TIẾN LÊN! DION, CHẠY ĐI NÀO, DION!
Không có tác dụng. Dù tôi nhắm chặt mắt hay nghiến chặt răng đến mức nào, thì tôi vẫn không thể nhúc nhích. Tất cả nỗ lực của tôi lúc này là tập trung hít không khí lạnh, những mong thay đổi cái gì đó.
Mấy phút trôi qua. Tôi thử một bịch gel tăng lực khác. Tôi thử duỗi người để giảm bớt áp lực lên ngực. Tôi thử nhớ lại chiến lược đua. Tất cả đều vô dụng.
Tôi băn khoăn không biết Tommy thế nào rồi. Hi vọng chiếc xe đã kịp thời tìm thấy cậu ta và các tình nguyện viên có thể trợ giúp khi cậu ta cần. Tôi đoán chắc là cậu ta đã dừng chân tại đây.
Tôi ló mặt trông ra ngoài xe một lúc lâu, ấy thế mà không thấy bất kì vận động viên nào cả. Tôi nhẩm xem mình cần bao lâu để bắt kịp Zeng.
“Trông Zeng thế nào khi đến đây?”
“Không ổn. Anh ta vật vã lắm và chỉ đi bộ được thôi.”
Đó là tất cả những gì tôi muốn nghe. Tôi đã tốn mười lăm phút trong xe, tức là giờ tôi phải bù ba mươi lăm phút. Nếu cậu ta vẫn chưa hồi phục, tôi sẽ có cơ hội chiến thắng. Nếu chiến thắng chặng này, tôi sẽ dẫn đầu bảng thành tích chung cuộc.
Tôi lo lắng không thôi khi bước xuống xe nhưng là lo làm sao để bù đắp thời gian đã lãng phí. Cái nóng lan tràn khắp cơ thể, tôi phải mất một lúc mới bình tâm lại và ổn định bước chạy. Cuối cùng thì tôi có thể chạy tiếp rồi. Không nhanh nhưng ổn định.
Tuy vậy, tôi không duy trì tốc độ này được lâu. Tôi chỉ đủ sức chạy mấy chục mét, sau đó đi bộ. Ít nhất thì tim tôi đã đập chậm lại và tâm trí tôi dần tỉnh táo trở lại. Tôi chạy theo cờ hiệu đánh dấu các dặm đường còn lại, cắm đầu cắm cổ chạy, không nhìn gì khác ngoài những dấu mốc màu hồng đằng trước và không nghĩ gì khác ngoài việc tiến bước.
Sau cùng , tôi đã có mặt trước vách đá cao do gió bào mòn mà thành. Tôi trèo lên rồi chạy dọc trên đỉnh một cồn cát, nhìn vạch đích phía trước không rời mắt.
Giống như ngày hôm trước, Gobi đang chờ tôi trong bóng râm. Sáu mươi mét cuối cùng , cô nhóc chạy ra đón tôi. Chúng tôi cùng nhau về đích. Ngay sau đó, Gobi chạy tót trở lại bóng râm, thở hổn hển rồi thụp xuống thành một đống.
“Có tin gì về Tommy không?” Tôi hỏi một tình nguyện viên.
Cậu ta nhướn lông mày, đáp, “Tin tốt.” “Họ đã giúp anh ấy hạ nhiệt. Sau đó anh ấy bắt đầu đi bộ về đích. Filippo đang ở cùng ảnh. Họ đều ổn cả.”
Tôi biết cậu ta, Filippo Rossi, vận động viên người Thuỵ Sĩ đã có một ngày đua đáng ngợi khen. Tôi vừa vui mừng vừa nhẹ nhõm khi nghe nói cậu ta và Tommy đang ở cùng một chỗ.
Hai vận động viên về đích khác - Brett và Zeng - đã về lều được một lúc rồi. Tôi vẫn chậm hơn Zeng bốn mươi phút. Vậy là quán quân đã được ấn định. Chúng tôi chỉ còn một chặng ngắn nữa. Vài dặm hoàn toàn không đủ cho tôi bứt phá.
Khi Tommy về đích cùng Filippo, cả trại náo nhiệt hẳn lên. Đến lúc đó thì mọi người đều đã biết chuyện xảy ra, sự hồi phục và kiên cường đáng kinh ngạc của Tommy xứng đáng được ca ngợi. Hình như không ai biết gì về chuyện tôi là người giúp cậu ta lúc đầu, nhưng không sao cả. Bởi cái ôm của Tommy ngay khi nhìn thấy tôi có ý nghĩa hơn tất thảy. Cậu ta khóc, còn tôi hai mắt rưng rưng. Giữa chúng tôi không cần nói gì thêm nữa.
Tôi chờ trong lều như mọi buổi chiều khác, ngủ lúc được lúc chăng với cô nhóc Gobi cuộn tròn bên cạnh. Mong rằng không ai trong số những vận động viên vẫn còn đang gồng mình chống chọi ngoài đường đua kia gặp tình trạng nghiêm trọng như Tommy. Tôi băn khoăn không biết Richard, Mike, Allen và mấy cậu Ma Cao thế nào rồi. Dù lúc mới đầu không vui vẻ gì cho lắm, nhưng tôi vẫn thích mấy cậu Ma Cao đó lắm. Họ thực sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Tối nào họ cũng mát xa cho nhau nữa. Họ đều là người tốt, và theo một mặt nào đó, tôi cũng sẽ nhớ họ lắm đây.
Tôi chợt nghĩ, mình có thể đã chiến thắng nếu không dừng lại giúp Tommy. Nhưng cái giá phải trả để đứng cao hơn trên bục vinh quang này không đáng chút nào. Kể cả đây có là chức vô địch đa chặng đầu tiên của tôi và trở thành động lực khổng lồ cho tương lai của tôi đi chăng nữa thì cũng không đáng. Thật vậy, tôi phải đánh đổi chức vô địch khi dừng lại giúp Tommy, nhưng được thế này là tôi thấy thỏa mãn lắm rồi. Nếu không có gì thay đổi trong chặng chót dài 6 dặm, thì vị trí á quân của tôi sẽ được bảo toàn. Tôi chưa định ăn mừng quá sớm, nhưng vừa lòng với kết quả này. Bởi tôi đã chứng minh cho bản thân thấy sự nghiệp chạy của mình vẫn còn có triển vọng.
Richard, Mike và Allen về đến nơi khi màn đêm buông xuống. Họ đã phơi mình ngoài nắng cả ngày nay và nếm không ít khổ. Về đích trong dáng vẻ của những con zombie, họ nằm la liệt trong lều, mặt ai nấy nửa đỏ bừng do cháy nắng , nửa tái nhợt vì kiệt sức. Mọi chuyện đã qua, và đây là buổi tối cuối cùng chúng tôi ở cùng nhau. Không khí trong lều khác hẳn mọi khi. Mọi người đều nhẹ nhõm và thoải mái vì cuộc đua sắp đến hồi kết.
Tôi choàng tỉnh khi nghe tiếng lều sập. Ba cậu Ma Cao không thấy tăm hơi đâu, còn Mike thì đang gọi chúng tôi dậy. Tôi bế Gobi lên và bò ra ngoài. Một cơn gió từ đâu ùa đến, cuốn theo cả cát. Gió tạt mạnh. Cả tôi, Gobi và những người khác ngồi đè lên lều để nó khỏi bay, trong lúc Richard đi kiếm người giúp.
Trong màn đêm, có tiếng rè rè từ máy vô tuyến, có tiếng gió thổi sột soạt ngoài lều và giọng nói tiếng Hán qua lại. Dưới ánh sáng của hàng tá chiếc đèn pha, tôi thấy các tình nguyện viên chạy quanh khu cắm trại và cố gắng dựng lều lên trong vô vọng. Gió quật từng đợt và bão cát nổi lên. Trong vòng bán kính tám mươi, chín mươi mét, hoàn toàn không trông thấy gì cả. Nghe nói, những vận động viên về đích cuối cùng đang tập trung ở chốt kiểm soát và sắp lên xe về trại.
Sau một giờ đợi người đến và giúp dựng lại lều, tôi gọi Gobi và quyết định đi tìm một người phụ nữ tên là Nurali. Người ta giới thiệu cô ta cho tôi lúc đến điểm hạ trại đầu tiên. Gió nổi lên, trông cô ta hét chỉ huy đội của mình, tôi càng bực dọc hơn.
“Cô có thể điều vài người ra dựng lều cho chúng tôi không ?” tôi mở lời.
“Được chứ, nhưng chúng tôi phải dựng xong mấy lều này đã.”
“Tôi hiểu, nhưng chúng tôi đã yêu cầu cách đây một giờ rồi, nhưng không ai đến cả.”
“Đấy không phải việc của tôi,” cô ta gào lên.
Tôi biết cô ta phải chịu nhiều áp lực, và hoàn toàn thông cảm việc cô phải vật lộn trong gió bão thế này, nhưng cô ta định qua loa đại khái với tôi thì phải. “Không , chúng tôi đã trả 3.700 đô la để có mặt ở đây. Vì vậy đây là việc của cô.” Tôi khẳng định.
Cô ta lầu bầu gì đó mà tôi không hiểu rồi quay người bước đi. Gió nổi lên, mọi người chạy loạn vì sợ hãi. Gió ở đây tương tự những cơn gió trên cao nguyên Scotland chúng tôi vậy, nên tôi không thấy lo lắng chút nào. Cát cũng không làm khó được tôi. Những lúc thế này, tôi chỉ cần bắt chước Gobi để hai tay ôm chặt lấy đầu để tránh gió, vậy là an toàn.
Sau nửa đêm, chúng tôi nghe nói cơn bão cát đang mạnh dần lên. Không ai dám ngủ. Kiệt sức sau quãng đường 50 dặm, tất cả chúng tôi đều cần nghỉ ngơi lấy lại sức. Vì vậy, ban tổ chức đã quyết định bỏ trại trong đêm. Chúng tôi cùng các vận động viên khác chen chúc sau những tảng đá lớn và chờ xe khách tới đón. Đứng giữa sa mạc, cát bụi bay hết vào miệng , tai và mắt dường như càng làm mọi người sợ hãi hơn. Nhưng tôi biết, đây chỉ là một phần nhỏ trong mớ cảm xúc tiêu cực mà chúng tôi phải chịu đựng những ngày qua. Bởi hơn cả bão cát, tất cả chúng tôi đã nếm trải 24 giờ khó nhọc hơn thế. Nhưng người ta vẫn hay rùng mình trước nỗi sợ chưa biết tên hơn là những nỗi sợ đã qua.
Khi bình minh ló rạng, một chiếc xe khách đón chúng tôi đến một tòa nhà thấp tè ở lối vào một công viên quốc gia cách hai mươi phút đi đường. Đó là một bảo tàng nhỏ lạ hoắc trưng bày những mẫu hóa thạch hàng triệu năm và tranh tầm sâu khắc họa cảnh vật đa dạng và chọn lọc ngẫu nhiên trong môi trường tự nhiên. Dĩ nhiên, Gobi tự nhiên như ở nhà vậy, nhất là trong khu rừng mưa toàn cây giả. Tôi không nhịn được cười khi thấy cô nhóc thỏa sức tung hoành dưới một gốc cây giả.
Chỉ trong vài phút ngắn ngủi, chúng tôi đã ngồi la liệt khắp nơi, biến viện bảo tàng thành một trại tị nạn cho 101 vận động viên bốc mùi và một cô chó không-hẳn-chó-nhà-cũng- chẳng-phải-chó-hoang. Ấy vậy mà các nhân viên trong viện bảo tàng không chút bận tâm, còn các quầy bán đồ uống và đồ ăn vặt ở đầu kia của viện bảo tàng thì được dịp buôn may bán đắt.
Hôm nay đã được xếp lịch nghỉ, kết quả của khoảng thời gian hỗn loạn vừa rồi. Và chúng tôi dành thời gian để ngủ, ăn đồ ăn vặt, uống Coca và buôn chuyện.
Chiều hôm ấy, thay vì cuộn mình trong túi ngủ hay đi dạo đây đó. Tôi ngồi chuyện trò với Richard, Mike, và Allen.
“Anh sẽ làm gì với cô nhóc này?”
Mike chỉ vào Gobi hỏi.
Một câu hỏi trúng tim đen. Tôi đã tự hỏi mình câu này trong suốt chặng đua dài. Hai ngày vừa qua là hai ngày khó khăn với tôi khi không có Gobi đồng hành. Không hiểu sao giữa tôi và cô nhóc đã hình thành sợi dây liên kết lạ thường . Tôi không muốn để cô nhóc tự sinh tự diệt ngoài kia nữa .
Bởi điều này có ý nghĩa hơn thế. Gobi đã chọn tôi. Tôi không biết tại sao nhưng cô nhóc đã thực sự chọn tôi. Ngoài kia có một trăm vận động viên khác, hàng chục tình nguyện viên và nhân viên cho cô nhóc chọn, nhưng từ lần đầu tiên nhìn thấy Gobi, cô nhóc đã gặm cái ghệt dưới chân tôi và chưa từng bỏ tôi lại.
Gobi còn là một tuyển thủ nhỏ cứng cỏi nữa. Trong chặng đua, cô nhóc đã hoàn thành 70 dặm đường với cái bụng rỗng suốt cả ngày, và tôi dám chắc rằng , nếu có cơ hội, cô nhóc sẽ còn làm được nhiều hơn thế. Rõ ràng là Gobi sợ nước nhưng nó vẫn bước lên và tin tôi sẽ giúp nó. Cô nhóc đã bỏ tất cả vốn liếng chỉ để theo kịp tôi. Vậy thì sao tôi có thể bỏ rơi cô nhóc sau khi cuộc đua kết thúc được chứ?
Nhưng làm sao đây, mỗi khi tôi đưa ra một lý do để giúp Gobi thì lại có một giọng nói khác phản bác ý kiến đó. Tôi không biết Gobi có mắc bệnh gì không , cô nhóc có chủ chưa, hay tôi phải làm gì để giúp cô nhóc đây. Sau cùng , đây là Trung Quốc. Giả dụ tôi nhờ các tình nguyện viên giúp tôi tìm một ngôi nhà cho một cô chó lạc không rõ nguồn gốc, thì chắc rằng sẽ không có mấy người xếp hàng nhận nuôi. Hơn nữa, nếu những lời đồn là thật, thì Gobi sẽ không bị làm thịt chứ?
Vì vậy, tôi không định tìm một ngôi nhà ở Trung Quốc cho cô nhóc định cư. Tôi không hỏi những người trong đoàn thích Gobi có muốn nuôi nó không , và cũng không đề cập chuyện nuôi Gobi với người bạn cùng lều.
Tôi không hỏi bởi vì tôi đã có một lựa chọn khác. Một kế hoạch hay ho hơn.
“Cậu biết không , Mike ? Tôi quyết định rồi. Tôi sẽ tìm cách đưa Gobi về nhà với tôi.”
Lần đầu tiên tôi nói ra những lời này. Đúng vậy, chính thế. Tôi không biết ý này có khả thi không , nhưng phải thử một phen.
“Tuyệt,” Mike nói. “Tôi sẽ giúp nếu anh cần.”
“Thật chứ?”
“Cả tôi nữa,” Richard xung phong.
Tôi kinh ngạc và cảm động nữa. Tôi đã kể đấy, tất cả những gì Gobi làm với những người bạn cùng lều của tôi là gầm gừ khi họ đi vào lều vào buổi tối, đánh thức họ vì chạy đuổi cừu và mặt dày xin ăn mỗi khi thấy họ nhấm nháp gì đó. Nhưng tôi sai rồi. Gobi còn truyền cảm hứng cho họ nữa, như cách cô nhóc truyền cảm hứng cho tôi.
Như Richard nói: “Chú chó cứng cỏi nào cũng đều xứng đáng có một kết thúc có hậu”.
Lúc chúng tôi xếp hàng sau vạch xuất phát vào ngày đua cuối cùng , bão cát đã qua. Tương tự như bao giải chạy siêu bền đa chặng khác, ngày cuối cùng bao giờ cũng là một chặng ngắn cự li 6 đến 10 dặm. Và cũng như các giải chạy đa chặng khác mà tôi từng tham gia, ý nghĩ cách vạch đích cuối cùng một, hai giờ đã thôi thúc các vận động viên phát huy tối đa tiềm năng của mình. Nếu hôm qua - ngày để các vận động viên nghỉ ngơi lấy lại sức, họ lượn lờ như zombie trong viện bảo tàng thì đến hôm nay - ngày đua cuối cùng , họ chạy ào ào như được đi chơi công viên vào sáng thứ Bảy vậy.
Gobi đang chạy bên cạnh tôi. Cô nhóc dường như cũng ý thức được hôm nay là một ngày đặc biệt. Cô nhóc không gặm dây ghệt trong lúc chạy nữa. Thay vào đó, bước chân nhóc ta hòa cùng một nhịp với bước chân tôi, chốc chốc lại ngước đôi mắt đen, to tròn lên nhìn tôi nữa.
Chúng tôi chạy dưới tiết trời mát mẻ, kèm theo mưa phùn. Còn tôi vui vì Gobi sẽ không bị nóng quá. Chặng cuối này quá ngắn nên họ không đặt chốt kiểm soát. Cứ hai dặm, tôi lại dừng lại một lần để cho Gobi uống nước. Gobi không bao giờ từ chối tôi, khiến tôi ngạc nhiên vì chỉ mới vài ngày, cô nhóc đã học cách tin tưởng tôi đến vậy.
Lúc ở viện bảo tàng , tôi đã dành chút thời gian nghiên cứu thứ hạng đua. Đúng như dự đoán, tôi không thể vượt qua Zeng và lần thoát nạn trong gang tấc của Tommy đã khiến cậu ta phải trả giá đắt. Cậu ta bại trước Brett, cậu bạn người New Zealand đã bứt phá và dành chiến thắng ở chặng đua dài. Tôi vẫn dẫn trước Brett hai mươi phút. Cứ đà này, vị trí thứ hai chung cuộc của tôi sẽ được bảo toàn.
Cả chặng đường tôi đều dẫn trước Brett, nhưng đến giữa chặng , lúc dừng lại cho Gobi uống nước trên chỏm đồi cát, tôi bắt gặp Brett ngay đằng sau. Cậu ta dừng lại chỗ tôi. Tôi lấy làm lạ, còn cậu ta chỉ nhún vai và cười.
“Quy tắc mà, không thể vượt anh khi anh đang cho nó uống nước được, đúng chứ?”
Tôi cười đáp. “Cám ơn.”
Tôi cho cái chai vào ngăn đựng trên quai ba lô, gật đầu chào Brett, và đua tiếp như chưa từng có chuyện gì xảy ra.
Chúng tôi cứ như vậy trên suốt phần còn lại của chặng đua. Chặng này, tôi về thứ năm, Brett về thứ sáu và giữa chúng tôi là Gobi. Trao huy chương và chụp ảnh chớp nhoáng xong , cả đoàn ăn mừng với bia, tiệc nướng ngoài trời, thịt nướng , bánh mì kẹp thịt và rau thơm to như chiếc pizza và nhiều món thơm ngon khác. Tôi nhai nhồm nhoàm thịt cừu trong miệng và để Gobi liếm mỡ ở ngón tay. Vây quanh là những cái ôm, tiếng cười - kiểu tiếng cười mà anh chỉ nghe thấy khi quanh anh là những người tốt - và tận hưởng khoảnh khắc mà nhiều năm sau anh vẫn nhớ mãi.
Tôi bắt đầu đua như tôi đã từng , bo bo giữ mình, tập trung hoàn toàn vào việc chạy và không quan tâm thứ gì khác. Tôi kết thúc cuộc đua như những cuộc đua khác, quây quần bên bè bạn.
Tuy vậy, cuộc đua băng qua sa mạc Gobi vẫn khác biệt. Có nốt thăng , có nốt trầm. Có vị mặn của mồ hôi, cũng có vị ngọt của phút giây thăng hoa. Ấy là trải nghiệm đã thay đổi cuộc đời tôi. Câu này chỉ đúng khi đổi lại, tôi phải làm mọi thứ có thể để thay đổi cuộc đời Gobi.