THỈNH THOẢNG, HỄ NHẮM MẮT LẠI VÀ TẬP trung cao độ, tôi có thể nhớ lại tất cả những lần người ta bảo tôi sẽ thất bại. Tôi vẫn mường tượng ra hình ảnh ngài hiệu trưởng trường trung học bắt tay tôi, trưng một nụ cười giả tạo và thì thầm rằng một ngày nào đó, đời tôi sẽ chấm hết trong tù.
Tôi thấy hàng tá huấn luyện viên thể thao, giáo viên, bố mẹ của những người mà tôi coi là bạn bè nhìn tôi đầy bất mãn và thất vọng , rồi nói rằng tôi lãng phí của giời, tôi là sao chổi không hơn không kém.
Tôi nhớ hình ảnh mẹ lúc bà đau đớn nhất và thấy mình vô dụng đến nhường nào.
Tôi đã cố gắng niêm phong tất cả những ký ức đó trong một thời gian dài. Tôi giỏi việc đó lắm. Tôi cần phải làm thế, bởi hễ cứ gỡ bỏ lớp cảnh giới xuống , và cho những ký ức đen tối đó trào ra, tôi liền hối hận.
Ví như lần đầu tôi tham gia một giải chạy siêu bền. Ngay từ khi xuất phát, tôi đã sợ hãi. Từng dặm đường , từng giờ trôi qua, tôi bắt đâu nghi ngờ bản thân mình.
Tôi là ai mà dám đứng ngang hàng với tất cả những vận động viên hiểu rõ mình đang làm gì?
Tôi đang nghĩ gì mà dám liều mình chạy 30 dặm khi chưa qua huấn luyện?
Tôi có ngốc không mà nghĩ mình có thể về đích?
Những câu hỏi đó vừa vang lên, trong đầu tôi đã có câu trả lời.
Anh chẳng là gì cả.
Anh đúng là một thằng vô tích sự.
Anh sẽ không bao giờ về đích được đâu.
Cách đích 4 dặm, tôi đã chứng minh những câu đáp đó hoàn toàn đúng. Tôi bỏ cuộc.
Đó là câu chuyện của vài tuần trước khi tôi tham gia giải chạy siêu bền đa chặng đầu tiên. Giải Kalahari cự li 155 dặm. Chính là thử thách mà Lucja xem đầu tiên trong cuốn sách tôi mua tặng cô ấy vào sinh nhật năm ngoái. Mấy ngày liền, sau khi tôi chính thức ghi danh, giọng nói ngờ vực ngày một lớn hơn. Bạn bè hỏi tôi thực sự chạy được xa thế à. Với họ, một thằng vô tích sự như tôi thì làm sao chạy nổi 30 dặm. Tôi tin họ không sai.
Sao tôi lại nghĩ mình có thể làm được chứ?
Tôi chẳng là gì cả.
Tôi là một thằng vô tích sự.
Tôi không bao giờ làm được việc gì ra hồn.
Thế nhưng , có điều gì đó đã lặng lẽ xảy ra giữa cuộc đua 30 dặm và Giải Kalahari. Tôi ước gì mình có thể dõng dạc tuyên bố tôi là người có tài hay tôi đã qua huấn luyện chuyên nghiệp, giống như trong bộ phim yêu thích nhất của tôi, Rocky.
Nhưng tôi không thể.
Chỉ là tôi đã quyết định đành nỗ lực phớt lờ hết những lời mắng mỏ tôi là kẻ thất bại.
Bất cứ khi nào những lời thầm thì độc địa đó vang lên trong đầu tôi, tôi chọn cách tự kể cho mình một câu chuyện hay.
Tôi có thể làm được.
Tôi không phải kẻ thất bại.
Tôi sẽ chứng minh cho mọi người thấy họ đã sai.
Chuyến bay rời khỏi Bắc Kinh sẽ cất cánh vào đêm Giao thừa. Cả ngày hôm ấy, tôi dọn sạch căn hộ, đưa Gobi đi bộ và chào tạm biệt những người bạn trong nhà hàng Nhật. Gần như ngày nào, họ cũng cho tôi thưởng thức món kim chi cay nồng , sushi, salad, và trao tôi tình bạn. Thậm chí, họ còn pha cho tôi một chai dầu giấm riêng mà lần nào đến tôi cũng thèm.
Tối đó, trong lúc chờ Kiki đến căn hộ đón chúng tôi, Gobi linh cảm thấy có chuyện sắp xảy ra. Cô nhóc lưu luyến không rời, chạy vòng quanh căn hộ trống. Cuối cùng , khi rời khỏi tòa chung cư, Gobi “chạy té khói” về phía xe của Kiki.
Tôi bình thản hơn.
Tôi chỉ ngồi nhìn theo những ngọn đèn đường vụt qua, nghĩ về người và chốn gắn bó với chúng tôi trong suốt bốn tháng bốn ngày sống ở Bắc Kinh.
Chúng tôi đi qua phòng tập gym của khách sạn, nơi tôi cố gắng kiên trì tập luyện đúng cường độ. Tôi nhớ đến những lần rớt mạng chỉ sau một tiếng lướt giải trí. Điều đó khiến tôi cảm thấy mệt mỏi, nhưng cũng chỉ thế thôi. Nó đánh dấu sự thay đổi của tôi, tôi đã học được cách tha thứ.
Và còn Little Adoption Shop, nơi Chris làm việc, cũng là nơi chúng tôi quyên góp 10.000 đô la còn thừa của quỹ Bring Gobi Home. Nếu không có Chris và lời khuyên chân thành mà anh ấy cho Lu Xin, có lẽ chúng tôi sẽ không bao giờ tìm thấy cô nhóc. Không nhờ Chris, ai biết giờ này Gobi đang lưu lạc phương trời nào?
Tôi điểm lại từng người tôi đã gặp ở Bắc Kinh, cũng như Urumqi. Phải chia xa những con người tử tế ấy thật khó. Quãng thời gian sống ở Trung Quốc đã thay đổi hoàn toàn cách nhìn nhận của tôi về đất nước và con người nơi đây.
Thành thực mà nói, lần đến Trung Quốc tham dự Giải đua Gobi, đánh giá của tôi về người Trung Quốc có chút rập khuôn. Tôi vốn nghĩ họ hoặc khép kín và nghiêm cẩn, hoặc thô lỗ và thờ ơ. Trong chuyến đi đầu tiên, từ thành phố Urumqi cho đến cuộc đua, tôi đã chỉ thấy ở người ta những gì tôi đã mường tượng. Chẳng trách tôi chẳng có ấn tượng gì về chốn này. Nhưng chuyện xảy ra với Gobi đã thay đổi cách nghĩ của tôi. Giờ thì tôi đã biết người Trung Quốc đáng yêu, chân thành và hiếu khách. Một khi họ mở cửa trái tim với bạn, họ mời bạn vào nhà, thì tức là họ cực kì hào phóng và tốt bụng. Thời gian sống ở Bắc Kinh, một gia đình không quen biết, chỉ mới nghe qua câu chuyện về Gobi, đã cho tôi mượn một chiếc xe đạp điện trị giá 1.000 đô. Họ không đòi hỏi gì cả, kể cả chụp ảnh với Gobi.
Con người ở Urumqi cũng thế. Mặc dù đâu đâu trong thành phố cũng có camera giám sát và lính canh bên ngoài các công viên, nhưng người dân lại thân thiện, bao dung và ấm áp nhất trong số những người tôi từng biết. Kịp quen biết họ trước khi trở về là vinh hạnh của tôi.
Sau đó là Kiki. Cô ấy đã đồng ý giúp đỡ chúng tôi trong khi những người khác đều nói không. Cô ấy đã đích thân đến Urumqi để chắc chắn Gobi xuất cảnh an toàn. Bốn tháng nay, cô ấy ở Bắc Kinh cùng chúng tôi, luôn thấp thỏm lo lắng và lo toan đủ đường, không chỉ cho Gobi mà cả tôi nữa. Tôi gọi cô ấy 24/7 để hỏi đủ thứ câu hỏi (Trả thêm tiền điện như thế nào? Gobi thấy không khỏe. Tôi phải làm sao? Mua khẩu trang chống ô nhiễm ở đâu?) Kiki chưa từng kêu bận, kêu mệt mỗi khi tôi hỏi, hay than phiền mỗi khi tôi nhờ cô trông Gobi mấy ngày trong khi tôi ra khỏi thành phố. Thậm chí, cứ hai giờ, cô ấy lại gửi một video để tôi tiện cập nhật tình hình xem các nhân viên của cô ấy nựng Gobi. Đội của cô ấy luôn sẵn sàng hỗ trợ khi tôi cần. Các tài xế trong đội chở chúng tôi đi khắp nơi, chở đồ tiếp tế đến căn hộ cho tôi, lo việc giấy tờ và vô số thứ nhỏ nhặt khác. Họ làm nhiều hơn cả những gì tôi yêu cầu.
Chúng tôi dừng xe bên ngoài sân bay, mở cốp xe lấy đồ, nhân tiện cho Gobi nghỉ ngơi một chút trước khi nhốt cô nhóc vào một chiếc lồng chó đặc biệt. Cô nhóc sẽ ở trong đó suốt hành trình bay.
Luật pháp của Anh quy định không được cho chó lên khoang hành khách trong bất kì chuyến bay nhập cảnh và xuất cảnh nào. Từ lần Gobi tổn thương vì bị nhốt trong khoang hàng hóa trong chuyến bay rời Urumqi, tôi thề sẽ không bao giờ để cô nhóc xuống đó lần thứ hai. Như vậy có nghĩa là hành trình về nhà của chúng tôi sẽ dài dằng dặc và rắc rối hơn nhiều: trước hết là chuyến bay kéo dài mười tiếng đến Paris, năm giờ lái xe đến Amsterdam, rồi mười hai tiếng đi tàu vượt biển đến Newcastle, miền Bắc nước Anh, và thêm hai tiếng rưỡi lái xe nữa để về Edinburgh. Nếu tính cả thời gian chờ, thì tổng hành trình sẽ kéo dài bốn mươi mốt tiếng.
Bên cạnh đó, chúng tôi sẵn sàng trả thêm tiền đặt ghế hạng thương gia để Gobi được thoải mái và ngồi kế bên tôi trong khoang hành khách. Vừa bước lên quầy soát vé là đến lượt mình liền nên tâm trạng tôi khá tốt. Tôi xuất trình hộ chiếu cho nữ nhân viên trực bàn, lùi lại và ngẫm xem cuộc đời Gobi đã cải biến chừng nào. Cách đây sáu tháng , cô nhóc lang thang ở rìa sa mạc Gobi, mang theo khát khao sống , chạy ba chặng marathon cùng với một kẻ lạ mặt là tôi. Giờ đây, cô nhóc sắp ngồi ghế hạng thương gia bay đến một thành phố xa hoa nhất trong các thành phố, Paris.
Tôi sực tỉnh khi nghe thấy Kiki to tiếng với nữ nhân viên người Trung Quốc ở quầy thủ tục xuất hành. Suốt quãng thời gian ở Trung Quốc, tôi đã nghiệm ra một điều: khi nào đôi bên to tiếng với nhau, tức là rắc rối đến. Tôi nhắm mắt lại, chỉ nghe thôi cũng đủ biết lớn chuyện rồi.
“Chuyện gì thế, Kiki?”
“Anh đã đặt chỗ cho Gobi trên chuyến bay chưa?’
Nghe thế, không khí quanh tôi như đông lại. “Tôi chưa,” Tôi đáp. “Tôi tưởng cô đặt.”
Kiki lắc đầu. “Tôi tưởng Lucja đặt rồi.”
Kiki quay lại quầy bán vé để nói chuyện tiếp.
Tôi gọi cho Lucja.
“Em đã đặt chỗ cho Gobi chưa?”
“Chưa. Em tưởng Kiki đặt chứ.”
Giờ thì rõ rồi. Đơn thuần là một hiểu lầm giữa hai người họ. Nom có vẻ họ đã phải lo quá nhiều việc từ hai đầu thế giới nên đã bỏ sót chi tiết nhỏ nhặt này. Tôi cứ tưởng chuyện này dễ ợt ấy mà. Có lẽ sẽ hơi tốn kém nhưng không khó.
“Kiki,” tôi vừa vỗ vai cô ấy vừa nói. “Hỏi họ xem mất bao nhiêu, chúng tôi có thể lo được.”
Cô ấy lại lắc đầu. “Chị ấy nói không thể. Giờ không thêm Gobi lên hệ thống được nữa. Chuyện này bất khả thi.”
Tôi nhắm mắt lại để điều hòa nhịp thở.
Hít vào, thở ra. Bình tĩnh, Dion. Bình tĩnh nào.
Một nhân viên quầy vé khác nhập cuộc, nâng âm lượng lên gấp đôi. Kiki đã hoàn toàn nổi xung, hết chỉ vào Gobi lại chỉ vào tôi. Ấy thế mà tôi chẳng thể làm gì ngoài đứng đây và thầm sợ hãi.
Tất cả giấy tờ nhập cảnh cho Gobi đều được căn trước theo đúng lịch trình chuyến đi. Điều đó có nghĩa là nếu chúng tôi không có mặt ở Newcastle vào đêm ngày 2 tháng Một, thì mọi giấy tờ đều vô hiệu, và tôi phải đưa Gobi đi khám lại, rồi xin xác nhận của một bác sĩ thú y khác. Nếu gặp may thì chỉ chậm một, hai ngày. Trường hợp xấu nhất, hành trình có thể kéo dài thêm một tuần nữa.
Nhân viên thứ ba đến sau bàn làm việc. Khi ông ấy xuất hiện, bầu không khí bỗng thay đổi hẳn. Không còn tiếng ồn ào nữa. Chỉ có Kiki nói và ông ấy nghe.
Sau khi nghe hồi đáp từ cấp trên, Kiki quay sang tôi. “Gobi chưa đặt chỗ chuyến bay này,” cô ấy nói. Tôi biết tiếp đến chuyện gì sẽ xảy ra. Chúng tôi sẽ phải tốn thêm một khoản đặt chuyến bay tiếp theo cho cô nhóc.
“Anh đến quầy đằng kia,” Kiki vừa nói vừa chỉ vào quầy vé của hãng Air France bên cạnh. “Mất 200 đô la. Ông ta nói họ sẽ cho Gobi lên máy bay.”
Tôi choáng váng. “Chuyến bay này á?”
“Đúng vậy.”
Tôi không chần chừ thêm nữa. Tôi trả phí ở một quầy khác rồi quay lại đúng lối lên máy bay của mình.
“Tôi đã nói với họ là Gobi là một chú chó nổi tiếng ,” Kiki cười nói trong lúc chờ đợi. “Họ biết câu chuyện và muốn tạo điều kiện giúp anh.”
Sau khi tôi cất hộ chiếu và thẻ xuất hành vào ví, thì đến màn chụp ảnh lưu niệm và chơi đùa cùng Gobi của nhân viên quầy thủ tục xuất hành.
Tại đó, tôi chào tạm biệt Kiki, rồi di chuyển qua cửa an ninh. Tận khi đó, tôi mới trút bỏ hết tấn áp lực trên mình.
“Xin chờ một chút,” một người phụ nữ chen ngang lúc tôi mới xỏ chân vào giày. “Mời anh đi theo anh kia.”
Tôi ngước lên thì thấy một người đàn ông mặt mày nghiêm trọng đang đứng bên cạnh máy quét nhìn tôi chằm chằm. Tôi túm lấy Gobi lúc này vẫn ở trong túi và hành lý rồi đi theo anh ta xuống một hành lang hẹp. Anh ta mời tôi vào một căn phòng trống trải, không có cửa sổ, không có gì nhiều ngoài một cái bàn, hai chiếc ghế, và một cái thùng lớn đầy bật lửa và chai nước bị tịch thu.
Bình tĩnh, Dion. Bình tĩnh.
Anh ta xem hộ chiếu và thẻ xuất hành của tôi rồi bắt đầu đánh máy. Vài phút trôi qua, anh ta không hé răng nửa lời. Tôi băn khoăn không biết mình có nói gì hay làm gì tự chuốc phiền phức hay không. Thị thực của tôi vẫn còn hạn. Tôi mới phỏng vấn được vài tuần thôi. Hay là do mấy viên thuốc an thần Lucja đưa cho tôi để cho Gobi uống trên chuyến bay nhỉ?
Tiếng bàn phím lạch cạch. Căn phòng chìm trong yên lặng. Rồi, bỗng , anh ta lên tiếng. “Chúng tôi phải kiểm tra chú chó.”
Lòng tôi chùng xuống. Tôi biết mà. Làm gì có cái giá 200 đô rẻ bèo như thế chứ. Kiki đã đi rồi. Mặc dù có đem theo cả một tập giấy tờ giày cộp từ chỗ bác sĩ thú y, bao gồm giấy chứng nhận tiêm chủng còn hiệu lực và phiếu đánh giá sức khỏe chín mươi ngày theo yêu cầu trước khi được phép xuất cảnh sang Anh, thì tôi cũng hoàn toàn không có cơ hội giải thích bất cứ điều gì với bất cứ ai. Không có Kiki, tôi đành nhờ vào lòng khoan dung của bộ máy chính quyền Trung Quốc.
Anh chàng kia ngừng đánh máy, nhấc điện thoại lên và nói chuyện một hồi.
“Anh chờ một chút,” anh ta nói, ngay sau đó cúp máy và trở lại với cái bàn phím.
Gobi vẫn ở trong chiếc túi tôi đang ôm trong lòng.
Qua vải lưới, tôi thấy cô nhóc đang ngước lên nhìn tôi. Tôi muốn an ủi Gobi rằng mọi chuyện sẽ ổn thôi, tôi muốn đưa nó ra ngoài và tặng nó một cái ôm - vừa trấn an cô nhóc vừa trấn an bản thân - nhưng lúc này không đáng để liều lĩnh như vậy.
Nên tôi đợi. Đây là phút dài nhất trong đời tôi.
Điện thoại reo. Tôi nghe câu được câu chăng , nên không rõ họ đang nói gì hay kết luận gì.
“Được rồi,” cuối cùng anh ta nói. “Chú chó được phép bay. Anh đi được rồi.”
“Đi đâu cơ?” Tôi hỏi. “Máy bay.”
Tôi vội trở lại hành lang , đi qua máy quét và đến ga cuối. Chọn một cửa chưa có người ngồi, tôi ngồi xuống và đưa Gobi ra để cho cô nhóc uống nước. Tôi nghe mấy người Pháp bên cạnh đang đếm ngược và reo hò. Tôi xem đồng hồ. Nửa đêm rồi. Năm đáng nhớ nhất trong đời tôi vừa đi qua. Chuyến phiêu lưu tiếp theo sắp sửa bắt đầu.
“Nghe đi, Gobi,” tôi nói với cô nhóc. “Mày nghe thấy không ? Chúng ta làm được rồi! Quá đã! Chúng ta đã làm được. Chúng ta sắp bay. Sẽ là một chuyến hành trình dài đây. Nhưng tin tao đi, tất cả đều đáng giá. Đến Edinburgh rồi mày sẽ thấy cuộc sống tuyệt vời biết bao.”
Hãng Air France đảm bảo ghế bên cạnh tôi trống. Mặc dù vậy, Gobi vẫn phải ở trong túi suốt chuyến bay, nên chúng tôi bay theo cách riêng. Cô nhóc cứ động đậy không yên lúc máy bay cất cánh, nhưng khi tôi đặt túi lên đùi, cô nhóc mới ngồi yên trở lại.
Tôi vừa xem bản đồ đường bay vừa chờ đến khi máy bay bay qua sa mạc Gobi. Khi thấy Urumqi xuất hiện chớp nhoáng , một nụ cười chậm rãi hé nở trên gương mặt tôi. Một thành phố mà một năm về trước tôi chưa từng nghe tên nay đã trở thành một phần đặc biệt trong tôi.
Dưới ánh đèn mờ ảo trong khoang , những người bạn đồng hành cùng tôi dần chìm vào giấc ngủ. Tôi hạ ghế xuống thành giường , rồi lặng lẽ đưa Gobi ra khỏi túi. Cô nhóc hơi cựa quậy không yên, nhưng chỉ chốc lát sau đã cuộn tròn trong vòng tay tôi, ngủ say.
Tôi nhắm mắt và hồi tưởng lại cảm giác của một ngày đua dài. Tôi thấy quanh tôi nóng hừng hực, cái nóng thiêu đốt hai lá phổi. Tôi thấy Tommy đang liêu xiêu và cảm giác tuyệt vọng lúc tìm bóng râm. Tôi nhớ mặc dù chếnh choáng , buồn nôn và sợ mình không thể sống sót, nhưng tâm niệm rằng nếu tôi còn sống , tôi chắc chắn sẽ làm mọi thứ có thể để đồng hành cùng Gobi trong phần đời còn lại.
Tôi không kìm được nước mắt khi gặp lại Lucja ở sân bay Charles de Gaulle. Còn Gobi ấy hả, cô nhóc đã nhịn tiểu suốt mười bốn giờ liền nên giờ không nhịn nổi nữa. Tôi có mang theo bỉm chó con và dỗ cô nhóc dùng tạm nhưng cô nhóc không chịu. Chỉ khi đứng trên sàn nhà bóng loáng giữa sảnh chờ, cô nhóc mới buông thả.
Tôi tin chắc quãng đường về nhà còn lại sẽ suôn sẻ thôi. Vì thế, chúng tôi nhân tiện ghé vào thành phố một chuyến để Gobi được ngắm nhìn Tháp Eiffel và Khải Hoàn Môn. Sau đó, chúng tôi đi về hướng bắc đến Bỉ, rồi đến Amsterdam và đến nhà của cô chú và anh chị em họ Lucja.
Thấy họ hào hứng khi gặp Gobi lần đầu khiến tôi nhớ lại phản ứng của dân tình khi nghe câu chuyện về Gobi vào năm 2016. Một năm của những hung tin, từ sự ra đi mãi mãi của những người nổi tiếng đến các cuộc tấn công khủng bố. Thế giới bị chia rẽ bởi chính trị. Thế nhưng , qua những bình luận mà tôi đã đọc, vẫn còn rất nhiều người coi Gobi là một trong số ít câu chuyện tốt đẹp, làm sống dậy lòng tin của họ về nhân tính. Trong một năm tăm tối của đau thương và nỗi sợ hãi, câu chuyện về Gobi nổi lên như một nguồn sáng.
Sau khi tắm táp và nghỉ ngơi, Lucja, Gobi và tôi tạm biệt gia đình và khởi hành đến bến tàu ngay gần nhà. Nhà tàu có quy định chủ vật nuôi phải để vật nuôi trên xe hoặc nhốt chúng trong chuồng nuôi trên tàu. Tôi không thể làm thế với Gobi. Phải mất mấy tuần liền Lucja mới thuyết phục được nhà tàu phá lệ cho chúng tôi mang theo Gobi vào khoang hành khách.
Thế là tôi đã nghĩ chuyến bay đã suôn sẻ như thế rồi thì chúng tôi sẽ ổn. Chuyện lên tàu cũng sẽ trót lọt thôi nhỉ?
Hẳn thế. Ừ thì đúng là có trót lọt. Nhưng không hoàn toàn. Khi chúng tôi xuất trình hộ chiếu của Gobi ở bàn đăng ký, thì bầu không khí thay đổi hẳn. Nữ nhân viên sau quầy trầm mặc lật hết trang này sang trang kia, mặt lộ vẻ bối rối.
“Chị có cần giúp gì không ?” Lucja ngỏ lời bằng tiếng Hà Lan. “Chị đang tìm gì thế ?”
“Tôi không đọc được chữ trên hộ chiếu này,” chị ta đáp. “Toàn chữ Hán. Không đọc được thì tôi không thể cho mọi người lên tàu.”
Chị ấy gọi cấp trên, hai người họ lại lật từng trang lần nữa. “Chúng tôi không ai biết chữ Hán hết,” cấp trên nói. “Anh chị không thể lên tàu.” Lucja đã nghiên cứu đủ thứ yêu cầu cần thiết để đưa một chú chó qua biên giới trong mấy tuần liền, nên cô ấy nắm rõ các quy định. Lucja hết sức bình tĩnh và thận trọng chỉ cho họ xem con dấu chứng tỏ đã tiêm chủng , nhưng không ích gì. Họ kiên quyết không đổi ý. Mà nếu đợi họ đổi ý thì Gobi cũng bị kẹt lại ở Hà Lan rồi.
Rồi tôi nhớ ra đống giấy tờ mà Kiki đã đưa cho tôi để xuất trình ở trạm kiểm soát biên giới của Anh. Nội dung giấy tờ vẫn như cũ nhưng bằng tiếng Anh. Tôi lấy toàn bộ giấy tờ ra, nhìn họ xem xét từng loại giấy tờ một lượt thật cẩn thận rồi nghe họ thảo luận.
Cuối cùng , vài phút sau, họ mỉm cười và đóng dấu vào hộ chiếu của Gobi. Chúng tôi được phép lên tàu.
Sáng hôm sau, lúc lái xe xuống tàu, tôi và Lucja lo lắng nhìn nhau. Liệu chúng tôi có bị chặn ở trạm kiểm soát biên giới của Anh không nhỉ ? Chẳng may họ phát hiện thiếu sót trong giấy tờ và gửi Gobi tới London để cách li kiểm dịch thêm lần nữa thì sao? Chúng tôi tiến đến gần trạm, họ bắt tay rồi bất ngờ vẫy tay cho đi thẳng. Không kiểm tra giấy tờ. Không hạch sách. Không trì hoãn. Gobi đã có mặt ở Anh.
Xe chúng tôi chậm rãi chạy về hướng bắc, thẳng tiến Scotland, băng qua đồi trũng và cánh đồng hoang. Tôi thơ thẩn nghĩ về lời hứa giữa tôi và Gobi. Sáu tháng để biến một lời hứa thành hiện thực. Tôi nghĩ về tất cả những nhà hảo tâm giúp đỡ chúng tôi trang trải kinh phí, những tình nguyện viên tìm kiếm không kể ngày đêm, và những lời nhắn nhủ, động viên, cầu nguyện cho chúng tôi từ khắp nơi trên thế giới. Người biến lời hứa đó thành hiện thực đâu phải riêng tôi, mà là thứ sức mạnh tập thể đến từ những con người giàu lòng yêu thương và rộng lượng.
Hồi tưởng lại khiến khóe mắt tôi cay cay. Thế giới này vẫn là một nơi hiền hòa và nhân ái.
Chúng tôi lái xe xuyên đồi, rồi nhìn không chớp mắt. Hành trình về nhà dài đằng đẵng đã đến hồi kết. Cả Edinburgh đang hiện ra trước mắt. Arthur’s Seat - ngọn núi sừng sững đứng gác cho thành phố - phía đông là biển, phía tây là dãy Pentland. Một ngày đẹp trời, không chỉ vì có bầu trời xanh, không khí trong lành, mà còn vì hôm đó là sinh nhật bốn mươi hai tuổi của tôi.
Một ngày tuyệt vời bởi một lý do duy nhất.
Chúng tôi đang ở bên cạnh nhau.
Trên đường vào thành phố, trong xe im ắng nhưng tâm trí và trái tim chúng tôi thì reo hò. Xe rẽ vào dãy phố chúng tôi ở, tôi mới nhận ra mình vẫn chưa thử nghĩ xem mình sẽ cảm thấy thế nào khi bước vào nhà với cô chó nhỏ phi thường này kẹp dưới nách.
Tôi chưa dám nghĩ đến điều đó vì bản thân tôi không dám tin sẽ có ngày này. Tất thảy những dối trá, sợ hãi, lo âu đã đè nặng lên vai tôi. Tôi không dám với tới thứ niềm tin xa xỉ rằng chúng tôi sẽ làm được.
Nhưng khi cửa mở, nhìn thấy những người bạn tốt và người thân bên trong , nghe tiếng bật nắp sâm panh, và tiếng reo hò của những người đến chung vui với chúng tôi, tôi mới biết chính xác cảm xúc đó là gì.
Như thể dấn thân vào một cuộc phiêu lưu mới tuyệt vời vậy.
Những ngày bận rộn tiếp theo nhắc tôi nhớ về quãng thời gian ở Urumqi. Một đoàn làm phim của đài truyền hình đã cất công bay từ Úc sang đây để ghi lại khoảnh khắc chúng tôi trở về nhà và phỏng vấn tôi. Ký giả từ khắp nơi trên thế giới gọi điện đến - có người tôi quen, có người tôi chưa từng trò chuyện. Họ đều muốn biết Gobi vượt qua những khó khăn trong hành trình về nhà như thế nào và cuộc sống của cô nhóc hiện tại ra sao.
Tôi kể với họ Gobi đã thích ứng với cuộc sống mới nhanh như thế nào, rồi chuyện cô nhóc lập đội với chú mèo Lara, đồng sở hữu chiếc sô pha trong phòng khách. Gobi, một người truyền cảm hứng , đã vượt qua chuyến hành trình đúng như cách cô nhóc đương đầu với những thử thách nảy sinh từ khi chúng tôi gặp nhau. Tôi nói với họ rằng tôi tự hào về cô nhóc.
Nhưng câu chuyện chưa dừng lại ở đó. Phải một danh sách dài mới liệt kê hết điều tôi muốn nói về Gobi, và những thay đổi mà hành trình đi tìm Gobi đem lại cho tôi còn dài hơn nữa - nhất là khi tôi nhận ra cuộc sống mới chỉ mới bắt đầu.
Đương nhiên, cũng có những câu hỏi mà chỉ Gobi mới biết câu trả lời: Tại sao cô nhóc lang thang trên dãy Thiên Sơn? Tại sao cô nhóc chọn tôi? Chuyện gì đã xảy ra khi cô nhóc bị lạc?
Điều có ý nghĩa nhất đến tận bây giờ là: đời tôi đã khác kể từ giây phút tôi nói đồng ý với Gobi. Gobi đã làm nên điều khác biệt. Cô nhóc góp thêm những điều tốt đẹp vào cuộc sống của tôi và chữa lành những vết thương.
Chấn thương ở hông của Gobi đã lành hẳn. Lông bị cạo để phẫu thuật đã mọc lại. Cô nhóc không còn kêu ré lên vì đau mỗi lần ai đó vô tình chạm vào vết thương nữa. Lúc đi trên đất xốp, thi thoảng cô nhóc sẽ nhấc nhẹ chân lên. Bác sĩ thú y ở Edinburgh nói đó là do thói quen tránh dồn trọng lượng sang bên hông bị thương. Lúc Gobi và tôi chạy trên đồi hay trên đường mòn, cô nhóc chạy bon bon và đuổi kịp cô nhóc thì khó y như hồi ở sa mạc Gobi vậy.
Đêm đầu tiên quây quần trong nhà, cả Gobi và Lara đều rúc dưới chân giường , ngôi nhà chìm trong bầu không khí tĩnh lặng quen thuộc. Lucja quay sang tôi và lặng lẽ hỏi xem sáng mai tôi muốn làm gì. Chúng tôi không có kế hoạch gì cả, vài giờ tới toàn bộ thời gian đều là của chúng tôi.
Tôi biết chính xác mình muốn gì. Tôi ghé xuống nhìn Gobi rồi quay sang nhìn Lucja.
“Cả nhà ta cùng chạy nhé.”