy, tôi quyết định tăng tốc một chút. Dù gì, tôi đã đủ nước và thêm 150 calo từ Pepsi cơ mà. Trời thì đã nóng hơn. Tôi đã sẵn sàng vượt. Nếu đủ sức, qua một hoặc hai chốt kiểm soát nữa, tôi có thể bắt kịp họ.
Đến chốt kiểm soát thứ năm, tôi đuổi kịp Julian. Trông cậu ta không ổn lắm nhưng có vẻ vẫn kiên trì được. Điều tôi quan tâm hơn cả là Tommy và Zeng chỉ mới rời đi vài phút trước khi tôi đến. Tôi nhanh chóng lục ba lô và lấy vũ khí bí mật ra, thứ tôi giữ kín từ đầu giải đua tới giờ. Chiếc iPod nhỏ của tôi.
Tôi kẹp nó lên áo, đeo tai nghe vào và bật nhạc lên khi trở lại đường đua. Thời lượng pin của iPod chỉ được vài giờ nên tôi không bao giờ dùng nó vào các buổi chiều dài đằng đẵng ở trong lều hay ở các chặng khác. Tôi muốn giữ nó đến lúc tôi cần động lực nhất. Chính là lúc này đây.
Tôi đã soạn hẳn một danh mục nghe nhạc trước vài tháng liền. Danh mục này gồm một số bài hát bất hủ, vài bài thánh ca cổ vũ tôi tiến lên phía trước. Nhưng chất xúc tác thật sự là Johnny Cash. Giọng nam trung truyền cảm cùng lời bài hát viết về những kẻ ngoài lề và loại người mà người ta luôn khinh thị truyền vào tai giúp tôi nâng cao tinh thần. Anh ấy hát cho tôi nghe, bảo tôi cố gắng hơn, chạy nhanh hơn. Tôi phải chứng minh cho những người nghi ngờ năng lực của tôi thấy rằng họ đã sai.
Tôi trông thấy Tommy ở chốt kiểm soát thứ bảy. Cậu ta không xong rồi. Tommy ngồi sụp xuống ghế, hai ba tình nguyện viên đang cố gắng hạ nhiệt cho cậu ta trong vô vọng , hết phun nước lại quạt cho cậu ta bằng mấy cái bảng tạm. Cậu ta nhìn tôi. Giờ thì tôi dám nói mình đã vượt cậu ta.
Tôi quay đi, để lại không gian riêng tư cho cậu ta, rót đầy nước vào chai và thả một viên muối khác vào chai nước. Zeng vừa mới rời chốt kiểm soát, dẫn trước cậu ta là một gã chúng tôi hay gọi là Brett, vận động viên người New Zealand đua xuất sắc hôm nay, và một nữ vận động viên người Mỹ tên là Jax. Tôi biết tôi có thể giành chiến thắng trong chặng này, nhưng không cần thiết phải làm thế. Tôi không quan tâm Brett hay Jax về đích trước bởi thành tích chung cuộc của cả hai người họ đều kém tôi mấy giờ liền.
Nhiệm vụ quan trọng nhất hiện giờ là phải vượt Zeng. Cậu ta đang dẫn trước tôi 5 phút. Nếu vượt được Zeng , thành tích dẫn trước 20 phút chung cuộc sẽ được bảo toàn. Đến lúc đó, chỉ bằng 6 dặm đua trong ngày cuối cùng , không ai có thể soán ngôi quán quân chung cuộc của tôi. Huy chương sẽ là của tôi. Còn hai chốt kiểm soát nữa, tương đương với 10 hay 12 dặm gì đó. Chỉ cần tiếp tục duy trì phong độ, tôi sẽ làm được.
Tôi vừa giội một ít nước lên đầu, vừa dỏng tai nghe bác sĩ đang dặn dò Tommy.
“Người cậu nóng quá Tommy. Cậu nên đi cùng với Dion, đừng đi một mình, được chứ?”
Tôi đùa nghịch với cái tai nghe và vờ như không nghe thấy gì cả. Tôi không muốn bỏ rơi một anh chàng bị mắc cạn, nhưng tôi phải chiến thắng trong cuộc đua này. Vì vậy, nếu cậu ta không theo kịp, tôi sẽ không đèo bòng cậu ta.
Khi tôi đang kiểm tra lại dây đai ba lô và chuẩn bị di chuyển, Tommy vịn ghế đứng dậy và đứng bên cạnh tôi.
“Cậu chắc là cậu ổn chứ, Tommy?”
“Ừ,” cậu ta đáp, giọng khàn và yếu nhợt. “Tôi sẽ cố. Trời nóng quá.”
Chúng tôi cùng nhau trở lại đường đua. Tôi mới nghỉ trong mái che ở chốt kiểm soát vài phút thôi, mà ngoài trời đã nóng thêm vài độ rồi. Tưởng như đang chạy trong một cái tủ sấy vậy. Ánh nắng mặt trời sắc bén như kim châm vào từng thớ thịt trên tay tôi. Tôi thích thế. Không gì có thể xóa tan nụ cười trên gương mặt tôi lúc này. Tôi tự hỏi liệu có nên thoa thêm một lớp kem chống nắng nữa không.
Không có gió, không có bóng râm. Thứ gì cũng nóng ran - không khí, đá, thậm chí cả viền nhựa và khóa kéo bằng kim loại trên ba lô của tôi. Mọi thứ đều bị mặt trời nung nóng.
Nhưng tôi biết tôi cần phải bắt kịp Zeng. Tôi không rõ cậu ta mạnh đến mức nào hay cậu ta có kiệt sức hay không , nhưng trong hoàn cảnh này, tôi thấy mình vẫn còn dư sức. Đây là cơ hội của tôi. Tôi phải nắm lấy nó.
Chúng tôi mới rời khỏi trạm kiểm soát mấy chục mét. Nghe chừng Tommy mệt lắm rồi. Có điều, là một vận động viên ngoan cường , cậu ta sẽ không từ bỏ giữa chừng đâu.
Chúng tôi đang chạy trên con đường trải sỏi thẳng tắp. Ở đoạn này, cứ 15 mét sẽ có một dấu mốc màu hồng. “Cố lên, Tommy,” Tôi nói, gắng kích cậu ta tăng tốc. “Chạy theo mấy lá cờ kìa.”
Chạy bộ qua một dấu mốc, chúng tôi đi bộ đến dấu mốc tiếp theo rồi chạy tiếp. Cứ như thế được 800 mét, chúng tôi tiến vào một khu bốn bề là cát. Xung quanh chúng tôi chỉ có hốc núi đá hình thành từ đụn cát, và những bức tường bụi cao tới 6 mét, kéo dài ngút tầm mắt. Giống như bề mặt sao Hoả vậy. Thật vậy, tôi dám cá trong này còn yếm khí và nóng hơn cả Sao Hoả ấy chứ.
Tommy không còn đồng hành cùng tôi nữa. Tôi biết thể nào cậu ta cũng sẽ bỏ cuộc. Đây rồi, tôi nghĩ. Đến lúc tăng tốc rồi.
Tôi chạy qua bốn năm lá cờ, thở đều và dậm từng bước chắc chắn. Chạy tự do mới tuyệt làm sao. Càng tuyệt vời hơn là càng chạy tôi càng thu hẹp khoảng cách với anh bạn dẫn trước. Thế nhưng , có gì đó cứ làm tôi day dứt mãi không thôi. Tôi không thể ngừng nghĩ về Tommy. Cậu ta ổn chứ? Cậu ta có đang chạy theo tôi không ? Liệu cậu ta có tự vượt qua được?
Tôi chạy chậm dần.
Rồi dừng hẳn.
Tôi quay lại nhìn thử.
Tommy đang xiêu xiêu vẹo vẹo như một kẻ say rượu. Hai tay cậu ta thõng xuống , cậu ta bị mất thăng bằng rồi. Trông cậu ta như đang gặp động đất, mỗi bước đi như một cuộc chiến chống lại lực lượng vô hình nào đó. Tôi nhìn cậu ta, trông mong cậu ta lấy lại sức và bắt đầu chạy về phía tôi.
Thôi nào, Tommy. Đừng bắt tôi phải cứu cậu lúc này chứ.
Đúng là ước muốn viển vông. Ngay tức khắc, tôi tức tốc chạy lại chỗ cậu ta đang đu đưa, loạng choạng , cách tôi tầm 90 mét.
“Tommy, cậu thế nào rồi?”
“Nóng quá.” Cậu ta nói líu nhíu. Tôi phải chộp lấy cậu ta để cậu ta không bị ngã. Lúc này là khoảng hơn một giờ chiều, mặt trời đang chiếu thẳng vào chúng tôi. Tôi biết, trời sẽ còn nóng nữa. Tôi nhìn quanh kiếm chỗ bóng râm, nhưng chẳng có gì ngoài núi đá vân sóng chạy dài một bên.
Tôi nhìn đồng hồ. Chúng tôi cách chốt kiểm soát trước đó hơn 1 dặm và cách chốt kiểm soát tiếp theo 3 dặm. Tôi định bụng bảo cậu ta quay lại, nhưng với tình trạng này thì cậu ta đi đâu được chứ. Tất cả tùy thuộc vào tôi.
Nên quay lại hay đi tiếp đây? Tôi do dự.
Tommy lóng ngóng lấy chai nước. Một chai đã rỗng không. Rồi chỉ tu vài ngụm, cậu ta đã uống cạn nốt chai kia. Chúng tôi ước chừng mới rời chốt kiểm soát được hai mươi, ba mươi phút. Khi bắt đầu di chuyển, chắc hẳn Tommy đã lấy đầy nước vào chai rồi. Nghĩa là cậu ta đã uống hết sạch hai lít nước.
“Tôi buồn tiểu.” Cậu ta vừa lẩm bẩm vừa tụt quần xuống. Nước tiểu cậu ta có màu như mật mía.
Tommy ngã ngồi trên cát, đúng chỗ mặt trời chiếu thẳng vào. “Ngồi,” Cậu ta nói tiếp. “ Tôi cần phải ngồi. Anh đợi được không ?”
“Không được ngồi ở đây, Tommy. Cậu phải vào chỗ râm.” Tôi nhìn xung quanh lại lần nữa xem có bỏ sót chỗ nào không , nhưng chẳng có gì có thể che chắn cho cậu ta cả. Cũng không có vận động viên nào khác ngoài hai chúng tôi.
Tôi nhìn phía trước. Hình như tôi trông thấy một đường bóng râm bên một tảng đá cách khoảng một dặm. Trông có vẻ đủ lớn để che chắn cho Tommy. Đây là hi vọng khả thi của chúng tôi lúc này.
Chạy tới đó mất tầm hai mươi phút. Tôi luồn tay xuống dưới cát để nâng Tommy dậy, đeo ba lô của cậu ta và cho cậu ta uống nước. Tôi gắng dụ cậu ta nói chuyện, nhưng không biết nói gì ngoài: “Cố lên, anh bạn. Chúng ta gần đến nơi rồi”. Cậu ta gần như chẳng đáp lại lời nào.
Có thể thấy tình trạng của cậu ta nghiêm trọng lắm rồi.
Cậu ta bị chóng mặt, mất phương hướng và toát mồ hôi hột. Đây rõ ràng là một ca kiệt sức do nhiệt. Và tôi phải tìm cách hạ nhiệt cho cậu ta càng nhanh càng tốt, nếu không cậu ta sẽ bị sốc nhiệt. Và chỉ khoảng ba mươi phút sau khi bị sốc nhiệt, cậu ta sẽ có nguy cơ rơi vào hôn mê. Sau đó, người ta sẽ cần phải tiến hành chăm sóc y tế đặc biệt cho cậu ta để duy trì sự sống.
Đến nơi, tôi đặt cậu ta dựa vào tảng đá cát kết, trong bóng râm nhỏ hình chữ nhật. Tôi cởi áo cậu ta ra, hi vọng hạ nhiệt phần nào. Nhưng cởi áo ra, tôi kinh hãi khi thấy da cậu ta trắng bệch. Trông cậu ta như sắp lìa đời đến nơi rồi.
Tommy nửa ngả người xuống và đi tiểu lần nữa. Nước tiểu cậu ta có màu sậm hơn vừa nãy.
Mình phải làm gì đây? Tôi hốt hoảng , và phải cố lắm mới kiểm soát được cảm xúc lúc này. Tôi tính giờ chắc chúng tôi đã đi được nửa chặng rồi. Tôi chạy lên một ngọn đồi nhỏ để xem có ai sống quanh đây không nhưng không có một mống nào cả.
“Tommy, nghe này,” Tôi ngồi xổm xuống ngang tầm mắt cậu ta và nói. “Cậu cần được giúp đỡ. Tôi sẽ nhanh chóng chạy đến chốt kiểm soát tiếp theo và nhờ họ quay lại đón cậu, được chứ?”
“Tôi không chạy nổi nữa,” cậu ta nói.
“Tôi biết. Cậu đừng làm gì cả. Cứ ngồi yên đây và chờ họ đến đón. Đừng đi đâu nhé.”
Tôi cho cậu ta uống chút nước cuối cùng còn sót lại trong chai của tôi, xem xem chân cậu ta có ở trong bóng râm không rồi chạy.
Những con số ngập tràn trong đầu tôi. Tôi nhẩm đếm có lẽ mình đã mất 45 phút. Tôi đã nhường hết 1,2 lít nước cuối cùng cho Tommy và phải chạy 3 dặm nữa để tiếp nước. Nhiệt độ bây giờ là gần 49 độ và giờ tới sẽ còn tăng lên. Nếu lúc nãy tôi không quay lại kịp thời, rất có thể Tommy đã bị sốc nhiệt 30 phút. Nếu tôi không quay lại, rất có thể cậu ta đã rơi vào hôn mê.
Vừa chạy, tôi vừa chú ý dõi theo các dấu mốc vừa để ý xem có chiếc xe nào hay ai đó ở đằng xa có thể giúp đỡ hay không. Vẫn không có gì cả.
Sau khi tính toán, tôi bắt đầu đặt câu hỏi. Tại sao lúc đầu tôi lại nhìn lại? Linh tính mách bảo tôi chăng ? Phải chăng đã có ai hay gì đó chỉ cho tôi cứu Tommy? Chạy tiếp liệu có phải quyết định đúng đắn? Có khi nào Tommy sẽ được cứu chữa nhanh hơn nếu tôi quay lại?
Để tiết kiệm thời gian, tôi quyết định nhảy cóc. Tôi lạc mất các dấu mốc mất một lúc và bắt đầu sợ hãi. Tôi đang bị mắc kẹt dưới một rãnh cát. Tim tôi đập liên hồi. Tôi sợ hãi, lần đầu tiên từ khi cuộc đua bắt đầu, tôi biết sợ. Có phải tôi sai lầm rồi không ?
Tôi nhảy qua gò, và thấy mình đã trở lại đúng đường. Đằng kia, tôi thấy chốt kiểm soát rồi, một dặm nữa. Nó mờ mờ như ảo ảnh, và dù tôi có cố gắng chạy nhanh thế nào thì trông nó vẫn chẳng gần hơn là bao.
Chạy được nửa dặm, một chiếc xe của ban tổ chức đến gần. Tôi vẫy chiếc xe và báo với họ về tình trạng của Tommy và tìm cậu ta ở đâu.
“Các anh phải nhanh lên,” tôi nói. “Cậu ta thật sự không ổn. Tôi cũng hết nước rồi. Anh còn nước không ?”
Họ còn một ít nước, vừa đủ cho tôi đến chốt kiểm soát. Ngay khi đến đó, tôi ngồi xuống và vội vàng khai báo tình trạng của Tommy lần nữa. Tôi uống nhiều nước và thuật lại các triệu chứng của tôi. Chạy trong tình trạng thiếu nước và áp lực ở mức báo động , tôi đã kiệt sức. Tôi thấy buồn nôn và yếu nhợt. Ít nhất tôi vẫn nhận thức được các triệu chứng của mình. Có nghĩa là tôi vẫn tỉnh táo. Tôi vẫn chưa bị kiệt sức do nhiệt.
Tôi hỏi thăm về Zeng và cứ ngỡ như mình nghe nhầm. Cậu ta mới dẫn trước hai mươi phút. Hai mươi phút thôi ư? Nghĩa là thành tích chung cuộc của tôi và cậu ta đang bằng nhau. Lợi thế dẫn trước hai mươi phút của tôi đã không còn nhưng tôi vẫn còn cơ hội.
Vừa chạy, tôi vừa không khỏi nghĩ đến cái chết. Hình như chúng tôi đã ở gần nơi một vận động viên khác tử vong vì sốc nhiệt vào năm 2010. Rồi tôi nghĩ về Tommy. Tôi thấy buồn vì nghĩ rất có thể cậu ta đã hôn mê rồi. Hi vọng là chưa. Hi vọng tôi đã kịp cứu cậu ta. Bỗng , tôi chợt thấy lúc trước mình thật ngớ ngẩn khi giận dỗi chuyện cậu ta nhảy cóc chỉ để dẫn trước 5 phút ở đường đá.
Rời khỏi chốt kiểm soát được nửa dặm, tôi bắt đầu thấy ngực mình là lạ. Như thể tim bơm không đủ máu, như thể có cả một dải băng quấn chặt quanh phổi tôi. Cứ uống nước, phổi tôi lại như sôi lên. Tôi chạy chậm dần. Tôi thấy mệt, người nặng trịch, chân nam đá chân chiêu và suýt vấp ngã như người ngủ gật.
Nhưng tôi chỉ lo vụ mình bị đánh trống ngực. Trước đây, tôi từng bị thế hai, ba lần. Mỗi lần như thế, ngực tôi như nổ tung, mồ hôi túa ra, cơ thể mệt mỏi và nhợt nhạt. Các bác sĩ chẩn đoán nguyên nhân của bệnh là do tôi uống quá nhiều cà phê, nên từ đó tôi cai hẳn caffeine trong quá trình tập luyện chuẩn bị cho một cuộc đua. Nhưng những ký ức về căn bệnh đó vẫn quanh quẩn trong tâm trí tôi. Giờ thì, dưới cái nóng của sa mạc Gobi, tôi lại cảm thấy các triệu chứng đồng loạt xuất hiện. Và nếu lần này tim tôi lại xuất hiện triệu chứng như vậy, thì rõ ràng không phải do cà phê. Nếu tôi bị đánh trống ngực ngoài này, thì không xong rồi.
Một chiếc xe của ban tổ chức đỗ đằng trước tôi. Tôi biết, đây là xe hỗ trợ y tế khẩn cấp. Chắc họ nghĩ tôi cần giúp đỡ khi trông thấy tôi bước loạng choạng thế này. Khi tôi nghe thấy tiếng động cơ tiến đến gần, các tình nguyện viên nhảy xuống xe.
“Anh ổn chứ? Có cần uống nước không ?”
“Cho tôi lên xe,” tôi đáp. “Tôi thấy không khỏe.”
Tôi không biết đề nghị này có đúng luật hay không , nhưng tôi cóc quan tâm. Tôi cần hạ nhiệt ngay lập tức.
Tôi giật mạnh cửa sau, tung mình và ba lô xuống ghế sau. Điều hoà đang hoạt động hết công suất, giống như bước vào một cái tủ lạnh vậy. Tuyệt quá. Tôi nhắm mắt và để khí lạnh vờn khắp cơ thể.
Khi mở mắt ra, tôi hết nháy lại dụi mắt. Tôi không đọc nhầm đấy chứ? “Nó đang chỉ 55,5 độ hả?” Tôi hỏi.
“Phải,” anh bạn ngồi sau vô lăng đáp. Cậu ta và một tình nguyện viên khác không nói gì cả, nhưng tôi thấy cậu ta nhìn tôi đăm đăm qua gương chiếu hậu.
“Tôi uống nước này được chứ?” Tôi vừa hỏi, vừa chỉ vào một chai nước có một viên đá hình trụ bên trong. Tôi thề rằng đây là thức uống đã nhất trong đời tôi.
Tôi lấy một bịch gel tăng lực ra. Cầm bịch gel trong tình trạng sức khỏe thế này không dễ chút nào, đến nỗi tôi làm rớt một chút gel dinh dính xuống cằm, ngực và ghế xe. Những tưởng mười phút sau, gel tăng lực sẽ ngấm và phát huy tác dụng. Nhưng qua thời gian, tôi càng cảm thấy tệ hơn.
Đầu tôi lâng lâng , gần như không thể nhìn tập trung vào một điểm quá vài giây. Càng thở, ngực như có dải băng thít lại càng chặt. Thậm chí, tôi có thể nghe thấy tiếng phì phò của phổi nữa.
“Thôi mà,” tôi tự nhủ, lúc đó đáng lẽ gel tăng lực đã phải có tác dụng từ lâu. Tôi dồn sức lấy ba lô và di chuyển, ra lệnh cho bản thân phải xuống xe và chạy tiếp, nhưng không thể. Khí lạnh chẳng mấy tác dụng như tôi mong muốn. Nghĩ phải mở cửa và bước vào cái nóng lần nữa khiến tôi sợ hãi. Ngay cả khi tôi có thể kiểm soát cơ thể và tự lết xuống xe, thì liệu tôi có thể kiên trì đến chốt kiểm soát tiếp theo nổi không, chứ chưa nói gì đến về đích?
Đúng lúc đó, ngực tôi như muốn nổ tung. Tim đập đồn dập, tôi thở hổn hển, tuyệt vọng hít lấy hít để một chút không khí.
Tôi ngước lên và bắt gặp cái nhìn của cậu tài xế qua gương. Tôi thấy sự sợ hãi trong mắt cậu. Sợ hãi và hoảng loạn.
Cái nhìn ấy khiến tôi như nổ tung lần thứ hai. Chỉ là lần này, không phải trái tim đập dồn đập nữa, mà là tâm trí. Lần đầu tiên trong đời, tôi lo cho an nguy của mình đến thế. Cũng là lần đầu tiên, tôi tự hỏi phải chăng mình sắp chết.