Phố Khâm Thiên im lìm, thu mình đương đầu với cái giá rét đầu mùa đông; đằng hãng dầu Shell vắng vẻ, hướng Ô chợ Dừa cũng vắng vẻ. Mọi gia đình, những người không phận sự đã tản cư hết. Phía 36 phố cổ rộ lên tràng tiểu liên Sten khơi mào rồi nhiều cờ súng, kể cả súng cối ran ran mãi không thôi. Quân ta và quân Pháp đang đánh nhau to ở mạn đó.
Bất chợt, từ đường Hàng Lọng, một người to béo hớt hải chạy rẽ vào phố Khâm Thiên; phía sau, một chú bé chừng mười lăm tuổi, tay giơ cao thanh kiếm Nhật dài ngoẵng, vừa đuổi theo vừa hô:
- Đứng lại!
Chú bé là Quỳ Thắng liên lạc viên thuộc trung đội công an xung phong bảo vệ khu vực Khâm Thiên do Tùng Sơn chỉ huy.
Gã bị đuổi là một tên Đại Việt từng làm ở Phòng Nhì Pháp đang tìm đường về với chủ, gã lén lút lò dò đến ga Hàng Cỏ thì gặp Quỳ Thắng. Quỳ Thắng xuất thân từ chú bé bán lạc rang láu lỉnh, suốt ngày lang thang hết phố này đến phố khác, va chạm với nhiều hạng người, đối đầu với nhiều tình huống nên cũng có thể coi là đã từng trải. Chú được lệnh của trung đội trưởng Tùng Sơn ra cửa Nam hỏi tiểu đội công an xung phong chốt ở đó về tình hình địch. Trên đường về chú gặp gã to béo đáng khả nghi vì cách đi không đàng hoàng của gã. Đi về phía này chỉ là quân ta hoặc quân địch, gã béo phệ kia đi đứng lén lút, hẳn không phải là quân ta rồi. Chú liền chống kiếm đứng chắn đường hỏi:
- Đi đâu?
Tên Đại Việt phản động giật mình đứng sững lại. Nó thấy đối thủ của mình là một chú bé, ngó trước nhìn sau không có ai liền làm ra vẻ hùng hổ trừng mắt quát:
- Tránh ra! Muốn chết hả?
Quỳ Thắng biết mình đang đối đầu với hạng người nào liền giơ cao thanh kiếm sáng loáng phạt chéo bên phải, phạt chéo bên trái rất đúng tư thế võ sĩ Nhật.
- Tao phang cổ mày, thằng Việt gian!
Từ Việt gian thời này nặng nề, xấu xa lắm; người công dân nước Việt Nam độc lập chỉ ghê tởm thứ hạng: Việt gian. Dấn thân vào con đường Việt gian theo Tây hại nước nhà mà bị dân bắt được thì chỉ có chết. Tên Đại Việt gian manh biết tình thế vừa tránh vừa lùi rồi bất ngờ quay đầu chạy thục mạng vào phố Khâm Thiên.
Thằng béo chạy nhanh quá, Quỳ Thắng phải ráo riết đuổi theo. Tới giữa phố Khâm Thiên, Quỳ Thắng thấm mệt, chú đứng sững chống kiếm thở hổn hển.
- Mày chạy lên mây! - Doạ dứt, chú nghển cổ gọi- Có Việt gian, Trung đội trưởng ơi!
Từ ngôi nhà hai tầng, một người tầm thước da ngăm ngăm, mặt vuông chữ điền, mắt to mày lưỡi mác bước ra, đó là Tùng Sơn - chỉ huy công an xung phong phòng thủ ở đây. Tùng Sơn quan sát biết sự thể liền móc còi rúc một hồi báo động. Từ hai dãy nhà bên đường túa ra sáu anh đội viên, người cầm súng, người kéo lê mã tấu... Tên Việt gian biết đã lâm nguy không dám liều lĩnh chạy thêm, gã đứng sững giữa đường như trời trồng.
Anh tiểu đội trưởng công an xung phong khoác ngang ngực khẩu Sten không đạn bước đến đứng trước kẻ chạy trốn, nâng cằm gã lên quan sát rồi phẩy tay cau mày nói:
- Thằng Tạo ác ôn trốn thoát trong vụ Ôn Như Hầu đây mà! - Anh đợi trung đội trưởng Tùng Sơn đi tới, nói tiếp - Đáng lẽ nó phải đền tội từ ngày triệt phá hang ổ quỷ ấy.
Một anh đội viên mặt to mày xếch cầm dao găm bước sấn lên nói với chỉ huy:
- Bố em bị bọn Ôn Như Hầu giết hại. Xin Trung đội trưởng giao cho em khử thằng khốn nạn này!
Quỳ Thắng động kiếm chêm vào:
- Gì chứ Việt gian thì quyết không thể tha. Anh cho phép, em đâm liền.
Tùng Sơn biết nhiều chiến sĩ mình mang nợ máu với giặc, chí ít cũng căm giận bọn đang tâm theo giặc chống lại quê hương đất nước. Từng xảy ra vài trường hợp, có người lợi dụng lúc hỗn loạn đã tự ý trừ khử bọn Việt gian tay sai. Nhưng, công an có kỷ luật của công an, công dân phạm tội có pháp luật của Nhà nước, không thể tuỳ tiện xử lý theo tình cảm của mình. Anh làm mặt nghiêm, bảo:
- Giết người là việc hệ trọng, không bao giờ được cẩu thả. Giải hắn ra hậu phương để Chính phủ xét xử.
Nói với anh em đơn vị xong, Tùng Sơn quay về trụ sở Ban chỉ huy trung đội đặt tại trai phòng chùa Linh Ứng. Ngay đêm ấy, anh nhận được lệnh bàn giao trung đội cho chính trị viên chỉ huy để bổ sung cho ủy ban tản cư. Thu - vợ anh công tác ở Ban nghiên cứu chủ nghĩa Mác(1) đã dẫn con theo cơ quan lên căn cứ Việt Bắc. Anh làm việc trong ủy ban tản cư nhằm giúp đồng bào Hà Nội tản cư đến chỗ mới ổn định nơi ăn chốn ở và anh hy vọng có cơ hội gặp vợ con. Nhưng số phận không đặt anh vào chiếc ghế Khu trưởng, sự nghiệp kháng chiến đòi hỏi anh ở sự cống hiến khác. Và hoàn cảnh kháng chiến cũng không cho anh có dịp gặp lại vợ con, kể từ ngày tiếng súng chống Pháp nổ ở Hà Nội.
(1)Thời kỳ đầu cách mạng tháng Tám. Do điều kiện lịch sử, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố giải tán và đổi tân thành Ban nghiên cứu chủ nghĩa Mác.
*
Rừng núi Sơn Dương âm u huyền bí, xanh mượt một màu, văng vẳng đây đó tiếng chim hót, tiếng nai tác, tiếng mõ trâu gõ nhịp. Mạng đường mòn chằng chịt núp dưới rặng bương, vầu, nứa... luồn qua rừng cây đại thụ, trườn bên sườn đồi, men theo bờ suối toả ra nhiều hướng; lối về Thái Nguyên, ngả đi Tuyên Quang, nẻo xuôi bến Bình Ca... Gió leo qua Đèo Khế, ào xuống lướt trên trảng cỏ lau, thốc sang tận chân núi Hồng, ùa tới bản Lê, lướt qua bản Yên, lùa vào từng căn nhà xóm Tỉn Keo - một trong các bản doanh của cơ quan đầu não kháng chiến.
Trong căn nhà sàn nằm nép bên sườn đồi, ông Nhân ngồi sau chiếc bàn mộc đang cắm cúi làm việc, bỗng đứng dậy, vừa đi về phía cửa vừa nói với Hữu Chính - thư ký riêng của ông:
- Không thể coi thường “anh chàng” này.
Hữu Chính nhìn thủ trưởng khép cửa, anh nhận thấy mình phải làm việc ấy thay cấp trên thì đúng hơn. Anh liên hệ tới thứ gió cắt da cắt thịt mà câu thơ của nhà thơ Tố Hữu gợi ra: “Gió từ Yên Thế gió sang”. Biết mình phản ứng chậm, anh chữa khéo:
- Thưa anh! Đây chưa hẳn đã là “gió Tố Hữu”.
Ông Nhân khẽ lắc đầu. Câu nói “có văn hoá” ấy lại chứng tỏ bệnh chủ quan. Chớ coi thường tín hiệu ban đầu, cẩn thận là cách phòng xa hợp lý nhất. Ông chợt nhớ tới những chiến sĩ dãi dầu ngoài sương gió, hỏi:
- Anh Chính này! Việc cung cấp quân trang Thu Đông cho bộ đội, Hậu cần lo tới đâu?
- Thưa anh! - Hữu Chính đáp - Tôi vừa nhận được thông báo năm nay Tổng cục cung cấp làm ăn phong độ lắm: cấp mới một trấn thủ, hai bộ quần áo Thu - Đông; chăn đắp cũng được cải thiện, chưa có thì phát mới, rách thì đổi.
Ông Nhân vừa thong thả bước về chỗ ngồi vừa nhận xét:
- Thế thì tốt! Để anh em ăn mặc đói rách mãi là có tội.
Chợt, anh giao thông cơ quan leo lên thang, bước vào nhà, đứng nghiêm theo tư thế bộ đội.
- Báo cáo anh! Người bên Nha liên lạc(2) đã tới.
(2) Tên bí mật của Cục Tình báo chiến lược.
Anh cán bộ mới đến là Hà Ngọc, khổ người thấp hơi đậm, dáng đi nhanh nhẹn và có cặp mắt khá lanh lợi. Anh là người thật thà, tính tình chu đáo, quan tâm đến bạn bè như quan tâm đến chính bản thân mình, những vụ việc liên quan tới quyền lợi của riêng anh, anh thường dễ bỏ qua. Hà Ngọc vốn là tỉnh uỷ viên tỉnh H.Y giữ chức bí thư huyện uỷ huyện M.H, bất ngờ được điều sang làm công tác tình báo. Anh phụ trách tổng hợp tình hình địch thuộc Cục tình báo chiến lược. Những cuộc báo cáo định kỳ lên Trung ương đều do đích thân Cục trưởng thực hiện, thỉnh thoảng dẫn Hà Ngọc cùng đi. Lần này, Phan Trần - Cục trưởng xuống Liên khu Ba, Trần Mười - Cục phó vào Nam công tác, Hà Ngọc đi thay. Chuyến đầu tiên một mình trực tiếp báo cáo công việc với Trung ương, Hà Ngọc cảm thấy hồi hộp. “Các cụ” hỏi vào vấn đề mình không nắm vững thì gay go quá. Gặp cụ Tô thì càng hắc búa. Thấy ông Nhân ngồi ở bàn làm việc, Hà Ngọc như trút được gánh nặng. Ông Nhân vốn người sắc sảo, nhưng ít nói, rộng lòng bao dung và không bao giờ nóng giận với ai. Nói chuyện với anh, người đối thoại có ấn tượng như đang tiếp xúc với người bạn chu đáo, người anh hiền thuận, người thày độ lượng.
Ông Nhân lắng nghe cấp dưới báo cáo, thái độ từ chăm chú ngả sang đăm chiêu. Nghe xong, ông chậm rãi hỏi:
- Này, cái yếu nhất về chính trị của Ngụy quyền hiện nay là cái gì?
Điều mà Phòng nghiên cứu tình hình lo ngại đã xảy ra, Hà Ngọc thoáng lúng túng rồi đáp một cách chung chung:
- Thưa anh! Cái yếu về chính trị của chúng thì nhiều lắm...
Có lẽ ông Nhân không nỡ để cấp dưới lâm vào thế bí, ông đỡ lời:
- Tôi hỏi cái yếu nhất kia - Ông đưa mắt nhìn ra xa, nói tiếp: - Cái yếu chính của nó là... À, mà thôi. Để các anh nghiên cứu, suy nghĩ rồi báo cáo cho Trung ương biết. “Ba anh thợ giày trở thành một ông Khổng Minh”. Nhớ phải có đề nghị các biện pháp khai thác, khoét sâu cái yếu của chúng. Phải biết biến cái yếu của chúng thành mầm mống suy sụp. “Biết mình biết địch, trăm trận trăm thắng”.
Hà Ngọc được cấp trên cất cho một gánh nặng tưởng là gay go bằng tấm lòng độ lượng. Nhưng, chính vì thế mà anh cảm thấy áy náy không yên.
- Thưa anh! Chúng tôi sẽ thu thập thêm tư liệu và bàn bạc với nhau...
Ông Nhân ôn tồn nhận xét:
- Trong báo cáo của các anh đề cập hơi nhiều về tình hình thế giới, các anh có ý giúp Trung ương mặt này, Trung ương cảm ơn. Nhưng báo chí công khai của thế giới, Trung ương cũng có nhiều. Vậy nói đến thế giới, các anh chỉ nên tập trung vào những vấn đề của thế giới có liên quan đến Việt Nam, mà chủ yếu bây giờ là Pháp và Mỹ - Ông ngừng giây lát rồi nói tiếp - Lúc này tay sai thân Pháp dựa vào Pháp nhiều, nhưng Mỹ là kẻ có tiềm lực đang đứng đằng sau giật dây và sẽ đóng vai trò quan trọng hơn. Xu thế thân Mỹ, làm tay sai cho Mỹ sẽ nhiều hơn. Phải hướng vào xu thế đó mà điều tra, nghiên cứu, triển khai lực lượng.
Hà Ngọc thẩm nghĩ: Mới giữa năm 1948 mà các cụ đã tiên đoán “Mỹ can thiệp vào Việt Nam”? Ý tưởng viển vông hay “Một người lo bằng kho người tính”?
Tùng Sơn rời Thanh Hoá đi bộ qua Cầu Bố, tới Rịa tạt vào quán ăn đĩa khoai lang luộc, uống bát nước chè tươi rồi đi tiếp tới Nho Quan thì nghỉ chân, vì ngạc nhiên chứ không phải vì mệt. Mấy năm trước anh đi qua đây - ngã ba Nho Quan nằm bên sông Hoàng Long im lìm, vắng vẻ... chỉ lèo tèo dăm mươi mái nhà tranh ẩn mình dưới những gốc cây lớn mọc ven đường, vài chục hộ dân sống nhờ rừng và mấy vạt nương. Bây giờ, san sát hai bên đường nhà liền nhà, quán kề hiệu. Từ ngày kháng chiến toàn quốc bùng nổ, người Hà Nội, người Thành Nam tản cư đến tiếp tục hành nghề kinh doanh ở thành phố, các loại dịch vụ bung ra: Quán cà phê Thủ Đô, hàng phở Pín, quầy tạp hoá Thành Nam, hiệu ảnh Ánh Sáng Đỏ; Một ông chủ tiệm trồng răng ở Hà Nội có sáng kiến mở thêm dịch vụ “Đánh răng đen thành trắng...”. Các cửa hàng này chủ yếu phục vụ các anh bộ đội, các chị cán bộ và dân buôn hàng lậu giữa hai vùng tự do và vùng địch kiểm soát; người đông, nhu cầu nhiều, hàng hoá thực phẩm dần dần trở nên phong phú: hàng nông lâm thổ sản từ rừng núi và vùng thôn quê xung quanh mang đến, hàng xa xỉ phẩm hoặc vật dụng thiết yếu do cánh buôn lậu tải từ thành phố ra. Không những thế, Nho Quan còn là một cửa khẩu thông thương giữa căn cứ Việt Bắc với Khu Bốn, Khu Năm...
Tùng Sơn chọn quán nước chè có địa thế quan sát khắp phố để nghỉ. Anh gọi mua bao thuốc lá Cẩm Thuỷ, vừa hút thuốc vừa ngắm cảnh để so sánh sự đổi thay. Một thị trấn đông vui được hình thành bởi cuộc kháng chiến gian khổ! Tính cách Việt Nam cũng được xác định qua cuộc chiến đấu giành độc lập, tự do này. Tự dưng, anh cảm thấy trào dâng trong lòng mình nguồn sức mạnh muốn cống hiến, muốn vươn tới. Anh đứng dậy, xốc ba lô, bước rảo qua cây cầu bắc ngang sông Hoàng Long rồi rẽ sang ngả đường đi Xích Thổ, Chi Nê.
Chi Nê, Đầm Đùn là nơi rừng thiêng nước độc, xưa kia ít người dám trú ngụ. Bây giờ lại là nơi tụ hội các cơ quan quan trọng hoặc nơi giấu quân lý tưởng của các đơn vị bộ đội.
Tùng Sơn đến Chi Nê vào buổi chiều. Người đón anh là Bá Đoan cựu Đội trưởng đội công tác đặc biệt thuộc sở Liêm phóng Hà Nội. Bá Đoan dẫn Tùng Sơn vào ngôi nhà ép mình dưới vòm núi đá. Minh Tạ - Trưởng trạm 5 thuộc Cục tình báo chiến lược đang nằm trên võng thấy khách vào liền chồm dậy hết bắt tay lại vỗ vai khách, cử chỉ cởi mở và hoan hỉ:
- Anh nghỉ vài ngày cho lại sức rồi sẽ tính chuyện công tác.
Tùng Sơn ở trong ngôi nhà không ra đến ngoài cửa, cơm bưng nước rót, không một người lạ nào lai vãng.
Sau mấy ngày, Minh Tạ tới hỏi thăm tin tức gia đình vợ con rồi vào đề:
- Trên chỉ thị lo chống Mỹ kịp thời không thì muộn. Cục đang tìm người không ra thì anh Bá Đoan giới thiệu anh. Khi biết anh, chúng tôi mừng quá. Công tác cách mạng nào cũng là công tác, mong được anh hợp tác. Trước đây, anh là con dao pha của Ban công tác đặc biệt; bây giờ lãnh đạo Cục hy vọng anh làm rạng rỡ cho ngành điệp báo.
Tùng Sơn khiêm tốn:
- Tôi biết gì về nghề điệp báo mà làm. Anh Bá Đoan đã nói quá về tôi. Minh Tạ không hoan nghênh sự khiêm tốn ấy. Anh cười nói tiếp:
- Chúng ta vừa buông tay cày tay búa là cầm ngay súng đánh Pháp, thế mà khiến bọn Lê dương nhà nghề thua liểng xiểng. Mọi sự khởi đầu nan, vừa học vừa làm, có quyết tâm ắt có thành quả.
Tùng Sơn đáp:
- Thật ra bản lĩnh của tôi chỉ vỏn vẹn là không giấu dốt và có quyết tâm. Minh Tạ gật đầu tỏ ý hài lòng:
- Thêm tố chất “Cảnh giác cao” thì... Thôi, anh đồng ý nhận nhiệm vụ là tốt rồi. Thực tế chiến đấu là ông thầy hoàn hảo nhất. Anh tiếp tục trình bày những vấn đề cần thiết đối với người sắp sửa nhập thành: Tình hình Hà Nội, thành tích của các đơn vị Biệt động thành. Chỉ một vấn đề ấy mà trao đổi suốt một ngày. Sau hai ngày, Minh Tạ đến trao đổi tiếp kế hoạch nhập thành.
Văn Đặng - Trưởng Ty Thương binh N.B là con rể Đoàn Thi. Đoàn Thi là chân tay đắc lực của Tống Trấn Bắc Việt Nghiêm Xuân Thiêm, quan hệ của Đoàn Thi rất rộng. Vợ chồng Đoàn Thi không con, nuôi một cô gái làm con nuôi, cưng chiều chẳng khác con đẻ. Họ gả cho Văn Đặng với điều kiện phải ở rể. Khi ấy Văn Đặng đang làm ở Sở Bưu điện Hà Nội. Vợ sinh con đầu, anh đón mẹ đẻ đến trông cháu, đẻ tiếp hai con nữa. Cả nhà suốt ngày vui như hội, nhất là hai ông bà già Đoàn Thi. Kháng chiến bùng nổ, cả nhà tản cư rồi cả nhà hồi cư, chỉ riêng Văn Đặng ở lại vùng tự do tiếp tục công tác. Tùng Sơn và Văn Đặng “dinh tê” vào Hà Nội với danh nghĩa cùng công tác ở Ty Thương binh, Văn Đặng về với gia đình, Tùng Sơn đi tìm vợ con thất lạc. Tùng Sơn tạm tá túc ở nhà Văn Đặng cũng tức là nhà Đoàn Thi; Cục sẽ có chỉ đạo trực tiếp. Quy ước liên lạc là X Hàng Bạc vào ngày mười lăm hàng tháng. Để che giấu tung tích, Văn Đặng đặt tên cho Tùng Sơn là Bùi Nguyễn, sinh quán tại Thanh Oai - Hà Đông - quê Đoàn Thi.
Tùng Sơn sinh ra từ làng gốm cổ truyền Thanh Trì, nhưng không theo nghề của cha ông mà làm thợ sắp chữ ở nhà máy in Sênh Sang Hà Nội. Ở đó, anh quen Thu - một nữ công nhân nhà ở phố Khâm Thiên. Hai người lấy nhau đã có một con trai đặt tên là Tuần Thắng. Hồi đầu kháng chiến anh làm Khu trưởng Thanh Sơn, chủ yếu giúp bà con Hà Nội tản cư ổn định nơi ăn chốn ở. Năm sau, anh chuyển về ủy ban kháng chiến Khu Tư, công việc đang đi vào nền nếp, thì phái viên Cục tình báo chiến lược đến đón đi. Ngày ấy, bất kể sự điều động nào của cấp trên cũng được cấp dưới chấp hành tuyệt đối có lẽ vì thế mà sau này có câu hát: “Đâu có giặc là ta cứ đi...”
*
Hai người thâm nhập vào tới Vân Đình thì bị lính đồn chặn bắt. Thằng lính da đen cao lêu đêu, mặc quần áo nhà binh màu xám đeo lủng liểng trước ngực khẩu tiểu liên Tôm- sơn, lộp cộp bước ra, giương mắt quạu mặt hỏi:
- Vẹm?(3)
(3) Danh từ bọn Pháp chỉ người kháng chiến Việt Minh.
Tùng Sơn hiểu gã da đen hỏi hai người có phải là Việt Minh không, anh giả đò không biết, chỉ đưa mắt nhắc Văn Đặng ứng phó. Văn Đặng đáp bằng tiếng Pháp:
- Chúng tôi không phải là Việt Minh! Chúng tôi cần gặp ông Đồn trưởng.
Giọng Văn Đặng nói tiếng Pháp rất tốt, sang sảng, rành mạch, lưu loát... nói mà như hát khiến thằng Tây Coóc Đồn trưởng phải từ trong đồn chạy ra. Nhìn thấy hai chàng quần nâu áo vỏ già, hắn sẵng giọng, nói như gà kêu:
- Quoi?(4)
(4) Cái gì? Gì thế?
Văn Đặng tiến lên một bước, trình bày các quan hệ nhân thân và nhờ Đồn trưởng báo cho văn phòng Tổng trấn biết.
Thằng Đồn trưởng nhận lời, phẩy tay một cái rồi quay gót bước vào đồn. Cái phẩy tay của gã Tây Coóc có giá trị như một mệnh lệnh: “Tạm giữ”. Chiều hôm sau, hai người được cấp giấy vào Hà Nội. Họ cuốc bộ đến tối mới tới Hà Đông, đành tạt vào nhà quen nghỉ qua đêm. Văn Đặng gọi điện về nhà. Sáng sau, Đoàn Thi cho xe công tác ra đón họ về Hà Nội.
Văn Đặng được cả nhà đón mừng, chẳng khác gì trẻ nhỏ đón ông già Nô-en trong dịp lễ Giáng sinh. Bọn trẻ quấn lấy bố, đứa giật áo, đứa nắm tay, đứa ôm chặt cổ; ba bà già đứng vòng quanh nghiêng ngả, ngắm nghía... mắt bà nào cũng đầm đìa lệ.
Đoàn Thi ngắm con rể xong, quay sang khách:
- Miễn thứ! Mong anh miễn thứ!
Tùng Sơn nói theo chiến thuật tâm lý, mở đầu cho một tình huống mà sau này anh sẽ khai thác:
- Cháu ước mong có cuộc đoàn tụ gia đình cảm động và vui vẻ như thế này.
Văn Đặng kịp thời vượt qua khỏi làn sóng chầm vập thân tình, anh bước về phía bố vợ giới thiệu sơ bộ:
- Thưa cậu và hai mợ! Anh Nguyễn bị lạc gia đình từ ngày bùng nổ tiếng súng, anh ấy về Hà Nội để tìm vợ con.
Trước cảnh tan dàn xẻ nghé, ai cũng xúc động, nhất là chính họ cũng đã trải qua năm tháng mong ngóng nặng nề. Bà Cả Đoàn Thi sốt sắng lên tiếng trước:
- Vậy thì anh cứ ở đây... cái kim dưới đáy biển chịu bỏ công tìm cũng có thể tìm được.
Đoàn Thi gật đầu. Con rể về, cả nhà đoàn tụ, ông vui lắm. Khi niềm vui tràn ngập tâm hồn thì người ta bao dung hơn, nhân hậu hơn. Ông nói tiếp lời bà:
- Việc phải lo đầu tiên là làm giấy tờ cư trú cho hai toa. Ổn định việc ấy rồi chưa đủ, còn cần ổn định việc làm mới có thể thủng thẳng dò la tìm hiểu. Hai toa cứ nghỉ ngơi cho bõ những ngày gian khổ trèo đèo lội suối, cơm nắm muối rang... moa sẽ lo xếp đặt công việc. Cái gì cũng phải tuần tự.
Ngày thứ hai, Văn Đặng dẫn vợ con đi chơi. Tùng Sơn xin phép Đoàn Thi đi tìm người quen để hỏi tin tức vợ con. Anh muốn lợi dụng cớ này để thâm nhập Hà Nội thời chiếm đóng, nhưng anh cũng không dám đi xa, vì lo bất chợt chạm trán bọn Đảng phái phản động từng bị anh truy bắt.
Ngày quy ước liên lạc đã tới, Tùng Sơn đến X Hàng Bạc. Chủ nhà tiếp đón niềm nở. Anh yên tâm nói tín hiệu nhận nhau. Anh nói chưa hết mật ngữ, chủ nhà đã xua tay như xua ruồi:
- Ông thứ lỗi! Tôi không có thì giờ...
Tùng Sơn miễn cưỡng quay ra. Tại sao bị từ chối nhỉ? Mình nhầm mật ngữ chăng? Không! Hay vào nhầm nhà? Không, đúng là X Hàng Bạc rồi! Vậy thì mình đang có đuôi chăng? Anh làm vài động tác nghi binh để có thể kín đáo quan sát phía đầu và cuối phố. Một gã đàn ông đeo kính đen, đội mũ phớt thấy Tùng Sơn quay về phía hắn liền giả tảng tạt vào hàng. Chà, cái đuôi sù quá! Nhưng, giời hỡi giời... Tùng Sơn vừa bước vừa tự đay nghiến mình, sao có thể vụng về, khờ khạo tới mức dẫn mật thám đến nhà đồng chí mình. Cần phải có biện pháp đối phó để bảo vệ cơ sở và bảo vệ mình.
Tùng Sơn về nhà với vẻ buồn rầu. Đoàn Thi đến công sở, chỉ có bà Cả ở nhà, anh chào bà bằng giọng lễ phép rồi thổ lộ tâm can bằng thứ giọng cải lương:
- Con chẳng thấy tăm hơi gì bà ạ! Nói dại...
Bà Cả Đoàn Thi nhìn Tùng Sơn, cố nén tiếng thở dài. Ở đời, không gì buồn bằng vợ một nơi chồng một nẻo, không gì đau đớn bằng xẻ đàn tan nghé... Hai người cùng vào Hà Nội để được đoàn tụ gia đình, một người gặp vợ con, bố mẹ... một người ngày ngày thui thủi đi tìm, càng tìm càng... Bà chép miệng, an ủi:
- Đừng nản, có chí thì nên, ly mãi rồi có phen hợp. Chiều nay ông về tôi bảo ông cho tài xế đánh xe đưa anh đi chơi cho khuây khoả.
Tùng Sơn hơi ngại đi đêm lắm có ngày gặp ma; nhưng không dám mạo hiểm thì cũng khó tìm được cơ hội tiếp cận với giới chức Ngụy quyền. Muốn tới đỉnh núi cao phải chấp nhận vượt qua hẻm đá chênh vênh.
Từ hôm đó, tài xế kiêm cận vệ của ông chủ tận dụng “cồng bà” thả cửa chở Tùng Sơn rong chơi khắp các phố phường. Tùng Sơn xã giao tốt, tính tình nhân hậu nên bọn tay chân của vị “trợ thủ đắc lực của Quan tổng trấn” đáp lại tương ứng; Họ thường lái xe đưa chàng tình báo vừa vào nghề đến các tiệm cà phê, phòng trà, ổ điếm... nơi tụ tập bọn mật thám và công chức bậc trung. Nhờ thế, Tùng Sơn quen khá nhiều nhân vật ở bên kia trận tuyến có người cho anh là con nuôi, có người thì cả quyết anh là cháu của vị quan lớn kia. Vậy là tốt, nhưng vẫn cần phải tranh thủ tình cảm của gia đình Đoàn Thi nhiều hơn nữa, nhất là bà Cả. Quan niệm của người già là hướng thiện và cởi mở, còn anh thì chân thành mong muốn nhận được sự giúp đỡ để thực hiện nhiệm vụ của mình.
Tùng Sơn biết Đoàn Thi có uy tín với giới chức Hà Nội, bà Cả Đoàn Thi rất nhân hậu nên có kế hoạch tâm lý chinh phục họ rồi dựa vào họ mà tạo thế chui vào hàng ngũ địch. Muốn tiếp cận người già thì không gì bằng gần gũi trìu mến bọn trẻ, được trẻ yêu ắt cả nhà quý lại, vậy nên bắt đầu từ lũ con của Đặng. Tùng Sơn gợi ý xa, bà Cả Đoàn Thi phát hiện gần:
- Ừ, anh nói đúng. Ở đời việc gì cũng cần nhưng học vấn là cái cần cơ bản. Các cụ bảo “dạy con từ thuở còn thơ...”. Tôi muốn, những lúc thư thư anh dạy thêm lũ con anh Đặng.
Tùng Sơn sốt sắng nhận lời. Từ đó, anh chuyên tâm kèm cặp lũ trẻ, một tuần chỉ ra ngoài một vài lần theo cách giữ lệ. Bọn trẻ mến thày nên học chăm, do đó sự học hành của chúng tấn tới trông thấy. Ngày nào lũ trẻ cũng có chuyện hay về bác Nguyễn khoe với ông bà. Cả nhà đều quý mến Tùng Sơn. Bà Cả ước ao:
- Ví phỏng Đặng được như Nguyễn thì hồng phúc biết mấy. Nam mô đại từ đại bi!
Bác Năm - người giúp việc gia đình vốn là em họ ngoại bà Hai Đoàn Thi, bác chăm chỉ, chất phác nhưng chậm chạp nên thường bị bà Hai mắng chửi; Bà Cả gàn nhưng không nổi đành “mặc chị em bà ấy cư xử với nhau”; Bác Năm được bà Cả thông cảm nên cũng mát lòng, bây giờ có thêm người nữa cảm thông cảnh ngộ hẩm hiu, bác thấy được an ủi. Cũng như bà Cả, Tùng Sơn không thể đổi thay cá tính cay nghiệt của bà Hai, nhưng anh có những lời an ủi, đông viên đủ sưởi ấm cõi lòng giá lạnh và làm mát dịu những tâm tư trầm uất nơi bà già chịu số phận trái ngang. Bà Năm mến rồi tin con người lòng dạ xởi lởi chân thành, bà năng giúp đỡ chăm sóc anh và nhất là sẵn sàng làm thứ công việc mà anh muốn bà làm.
Ở đời có nhiều nỗi khổ, nhưng không khổ nào bằng người tình báo được phái vào hậu phương giặc mà mất liên lạc với trung tâm. Vậy thì có khác gì ngồi trên con thuyền bồng bềnh trên sông mà không có mái chèo. Cần có kim chỉ nam, cần có chỉ thị công tác, nếu không quá trình vượt qua bao gian khổ trở về Hà Nội còn có ý nghĩa gì. Hàng Bạc từ chối liên lạc, anh sẽ ứng phó ra sao? Phải tìm cách liên lạc với trung tâm. Tùng Sơn không là Tôn Ngộ Không, cũng chẳng là cánh chim trời, anh chỉ có tấm lòng kiên trì và khả năng biến báo khi gặp tình huống bất ngờ. Sau ba lần đến Hàng Bạc bắt liên lạc bị từ chối, anh quyết định thực hiện một kế hoạch chủ động - phải nói nó là một giải pháp nguy hiểm. Anh sắp đặt cho bác Năm mượn cớ xin phép về quê một tuần giỗ chồng để ra vùng tự do liên lạc với trung tâm. Bác Năm một hai nhắc nhở Tùng Sơn yên tâm đợi kết quả tốt đẹp của chuyến đi. Nhưng một tuần, hai tuần rồi bặt vô âm tín. Tùng Sơn lại lo, lo bác Năm gặp rủi ro, lo bỏ dở dang công việc trung tâm trao cho mình. May không có chuyện gì xảy ra. Anh nhận thấy khai thác cơ hội và cầu may là hai tình huống khác nhau, không nên nhầm lẫn.
Thời gian trôi mau, việc liên lạc vẫn bế tắc. Chờ mong, hy vọng trong tuyệt vọng trở thành thứ hình phạt ngột ngạt. Con ngựa đóng yên cương nó chỉ muốn tung vó, con chim ra khỏi lồng, nó chỉ muốn vỗ cánh bay, nước tới chân không thể không nhảy. Tình hình đã đến thế này anh không thể thụ động ngồi chờ. Anh quyết định tìm một công việc tiếp cận vùng giải phóng rồi tuỳ cơ ứng biến. Anh viện cớ tìm vợ con để đi Sơn Tây, Hà Đông, Bắc Ninh... nhằm dò la cơ sở của ta.
Bà Cả Đoàn Thi là người sốt sắng nhất trong việc giục Tùng Sơn đi tìm vợ con. Mỗi lần thấy Tùng Sơn mặt ỉu xìu, trở về bà lại động viên:
- Nay không tìm thấy thì mai khắc tìm khắc thấy, đừng nản lòng.
Ông già nhiều vợ nhưng không con cũng ủng hộ người chồng chung thuỷ. Ông động viên Tùng Sơn bằng câu danh ngôn Pháp:
- Muốn là được!
Hồi này, Văn Đặng đã làm ở bưu điện, nhưng đốc chứng đua đòi bạn bè ăn chơi, cờ bạc, nhảy đầm... về nhà như đến nhà trọ, chẳng quan tâm đến ai, do đó mọi người không chầm vập gần gũi anh như hồi mới về. Ngược lại tính cẩn thận, chu đáo của Tùng Sơn lại được cả nhà hồ hởi tiếp nhận. Điều đó trở thành thuận lợi giúp anh thực hiện kế hoạch “bám chắc luồn sâu” của mình. Một hôm, Tùng Sơn trở về nét mặt nửa mừng nửa lo. Bà Cả không bỏ qua tình huống đáng quan tâm ấy. Bà ân cần tra gạn lý do.
Tùng Sơn làm như miễn cưỡng phải thổ lộ tâm sự:
- Thưa bà! Có người bảo gặp vợ con buôn bán qua đường Từ Sơn... Bà Cả sốt sắng ngắt lời:
- Vậy thì cứ Từ Sơn mà tìm!
Tùng Sơn làm ra vẻ khó khăn:
- Con nghĩ cũng không dễ bà ạ! Con...
Tùng Sơn đang nói bỗng ngừng lời vì thấy bà cả đưa mắt tìm kiếm, anh biết tính bà cả mỗi khi gặp chuyện thú vị hoặc khó xử thường ăn một miếng trầu liền đứng dậy đi lấy hộp trầu cau đưa cho bà. Được người đoán đúng ý mình, bà Cả vui lắm. Bà vừa nhặt trầu vừa nói:
- Tôi sẽ bảo tài xế trưa trưa đánh xe đưa anh sang Từ Sơn.
Tùng Sơn dự đoán có thể lấn dần để tiến tới mục đích buổi nói chuyện:
- Con thực không thể nào quên được sự cưu mang của ông bà đối với con. Nhưng... nghe người ta nói nhà con buôn chuyến nên năm thì mười hoạ mới qua Từ Sơn, việc tìm kiếm phải công phu lắm.
Bà Cả gom miếng trầu đưa vào miệng, bà quyết tâm giúp đỡ chàng trai có tấm lòng thuỷ chung thơm thảo. Bà nhìn ngước lên, hỏi:
- Vậy thì phải làm thế nào?
Tùng Sơn biết đã đến lúc đưa ra quyết định:
- Muốn tìm được nhà con chỉ còn cách tạm ra ở hẳn Từ Sơn. Nhưng ở Từ Sơn với danh nghĩa gì để không ai có thể gây khó dễ... Con muốn xin chân công an ngoài ấy, vị trí tác nghiệp đó giúp con tìm vợ con thuận lợi lắm; con không biết ông con có vui lòng giúp con không.
Bà Cả lau vội quết trầu rồi sốt sắng vơ lấy việc:
- Ối dào, khó gì đâu! Tôi nói một câu, anh nói một câu là đâu vào đó thôi mà! - Bà xua tay nói tiếp: - Thôi, thôi, không cần đến anh, việc đó để tôi thu xếp.
Đúng là bà Cả mới ngỏ lời, ông già nể vợ đã đồng ý ngay. Thực ra, thân phận Tùng Sơn đã nằm trong dự định sâu kín của Đoàn Thi. Ông biết vợ chồng ông ngày càng già yếu, vợ chồng ông không cần tiền của mà cần tình cảm. Tình cảm đằm thắm của con người đối với con người thì biết chừng nào là thoả. Văn Đặng ngày càng lún sâu vào con đường truỵ lạc, chỉ nghĩ đến chơi bời mà chẳng quan tâm đến gia đình; Ông bà đã quá già, có vẻ không còn đủ thời gian chờ tới lúc con rể tỉnh ngộ. Cõi lòng người già của ông đang hướng vào điều thiện và muốn làm việc tốt lành. Không những thế, ông đang muốn kiến thiết mối quan hệ thân tình ruột thịt. Dù sao thì... một giọt máu đào còn hơn một ao nước lã. Ông biết Tùng Sơn kiên trì tìm kiếm vợ con là điều đáng quý, đáng trân trọng. Ông tự hứa sẽ tạo điều kiện thuận lợi giúp anh. Ông lại nghĩ, thời buổi chiến tranh tao loạn này khó lường trước mọi điều. Giả sử điều rủi ro xảy ra, tất nhiên thâm tâm ông không muốn xảy ra điều rủi ro, ông sẽ kén cho “chàng trai hẩm hiu” ấy một cô vợ xứng đáng; đó là Son - cháu gọi ông bằng bác, con gái Đoàn Thiên Trưởng ty công an Bắc Ninh. Ồng quý Son như quý vợ Văn Đặng - con gái nuôi của ông. Ừ, muốn gì thì gì, trước hết phải tạo điều kiện cho Tùng Sơn đi tìm kiếm vợ con đã. Không thể làm điều thất đức.
Sáng hôm sau, Đoàn Thi đến văn phòng Tổng trấn gọi điện sang Nha Công an Hà Nội. Thông báo cần gặp xong, ông ra xe bảo tài xế lái xe đi. Giám đốc Nguyễn Đình Tại ra tận cổng cơ quan đón khách. Phụ tá Tổng trấn Bắc Việt chào xã giao, rồi nói:
- Moa có công chuyện phải phiền nhờ đến toa!
Đình Tại mời Đoàn Thi vào Văn phòng Giám đốc. Sau dăm phút trao đổi, Giám đốc Công an Hà Nội cười thoải mái:
- Chuyện đó có khó gì đâu. Đàn em chỉ mong có dịp được báo đáp ơn quan bác.
Tuần sau, Tùng Sơn nhận được công lệnh tuyển dụng làm Công an, tạm quyền Đồn trưởng đồn Từ Sơn thay Đồn trưởng cũ.
Đồn Từ Sơn thuộc tỉnh Bắc Ninh là một đồn giáp ranh, chuyên kiểm soát kinh tế, bắt hàng đem từ vùng tự do vào như chè, măng, nâu... và bắt hàng từ trong vùng địch chiếm ra như: thuốc tây, đèn pin, máy chữ, văn phòng phẩm... Thời kỳ này, vùng tự do thực hiện chủ trương bao vây kinh tế địch, nhưng thực tế chỉ cấm mang vào vùng địch những nhu yếu phẩm thiết yếu còn thì thả nổi và cấm đưa hàng từ vùng địch ra, nhưng cũng chỉ cấm “quá giang” những thứ xa xỉ phẩm; địch cũng thực hiện chủ trương cấm vận, nhưng chỉ cấm lấy lệ vì bọn chủ nhà máy muốn tiêu thụ sản phẩm. Rút cục, chính sách nửa vời của cả hai bên đã tạo cơ hội cho bọn buôn lậu sừng sỏ và bọn công an kiểm soát kinh tế tha hồ vơ vét. Tất nhiên, bà con ở vùng vành đai trắng bị mất đất không còn kế sinh nhai và các bà con nghèo ở vùng khác cũng tham gia mua bán hàng lậu để độ nhật - Chính những người nghèo này mới là miếng mồi ngon của bọn ác ôn kinh tế.
Tùng Sơn mới đến Từ Sơn một ngày mà đã phải nghe nhiều tiếng chửi bới, mạt sát của những người buôn thúng bán mẹt. Có bà đứng đằng sau anh nói bóng gió những câu hết sức độc địa nhưng không thể bắt bẻ được. Tùng Sơn thấy hay hay liền quay lại quan sát xem người đàn bà đáo để này tướng mạo ra sao mà có những lời nói chua cay ghê gớm đến vậy. Anh quan sát lướt mọi người, nhưng anh cảm thấy tâm tư xao động khi bắt gặp cái nhìn “như câu hỏi” của chị phụ nữ ngồi bình thản bên gánh cam. Cô gái bán cam chính là Liên cán bộ địch vận hoạt động ở Tứ Sơn đã hơn một năm nay. Thấy ông Đồn trưởng mới quay lại, có người lo thay cho người đàn bà lắm mồm; nhưng Đồn trưởng mới cười, khoa khoa tay như có ý hỏi: “Sao lại thế?” rồi quay về đồn. Hành vi ấy không qua mắt được các bà sành sỏi chuyện đời. Trông mặt và bắt hình dong, bộ mặt ấy không phải là bộ mặt ác ôn, nụ cười ấy không phải là nụ cười giả dối.
Tư chất nhân hậu đường hoàng của sếp đã khiến cánh lính ác ông “tâm phục” trong đó phải kể đến Chân Gôi, Thạch Sanh, Hổ vằn.
Hổ Vằn là tay anh chị biết chơi, biết sống... Hắn trầm trồ bảo Chân Gối:
- Anh cả đáng đồng tiền bát gạo giúp chúng ta không bị cơ nhỡ.
Điều quan trọng đáng kể là sếp mới đã lọt vào cặp mắt tinh tường của chị cán bộ địch vận trà trộn trong đám buôn lậu cò con. Thế rồi, đồng bệnh tương cầu, một tuần sau họ nhận ra tình đồng chí của nhau, tất nhiên chưa thể hết ngay điều nghi ngại.
Một hôm, Liên chủ động nói với Tùng Sơn:
- Bà con ở vùng giáp ranh nheo nhóc, khổ sở đủ đường. Mong anh Đồn trưởng nới tay cho bà con được nhờ.
Đồn trưởng Tùng Sơn có đủ yếu tố để tin, trước khi có quyết định cuối cùng, anh cần phải thử thách thêm nữa:
- Bắt hàng của đồng bào tôi không nỡ; không bắt được hàng lậu tôi sẽ mất chức Đồn trưởng. Tôi có kế hoạch thế này, tôi cho lính lục soát bắt hàng lậu vào ngày thứ hai, thứ tư và thứ sáu hàng tuần; các ngày khác chúng tôi không khám xét, bắt bớ mà chuyển sang làm nghiệp vụ khác. - Ngừng giây lát, anh dặn thêm: - Chị phổ biến cho bà con, coi như chị biết được bí mật chương trình làm việc của công an chứ không phải do tôi nói ra. Lộ chuyện này không những tôi mất chức mà còn có thể mất mạng đấy.
Kế hoạch “xé rào cho hươu chạy” thực hiện khá suôn sẻ. Bà con bị tịch thu mất nhiều hàng hoá ít giá trị, nhưng lại chuyển trót lọt những chuyến hàng có giá trị cao nên đổi đi bù lại vẫn lãi đáng kể.
Liên thay bà con ngỏ lời cảm ơn, có ý dò xét Đồn trưởng mới. Tùng Sơn biết, anh tự nhủ “Hãy biết vậy đã”.
Một hôm, Tùng Sơn đang ngồi trong văn phòng thì một công an viên xộc vào nói:
- Vợ Đồn trưởng Bảo an Bắc Ninh mang hàng lậu, chúng tôi đòi khám, mụ quyết không cho khám, hai thằng áp tải rất bặm trợn.
Đồn trưởng cũ và bà con buôn vặt ở đây rất sợ bọn con buôn “nhà binh” này. Chúng ỷ thế lấn lướt cả công an.
Tùng Sơn bước ra hiện trường, vừa nghĩ: Bỗng dưng vớ được cơ hội tự giới thiệu “một công an mẫn cán”, không những thế, còn bộc lộ khéo với “quân ta”.
Mụ buôn lậu mắt long lanh đứng chống nạnh trước những tải lớn, tải nhỏ, gánh mẹ, gánh con... hai gã áp tải phanh áo để hở bộ ngực vạm vỡ đầy những vết xăm trổ cũng đứng chống nạnh sau đống hàng. Cánh gồng gánh thuê chống đòn gánh đứng lố nhố. Nhân dân đến xem khá đông, nhiều tiếng xì xào râm ran.
Tùng Sơn chỉ đống hàng hỏi:
- Của ai?
Mụ buôn lậu đáp:
- Của tôi!
Đồn trưởng công an kinh tế nhíu mày hỏi:
- Hàng gì?
Mụ buôn lậu vẩy vẩy tay ra phía sau đáp:
- Tôi là vợ Đồn trưởng Bảo an Bắc Ninh!
Đồn trưởng công an kinh tế trừng mắt hỏi như quát:
- Hàng gì?
Mụ buôn lậu không có thế “chó cậy gần nhà” nên đổi giọng nhũn như con chi chi:
- Thưa anh có ít chè thôi ạ!
Đồn trưởng công an kinh tế rướn người gọi cánh công an trong đồn ra đoạn nói to:
- Đây là hàng quốc cấm! Mang hết vào đồn để lập biên bản!
Một giờ sau, hơn một tấn chè búp kèm theo biên bản được đưa ngay về Nha công an Hà Nội. Đêm ấy, Tùng Sơn nghĩ lại thấy sướng cái bụng.
Hôm sau, Tùng Sơn muốn tỏ sự mẫn cán của mình nên phái lính đi tuần tra các ngả đường từ vùng tự do vào Từ Sơn.
Chính lúc Tùng Sơn chỉ còn một người lính giữ đồn thì gã Đồn trưởng Bảo an Bắc Ninh dẫn 12 lính xuống đòi chè. Đòi không được, chúng đổ xô vào đánh Đồn trưởng Công an kinh tế, Tùng Sơn thân cô thế cô vừa đỡ vừa lùi... Nhân dân ùa vào can, có người đưa thân ra đỡ đòn cho ân nhân. Chị cán bộ địch vận - Liên huy động người mang đòn gánh, gậy gộc chạy đến.
Bọn Chân Gối, Thạch Sanh, Hổ Vằn đi tuần tra cũng kịp về ứng cứu. Hổ Vằn lên đạn toan bắn. Tùng Sơn xua tay ngăn:
- Cẳng đậu không luộc hột đậu.
Gã Đồn trưởng Bảo an sợ xảy ra xô sát đổ máu thì nguy to với cấp trên nên hô lính ngừng tay rồi kéo nhau về Bắc Ninh.
Trong rủi lại nảy sinh cái may. Từ cuộc xô sát ở Từ Sơn mà chị cán bộ địch vận - Liên hiểu “anh Đồn trưởng” hơn. Một hôm, nhân lúc vắng vẻ, Liên bảo Tùng Sơn:
- Em biết anh!
Tùng Sơn mừng thầm. Bao nhiêu công phu tìm kiếm, đây là tín hiệu đáng mừng, anh cười hỏi lại:
- Biết như thế nào?
Liên cười mỉm, nhìn đâu đâu, nói cũng đâu đâu:
- Biết tới mức em có thể dám thổ lộ với anh rằng em là Cán bộ địch vận.
Tùng Sơn đập mạnh tay nọ vào tay kia. Anh rất mừng vì linh cảm và sự phỏng đoán của anh không sai và Liên là chị cán bộ địch vận đáng tin có thể uỷ thác vụ việc quan trọng.
- Tôi nhờ Liên một việc quan trọng tới mức coi như tôi đặt sinh mạng tôi trong tay Liên. Tùng Sơn đã không uổng công tin cậy. Liên ra vùng tự do và đã dẫn Văn Văn - Cán bộ Cục tình báo vào Hà Nội, ẩn nhờ nhà quen ở Hàng Khoai rồi bố trí cho hai tình báo gặp nhau.
Tùng Sơn gặp Văn Văn chan hoà tình cảm đồng đội. Biết bao ngày lo toan biết bao công phu thiết kế dây liên lạc, bây giờ thì... bao bức bối, lo âu tan biến hết, anh có cảm giác như mây bay lên ngàn, nước tụ xuống biển. Anh đang hỏi han về các đồng đội thân quen lại nhảy sang việc Pháp nhảy dù ở khu Ba, thoắt cái lại vọt sang tình hình bộ đội; anh nắm chặt tay chao nắm đấm khi Văn Văn cho biết quân ta đã thành lập Đại đoàn chủ lực. Sau đó, anh kể tình hình triển vọng bám rễ của mình.
Văn Văn trao đổi công việc chính rồi dặn dò:
- Gia đình Đoàn Thi là điểm tựa tốt. Anh nên củng cố quan hệ tình cảm với họ để khai thác lợi thế, quan trọng lắm đấy. Anh nên có động tác nhớm trước để ít ngày nữa ra vùng giải phóng làm việc chừng một tuần.
*
Sau nhiều lần hỏi han, anh chồng thuỷ chung vẫn trả lời lững lờ giữ thế, bà Cả Đoàn Thi mẩm đoán vợ con Tùng Sơn có thể đã gập nạn ngay ngày đầu tao loạn; Do đó, bà nung nấu ý định tạo tổ ấm mới cho chàng trai tốt tính tốt nết mà ông bà đã trao đổi riêng với nhau. Bà ướm ý Tùng Sơn mấy lần, Tùng Sơn đều viện cớ để kéo dài ngày tháng. Nhưng không thể bám mãi vào lý do “con muốn ra mạn... xem sao” và cũng không thể nói sự thật “Vợ con con đang sống ngoài vùng kháng chiến”, vì nói thế thì có khác nào vạch áo cho bọn Phòng Nhì xem lưng. Một hôm, chắc đã nghĩ chín mùi, bà Cả Đoàn Thi bảo Tùng Sơn:
- Không lôi thôi gì nữa, việc ấy để tôi thu xếp!
Tùng Sơn lúng túng, lúng túng thực sự. Anh phụ bạc người vợ tấm cám thì anh còn ra hạng người gì nữa.
- Con..
Bà già tốt bụng không cho nói:
- Từ ngày đoán chắc anh không còn hy vọng tìm thấy chị và cháu, ông Đoàn Thi đã nhắm cho anh một chỗ, nó là cháu ruột chúng tôi, ông ấy quý con bé lắm. Ông thường nói với tôi sẽ kiếm cho nó một người chồng xứng đáng. Đừng làm vợ chồng già thất vọng.
Quả là Tùng Sơn mắc vào thế tiến thoái lưỡng nan: từ chối lòng tốt, phủ nhận sự quan tâm của con người quyền thế ấy hẳn anh chẳng thể nào nhận được sự giúp đỡ của ông để dễ dàng tiến vào vị trí thực hiện nhiệm vụ chiến đấu mà trung tâm giao cho anh; nhận lời thì không thể được, lương tâm người chồng, người cha, tư cách người cách mạng ngăn giữ, gàn quải anh. Chỉ còn một giải pháp duy nhất: anh ư hừ lấy lệ kéo dài thời gian rồi tính sau.
Thấy Tùng Sơn xiêu xiêu, ông bà Đoàn Thi ngồi xe đi Bắc Ninh. Khi về, ông hớn hở tuyên bố:
- Tout est fait!(5)
(5) Thế là xong
Mấy ngày sau, có lẽ có hẹn với nhà gái, ông bà lại đi Bắc Ninh toan lôi theo “chàng rể tương lai” nhưng Tùng Sơn từ chối khéo:
- Hôm nay con bận công vụ!
Ông già quyền thế không dùng quyền thế mà dùng tình cảm để giải quyết công việc nên dễ dãi bảo:
- Không sao! Có khi lại hay! Ở vùng ngoài có phong trào “vui duyên mới không quên nhiệm vụ”... Ông bố vợ hẳn hài lòng khi kén được chàng rể có chí khí.
Ông bà Đoàn Thi khấp khởi đi Bắc Ninh, khi về mang theo cả “nàng dâu tương lai”. Ông chỉ cô gái nói với Tùng Sơn:
- Tôi trao cho anh dẫn cháu Son đi thăm các đường phố Hà Nội.
Tùng Sơn chịu trận, vì nhiệm vụ cách mạng quan trọng, anh buộc phải chịu trận, về sau, vai trò tác dụng của anh trong vai điệp báo được đánh giá cao chính nhờ “trận thua” có điều kiện này.
*
Tùng Sơn đi bên Son như một anh chàng lơ ngơ, có dáng người hướng dẫn khách du lịch nhiệt tình chứ không phải tình huống đôi trai gái đang tìm hiểu nhau.
Son là cô gái Bắc Ninh đa tình và mạnh dạn. Nghe lời bố mẹ và bác Đoàn Thi, cô về Hà Nội xem mặt chồng và tìm hiểu tính nết của chồng. Không phải bây giờ mà từ lâu, bà Cả Đoàn Thi ra Bắc Ninh chơi đã chỉ cô nói với bố mẹ cô: “Chú thím để anh chị lo chuyện chồng con cho con bé này”. Khi biết bố mẹ và hai bác dàn xếp chuyện hôn nhân, cô vẫn dửng dưng như nghe chuyện của ai ấy. Mỗi lần đến chơi, hai bác lại nói thật nhiều về ưu thế, về tấm lòng của chàng trai lạ; cô nghe tiếng được tiếng không; rồi chăm chú lắng nghe... cô suy đoán, mường tượng, linh cảm thấy một lực thúc đẩy, hấp dẫn nào đó, hình như lòng cô chớm nở tình yêu, tình yêu rõ dần, mạnh dần theo ngày tháng, dù chưa gặp mặt ý trung nhân, lòng cô đinh ninh rằng đây là người chồng mà cô lựa chọn. Bây giờ đi bên Tùng Sơn, Son cảm thấy dường như số phận đã mở cửa cho cô nhìn thấy tương lai. Tương lai của cô rõ ràng gắn bó với người đàn ông này.
Tùng Sơn thấy nói mãi giọng điệu của anh hướng dẫn du lịch thì vô duyên quá, đã đến lúc đổi đề tài. Không chuyển sang đề tài chính mà cứ nói chuyện đâu đâu không phù hợp với tình huống, rất dễ làm mếch lòng những người đang làm chỗ dựa, điểm tựa nhập cuộc của anh. Ông bà Đoàn Thi đặt câu chuyện hôn nhân này thành vấn đề trọng tâm của gia đình từ mấy tuần rồi, bữa nay đưa Son về Hà Nội là muốn làm sáng tỏ điều đó. Anh phải thực hiện bước tiếp theo: lập kế hoãn binh rồi tuỳ cơ ứng biến.
Tùng Sơn chủ động chuyển đề tài bằng giọng thân mật:
- Lừa dối người mà mình quý trọng là điều xấu xa. Son phụ hoạ:
- Hiển nhiên rồi.
Tùng Sơn cố lấy giọng truyền cảm khi thổ lộ tiếp:
- Tôi đã có vợ và con!
Tùng Sơn nghĩ ông bà Đoàn Thi vẫn giấu chuyện riêng tư của anh nên anh thổ lộ chuyện này có thể khiến Son nản lòng mà duỗi ra. Chẳng ngờ, Son thản nhiên như không:
- Hai bác cũng đã nói riêng với em!
Tùng Sơn ngoảnh nhìn Son với vẻ ngạc nhiên:
- Vậy sao...
Son ngắt lời Tùng Sơn bằng tiếng thở dài, cô nhìn xuống bước chân, nhìn ra xa:
- Bác kể anh đã tốn bao công phu tìm chị và cháu. Tấm lòng ấy quý lắm. Em quý anh khi nghe hai bác nói chuyện về anh. Em linh cảm thấy người chồng mà em nương tựa chính là anh.
Tùng Sơn ngắm nhìn Son, sự hiền dịu, đoan trang và ngay thẳng bao hàm cả trên khuôn mặt xinh đẹp sáng sủa của cô... khuôn mặt này, giọng nói ấy toát ra tính cách chân phương, đằm thắm. Dòng nước trong xanh, ấy là dòng nước mát; quả cam vàng óng, ấy là quả cam ngọt. Anh có thể đặt niềm tin ở cô, nếu tri giác đánh lừa anh thì âu đành là sự phá lệ đắt giá:
- Tôi không thể lừa gạt Son. Thực ra, một người hàng xóm cũ hồi cư về Thành bảo vợ con tôi vẫn còn sống ở vùng tự do.
Sự “thực ra” này của Tùng Sơn cũng không phải là điều anh nói thật cả. Cụ thể là Văn Văn đã báo tin cho anh biết vợ anh cũng đã được thuyên chuyển sang Công an, cũng công tác chung một Ngành với anh và đã hồi cư về Hà Nội trú ở phố Khâm Thiên, ngụy trang bằng nghề thợ may. Vì yêu cầu công tác trên không muốn anh sớm gặp vợ con, chị cũng có công tác của ngành giao nên anh cần phải giữ cự ly an toàn. Mục đích việc anh thành thực thổ lộ với Son rằng anh đã có tin tức vợ con là nhằm cởi bỏ cuộc tình gán ghép này một cách êm thấm có hậu, mong nhận ở Son sự thông cảm với hoàn cảnh éo le thời loạn lạc. Không ngờ, Son chẳng đắn đo gì mà nói ngay như cô đã dự kiến mọi tình huống có thể xảy ra. Cô nói theo sự hiểu biết và suy nghĩ của mình:
- Đúng là duyên phận.
Son rút mùi xoa lau nước mắt. Cô nghẹn ngào không nói lên lời.
Tùng Sơn lật đật cầm tay cô gái đa cảm. Son rút tay khỏi tay Tùng Sơn rồi lại nắm lấy tay anh mà giật giật:
- Anh có lòng thương em thì cho địa chỉ để em viết thư cho chị. Em cần tạ lỗi với chị, xin chị cho em làm chị làm em. Nếu anh thấy nên, em sẽ ra hẳn vùng kháng chiến tìm chị.
Tùng Sơn không ngờ Son là cô gái mạnh mẽ đến thế. Son coi quan hệ vợ chồng là một đạo lý, một bổn phận chứ không thuần tuý là sự hấp dẫn nam nữ. Son có tấm lòng ấy, anh không thể phụ Son.
- Tôi không phải là người vô tình, tôi không bao giờ phụ bạc những người đã đem lòng thương yêu tôi. Nếu Son có lòng ấy, hãy từ từ để tôi thu xếp.
Son cúi đầu nhìn xuống tỏ ý chấp nhận. Tùng Sơn băn khoăn thổ lộ nỗi lo lắng:
- Tôi có lỗi giấu chuyện đã biết tin tức vợ con nên ông bà Đoàn Thi mới khuôn xếp chuyện của chúng ta. Bây giờ chuyện vỡ ra...
Son hiểu ý nhanh nên ngắt lời luôn:
- Anh nghĩ xem con gái hơ hớ đứa nào chịu cảnh lẽ mọn, nói ra ê chề với bọn bạn, khốn khổ với bố mẹ, các cụ biết đâu duyên phận em phải chung chồng mới đứng được. Tóm lại, chuyện chị còn ở trên chiến khu chỉ anh và em biết thôi.
*
Ngày quy ước liên lạc đón Tùng Sơn ra vùng tự do đã tới. Tùng Sơn xin phép ông bà Đoàn Thi vào Hà Đông ăn giỗ. Sau khi xếp đặt chuyện vợ chồng giữa Tùng Sơn với Son đứng như sở nguyện, ông bà Đoàn Thi rất vui, ông bà đều cảm thấy tình cảm của mình đối với Tùng Sơn thay đổi, nó chan hoà ánh sáng như mặt trời ló ra khỏi đám mây. Ông bà coi Tùng Sơn như con mình nên sẵn sàng đáp ứng những yêu cầu của anh; bà sắm sửa đồ lễ để Tùng Sơn đi ăn giỗ tươm tất và hợp phong tục.
Khi Tùng Sơn xách đồ lễ lên đường, Đoàn Thi dặn dò:
- Thời buổi loạn lạc, cẩn thận giữ gìn.
Tùng Sơn đến điểm hẹn, người liên lạc phổ biến những điều cần thiết rồi hai người lên đường ngay, hướng về cửa ngõ ngả thị trấn Thanh Sơn. Một trận càn ác liệt của Pháp đang triển khai ở phía trước - suốt từ Thanh Sơn đến sông Đáy. Họ rẽ ngang, đi theo đường vòng, không ngờ gần tới Thanh Sơn thì dẫm phải bãi mìn. Một quả mìn nổ, cả hai cùng bị thương nặng và bất tỉnh. Khi tỉnh họ mới biết mình đã được cáng lên bệnh viện Nhã Nam. Anh liên lạc bị thương nặng quá nên chết ngay đêm đó. Sau hai mươi ngày điều trị vết thương chưa lành hẳn, bệnh viện vẫn cho cáng Tùng Sơn xuống Thanh Sơn. Hôm sau, Tùng Sơn ra xe vào Hà Nội. Anh xuống xe rồi ngồi xích lô về nhà.
Đoàn Thi nhìn Tùng Sơn thấy mặt mũi nhợt nhạt, ngạc nhiên hỏi:
- Sao vậy?
Tùng Sơn nói thác bị bệnh thương hàn nên về chậm. Đoàn Thi không tin, toan căn vặn thì bà Cả bước tới gạt chồng ra bên, vừa ngắm Tùng Sơn vừa suýt xoa:
- Rõ khổ chưa?
Bà chỉ “nạn nhân”, nói với chồng:
- Cháu ông thế này ông chẳng hỏi thuốc thang mà toàn lục vấn chuyện đâu đâu.
Tùng Sơn tưởng được yên nào ngờ Trưởng phòng chính trị Vũ Đình Lý ra lệnh bắt anh vì lý do bỏ nhiệm sở ra vùng Việt Minh, rồi cho tại ngoại hậu cứu. Đoàn Thi gọi điện chất vấn Vũ Đình Lý, nhưng ông đuối lý vì khó biện minh cho sự vắng mặt hàng tháng của Tùng Sơn.
Bà Cả Đoàn Thi lừ chồng, nói khích:
- Ông chịu để cho cái án ấy treo lơ lửng trên đầu thằng Nguyễn à?
Đoàn Thi dang rộng hai tay tỏ ý bất lực. Tùng Sơn đành biến báo - nghĩa là anh gợi ý cho ông ta cách biện minh. Anh cúi đầu nhìn xuống ra vẻ hối hận khi trình bày sự việc:
- Con được tin nhà con bán chè ở Sở Thượng trong vùng Việt Minh, mẹ con nheo nhéo lắm. Con thương vợ con con mà không thể nhờ ai ra xem binh tình, đành đắc tội với ông bà lẻn đi tự làm lấy, tới nơi mới vỡ nhẽ người đàn bà ấy không phải vợ con mà chỉ nhang nhác giống vợ con. Lo ông bà giận, con không dám nấn ná tìm hiểu rộng ra khu khác nên quay về ngay, không may khi trở vào thì trúng phi pháo bị thương phải nhờ y tá điều trị.
Đoàn Thi rục rịch muốn nói, nhưng bà Cả cướp lời chồng:
- Rõ khổ! Chỉ thế mà chẳng chịu nói ra - Bà đay đả: - Lỗi gì chuyện đó. Một người không yêu thương vợ con thì sẽ chẳng yêu thương ai cả. Anh lòng lành trời để phúc. Bà phẩy tay nói tiếp:
- Ngày mai đích thân ông dẫn anh Nguyễn lên gặp giám đốc Nguyễn Đình Tại. “Không sợ quan chỉ sợ quản”, gặp lão Lý làm gì, nói chỉ hoài hơi.
Đoàn Thi gật đầu rồi nhìn Tùng Sơn hất cằm một cái ra ý bảo: “Lệnh ông không bằng cồng bà”. Tùng Sơn cũng cười đáp lại. Anh phát hiện một điều bí ẩn mà lại rất hiển nhiên. Ở văn phòng Tổng trấn, Đoàn Thi là nhân vật dưới một người trên trăm người, ông ta nói mọi người răm rắp nghe; các cơ quan hành chính, tư pháp, quân sự... Ở Hà Nội vì nể ông ta, ít khi dám đi ngược lại điều ông ta muốn, thế mà ở nhà, ông ta nhũn như con chi chi, bà Cả mới là người ra lệnh. Tình thế này càng có lợi cho các dự định bám rễ của anh.
Hôm sau, Đoàn Thi cùng Tùng Sơn sang văn phòng giám đốc Nha Công an Hà Nội. Vừa trông thấy Nguyễn Đình Tại, Đoàn Thi đã phủ đầu ngay:
- Có việc phiền đến ngài giám đốc. Nguyễn Đình Tại cười, chỉ Tùng Sơn hỏi:
- Bác lại vất vả vì anh chàng nhiễu sự kia chứ gì?
Sau khi nghe Tùng Sơn trình bày sự thể và Đoàn Thi phân tích bảo vệ, giám đốc xua tay bảo:
- Bắt người, tha người, dùng người đều do chúng ta quyết định - Hắn nhìn Tùng Sơn nói tiếp- Ngày mai anh chuyển sang phòng Tư pháp làm việc dưới quyền Trưởng phòng Đoàn Trung Mộc. về ông Lý, tôi sẽ gọi điện bảo xếp vụ này lại.
Đoàn Thi và Tùng Sơn cáo biệt ra về. Nguyễn Đình Tại gặp trực tiếp Vũ Đình Lý bảo:
- Bỏ vụ thằng Nguyễn đi!
Vũ Đình Lý ngơ ngác nhìn thượng cấp:
- Nó rời nhiệm sở lẻn ra vùng Việt Minh! Tại bác luôn:
- Chưa phải là chứng cớ xác đáng để có thể buộc tội. Lý đâm lao phải theo lao:
- Tôi nghi nó là thằng Tuấn công an Việt Minh... Tại chặn luôn:
- Nghi ngờ càng không phải là chứng cớ.
Thằng mật thám ngồi nhẵn ghế Phòng Nhì vẫn chưa chịu:
- Nhưng...
Tại phẩy tay gạt phăng, hệt anh đầu bếp gạt không thương tiếc những vụn xương nằm trên thớt.
- Không nhưng gì cả! Chức giám đốc của tôi chưa to, chức trưởng phòng của anh càng bé. Phật ý lão già thì hối chẳng kịp đâu.
Thằng mật thám xảo quyệt đành đầu hàng, thà chấp nhận sự vô lý còn hơn mất ghế. Tuy thế hắn vẫn ghi vào hồ sơ của Nguyễn (tức Tùng Sơn): “Nguyễn có thể là Tuấn công an Việt Minh bỏ công tác vào Hà Nội, bị bắt ra khống chế rồi đưa trở vào hoạt động lại”. Hắn kèm hồ sơ tư pháp này vào hồ sơ hành chính của Nguyễn; sau đó giao cho Nguyễn Công Hệnh điều tra và theo dõi các hoạt động của Nguyễn.
*
Mùa xuân năm 1954, các hoạt động ngoại giao rộ lên vì nền Hoà Bình ở Đông Dương. Súng đạn bất lực thì phải cậy nhờ đến bàn tròn. Hội nghị BécLin - chủ yếu bàn về vấn đề Triều Tiên nhưng Ngoại trưởng các cường quốc cũng ra nghị quyết tìm cách lập lại hoà bình ở Đông Dương. Pháp khẩn trương hưởng ứng sáng kiến ấy bằng tuyên bố sẵn sàng thương lượng để đem lại độc lập hoàn toàn cho các quốc gia ở Đông Dương. Thủ tướng La-ni-en báo cho Na-va - Tổng chỉ huy quân đội Viễn chinh Đông Dương biết Chính phủ Pháp có ý định hội đàm với Việt Minh ngay sau khi đình chiến ở Triều Tiên. Nước Anh muốn giúp Pháp tìm lối thoát danh dự ở Đông Dương, nhất là muốn Pháp tránh sa lầy ở vùng châu Á xa xôi để đưa quân đội viễn chinh về nước tham gia sự nghiệp phòng thủ châu Âu; ngoại trưởng Anh An-tô-ni I-đơn khá năng nổ trong việc lui tới các nước đồng minh vận động họ ủng hộ đường lối hoà bình. Nước Mỹ bảo vệ một chính sách “tương kế tựu kế” - Pháp bỏ cuộc thì Mỹ sẵn sàng thay thế. Tổng thống Mỹ Ai-xen-hao muốn Pháp quốc tế hoá cuộc chiến nhưng Pháp không nghe; Phó Tổng thống Ních Xơn tuyên bố: “Mỹ sẵn sàng đưa quân tới vùng đó...”.
Bánh xe chính trường thế giới quay khiến Việt Nam cũng phải bắt nhịp. Lo toan cho hiện tại và phải chuẩn bị đường đi nước bước cho tương lai. Cục trưởng Cục tình báo chiến lược gọi Trưởng phòng nghiên cứu tình hình Hà Ngọc lên đả thông và giao nhiệm vụ:
- Pháp sa lầy muốn rút khỏi chiến trường Đông Dương, Mỹ thập thò phía sau. Cuộc chiến Đông Dương đang chuyển giai đoạn, chúng ta phải sẵn sàng lực lượng ứng phó với tình thế mới. Anh vào Hà Nội với tư cách phái viên đi kiểm tra. Vào từng đợt nắm tình hình rồi ra báo cáo, bàn bạc các kế hoạch tiếp theo - Ông ngừng giây lát nhìn thẳng người đối thoại như có ý dò xét, rồi nói tiếp bằng giọng thấp hơn - Đúng là phải vào! Tình hình nhộn nhịp, khẩn trương lắm. Ta phải tranh thủ xây dựng lực lượng cho gấp mới kịp. Vấn đề trước mắt phục vụ công cuộc kháng Pháp thắng lợi và còn chuẩn bị cho công tác lâu dài, không thể lơ là với tham vọng của Mỹ.
Hà Ngọc nghe phổ biến nhiệm vụ nhưng cũng nhanh trí đoán được tình cảm của cấp trên:
- Tôi luôn sẵn sàng lên đường. Nhà tôi và cháu đã quen nếp sống thời chiến, không lạ các đợt đi công tác đột xuất nên không có xáo trộn trong sinh hoạt riêng.
Cục trưởng giơ một tay lên và gật gật tỏ đồng ý đồng thời cũng thể hiện tình cảm: “Yên tâm đi công tác, việc ở nhà bọn tớ sẽ thu xếp”.
- Từ mai, anh vắng mặt tại cơ quan trung ương. Phòng điệp báo sẽ có người làm việc với anh tại một địa điểm khác.
*
Ngôi nhà tản cư đơn sơ nhưng ấm cúng. Phía sau, nương sắn xanh tốt cao lút đầu người; phía trước, dăm khóm chuối, nhiều cây đã trổ buồng. Tiếng con lợn hộc đòi ăn khiến đàn gà kiếm ăn tản mát trong sân nhớn nhác.
Trong nhà, Nguyễn Thị Liên ngồi trên chiếc giường tre trải chiếu nứa. Bé Hoà Bình nằm bi bô một mình trên giường. Bé Tâm đứng kề đầu lên vai mẹ, nhìn bố nhanh nhẹn sắp xếp, thu dọn giấy tờ... Chốc chốc lại dụi đầu ra hiệu cho mẹ. Liên vừa xoa đầu con vừa lặng lẽ quan sát chồng.
Hà Ngọc cảm thấy mình cứ lẳng lặng với công việc thì vô lý quá. Mẹ con Liên đang chờ ở anh một cái gì đó.
Nói sao thì nói, cuộc chia ly thường để lại sự bịn rịn cho kẻ đi người ở. Thời kháng chiến, cảnh chia tay diễn ra nhiều hơn, thường xuyên hơn, thế mà chẳng thể nào quen, cuộc chia ly nào cũng là mới. Tình cảm trước lúc chia ly giữa buổi bom đạn nhiễu nhương bao giờ cũng nặng nề, những linh cảm về sự rủi ro càng khiến nó nặng nề hơn. Phải chấp nhận, phải nén chịu. Thế hệ này là thế hệ đổ nền móng cho thế hệ sau, sự hy sinh như vậy là có giá và đáng giá.
Đúng là Liên đã nén chịu, đã chấp nhận hoàn cảnh. Nghĩa vụ làm mẹ, làm vợ và làm công dân đang đè lên vai chị. Vợ chồng chị từng trải qua nhiều tao đoạn xa nhau, nhưng là cuộc chia tay bình thường... nay thì cuộc xa cách này chứa đựng nhiều rủi ro bất trắc. Chị ở nhà, ngày ngày đến cơ quan làm việc, lo toan việc ăn học của con và phấp phỏng dõi từng bước anh đi. Xông vào giữa hang cọp đâu thể xem thường.
Rút cục, phản ứng của người chồng sôi nổi lại chậm hơn của người vợ thuỳ mị:
- Anh yên tâm đi công tác, em đủ sức quán xuyến việc nhà.
Hà Ngọc dang rộng hai tay ra chiều thất vọng. Đáng lẽ, là người đàn ông anh phải động viên vợ, thế mà... anh đành biến báo bằng thứ giọng người chỉ huy vui tính:
- Anh Tâm ở nhà phải chấp hành ba mệnh lệnh: thứ nhất, vâng lời mẹ Liên; thứ hai, chăm học; thứ ba, nghe tiếng máy bay phải cõng em Hoà Bình chạy ngay ra hầm.
*
Từ căn cứ Việt Bắc, Hà Ngọc cùng người dẫn đường đạp xe mải miết trên con đường mòn khấp khểnh, vòng vèo ẩn hiện trong vùng núi rừng trập trùng đèo dốc, vượt qua An toàn Khu đi tới vùng đồi cọ lao xuống miền nương chè, bầu trời mở rộng ra. Người thanh niên dẫn đường buông ghi đông xe, giơ hai tay lên cao vừa lắc lư người vừa hát:
“Quê ta miền trung du, đồng xuôi lúa xanh rờn...”.
Hà Ngọc đạp dấn lên ngang hàng, hoà giọng ca hồ hởi cùng người bạn đường yêu đời: “... Từ mờ sớm tinh mơ, quê ta vang tiếng hò...”.
Đồng ca đang giai đoạn ăn nhịp hào hứng thì người dẫn đường xua tay ra hiệu thôi, anh phổ biến:
- Máy bay bà già hay đảo qua vùng này, nó phát hiện ra người hay gia súc là sà xuống bắn liền. Nghe tiếng ì ì từ xa, ta xuống xe tránh ra vệ đường là nó như mù.
Hà Ngọc nhận xét:
- Dũng cảm không bằng kinh nghiệm!
Người dẫn đường đập mạnh tay xuống ghi đông, hưởng ứng:
- Đúng lắm! Đúng lắm! Tôi kể anh nghe, hồi thằng Đờ - lát mới sang làm Tổng chỉ huy quân Viễn chinh Pháp ở Đông Dương, nó nghĩ ra cái trò “vành đai trắng” khiến cánh hoạt động địch hậu khá lao đao. Anh tưởng tượng xem, một anh cán bộ từ vùng tự do vào địch hậu hoạt động phải vượt qua bốn, năm cây số vành đai trắng: ruộng bỏ hoang, không cây mọc, không bóng người... bọn giặc ở các đồn bốt tự do câu đại bác, moóc-chi-ê và thường xuyên cho lính đi tuần hoặc phục kích trên vành đai; không ít cán bộ ta hi sinh ở khu vực đó; nhưng vành đai Đờ-lát Đờ-Tát-xi-nhi cũng chỉ sôi nổi một thời. Thực tế đẻ ra kinh nghiệm, kinh nghiệm trang bị thêm cho lòng dũng cảm thứ vũ khí cảnh giác, thế là âm mưu quỷ quyệt hành động tàn bạo cũng chẳng nên trò trống gì. Đờ-lát tiêu ma sự nghiệp. Sa-lăng rồi tiếp Nava sang thay... Vẫn luẩn quẩn có vậy. Mọi thứ đều có quy luật, phải không anh?
Hà Ngọc cười bảo:
- Tôi sắp phải đi qua “vùng nguy hiểm” nên cậu làm công tác tư tưởng chứ gì? Người dẫn đường phá lên cười, cười dứt anh vỗ tay xuống ghi đông xe:
- Chịu bố đấy! Đúng là không thể chủ quan khi vượt qua vành đai trắng. Nhưng, cánh giao thông liên lạc giữa hai vùng có phép khắc phục. Anh nhất nhất theo hướng dẫn của giao thông thì có thể yên tâm. Rủi ro nếu có cũng chỉ một phần nghìn.
Hà Ngọc ngoảnh nhìn anh bạn đồng hành. Người dẫn đường ra điều cởi mở bộc trực, đôi khi nói khôi hài nhưng vẫn không nhãng quên động viên tinh thần người mới nhập cuộc chiến thầm lặng, giản đơn ngay đấy mà phức tạp ngay đấy, bình thường ngay đấy mà sét giáng mang tai ngay đấy. Anh thực sự cảm phục con người dày dạn kinh nghiệm và giàu lòng vị tha này.
Trời tối không nhìn rõ đường cũng là lúc họ tới nhà cơ sở nằm ở đầu làng vùng giáp ranh. Lâm - đội trưởng giao thông giữa hai vùng có trách nhiệm dẫn Hà Ngọc đi tiếp cung hành trình vượt vành đai trắng đã đợi khách ở đó.
Chạng vạng tối ngày hôm sau, Lâm dẫn khách lên đường. Phía trước họ là khoảng mênh mông mờ trong sương đêm. Một vẻ tĩnh lặng căng thẳng. Bất chợt, con chim ăn đêm bay qua đầu cất tiếng “quác” lẻ loi. Không gian lại chìm trong sự im lìm bất trắc. Phía đồn Phù Lỗ bỗng vang lên tràng dài trọng liên, những viên đạn lửa vạch thành nhiều đường vòng cung màu đỏ trên bầu trời đen. Hai người thâm nhập lặng lẽ rảo bước. Một con chim ăn đêm từ mảnh ruộng gần bên vụt bay lên. Tiếng ếch nhái ồm ộp gọi nhau râm ran ở khắp nơi, mỗi lúc một dồn dập hơn, những khoảng đường phía trước không một tiếng ếch kêu. Bọn địch phục kích! Lâm lùi lại dẫn Hà Ngọc rẽ sang phải, đi một đoạn thì ngửi thấy mùi thuốc lá thơm. Lâm kéo Hà Ngọc cùng ngồi xuống cạnh ngôi mộ giữa cánh đồng, rỉ tai bảo:
- Nghỉ đã! Đợi chúng cút hãy đi tiếp.
Nửa giờ sau, bọn phục kích bắn hóng vài băng trung liên rồi rút về đồn. Lâm, Hà Ngọc tiếp tục hành trình. Từ các chòi gác cao, bọn địch quét đèn pha sục sạo, thấy nghi ngờ, chúng lia liên thanh ra uy hiếp. Hai người thâm nhập áp dụng chiến thuật cóc nhảy: khi pha loé sáng thì nằm phủ phục, khi đèn tắt thì vùng dậy chạy gằn. Chẳng mấy chốc, họ đã để cái chòi gác quái ác ấy ở phía sau và tiến đến bờ sông Cà Lồ. Họ lấy ni-lông bọc vũ khí, quần áo làm phao vượt sông. Lên bờ, họ đi tiếp một đoạn thì tới Cán Khê - một thôn nhỏ thuộc huyện Đông Anh, vượt qua con đường bờ ruộng khoảng một cây số thì tới đồn Phù Lỗ do lính Pháp trấn giữ. Hai người vào nhà chị Liên - một cơ sở giao liên tình báo trong vùng địch hậu. Chị Liên đón khách ngoài vào ân cần và chu đáo nhưng không ồn ào. Hà Ngọc rửa ráy qua loa rồi tranh thủ đi ngủ để sớm mai ra xe vào Hà Nội. Anh trằn trọc mãi không ngủ nổi, mà ngủ sao được. Đang ở vùng tự do nói cười, đi đứng thoải mái, gần vợ con, gần các đồng chí quen thuộc, thoắt một cái đã chuyển sang trạng thái phải kiềm chế từ nói cười đến đi đứng và gặp toàn những người lạ. Cái lạ của những người tham gia kháng chiến thế mà hay, lạ mà đối xử với nhau ân tình như từng giao tiếp gắn bó từ lâu.
Trời sáng.
Chị chủ nhà bê ra bộ đồ để biến “anh du kích” thành “ông quí phái”: bộ complê tuýt suy, đôi giày da đen mới tinh, chỉ trừ cà-vạt, cặp da và kính râm là thứ cũ tân trang lại. Bộ quần áo đo kích thước từ ngoài gửi vào cơ sở trong Hà Nội may gửi ra nên không vừa vặn lắm. Quần áo chật, giày cũng chật, đành cố ních vào cho đủ lệ bộ lên đường.
Từ cổng làng Cán Khê nhìn ra, đồn Phù Lỗ in đậm trên nền trời xám, lá cờ tam tài màu sắc lờ mờ phe phẩy bay. Lính trong đồn lố nhố bước ra sân, có thằng làm động tác thể dục. Đây đó, lác đác người gánh, đội hàng ra chợ. Hà Ngọc đã cải trang thành một ông sang trọng diện đủ lệ bộ complê, cavát, giày da, kính đen, tay đu đưa chiếc cặp, đủng đỉnh bước trên đường làng. Khi vung vẩy tay anh mới nhận ra tay áo quá ngắn, thằng ngố cũng phát hiện ra sự kệch cỡm. Anh dừng chân cởi áo vét khoác tay rồi bước tiếp, mà hay... lại có dáng ung dung tự tại. Đúng là một người tỉnh thành vừa về thăm quê.
Người dẫn đường hôm nay là chị Quang - giao thông viên công khai. Chị khá duyên dáng, thon thả trong chiếc áo cánh nhuộm vỏ già óng ả và chiếc quần láng đen mềm mại. Thấy khách đã tới, chị ra khỏi cổng làng, chân bước khoan thai, tay cầm làn mây. Đi chừng ba chục bước, chị chuyển làn sang tay khác.
Hà Ngọc nhận được tín hiệu yên tĩnh liền bước nhanh hơn một chút. Tới bến xe Phù Lỗ, Quang lại chuyển tay cầm làn rồi lẫn vào đám đông đi chợ, lát sau đã thấy chị xuất hiện trước cửa chiếc ôtô khách ra dáng chần chừ giây lát rồi bước hẳn vào xe, Hà Ngọc yên tâm lên xe. Quang ngồi ở góc đối diện đang bắt chuyện với một chị buôn hàng chuyến. Khách lục tục lên xe, toàn là phụ nữ, chỉ có một khách nam giới - đấy là vị khách thâm nhập. Mọi người gần như im lặng, thỉnh thoảng có người ghé tai nhau thì thào một câu có ý sốt ruột chờ xe lăn bánh. Xe chuyển bánh vòng qua chợ, phóng ra đường. Những cuộc trò chuyện tay đôi, tay ba ran ran hoà cùng tiếng động cơ ậm ạch của chiếc xe già. Hà Ngọc và Quang cũng đưa mắt nhìn nhau, không một lời nói mà nói rất nhiều. Xe tới cửa ngõ vào thành phố. Lái xe gióng giả:
- Sắp tới trạm kiểm soát, bà con chuẩn bị giấy tờ!
Trạm gác đầu tiên do lính da đen trông coi. Xe dừng bánh, gã Tây đen cao lêu nghêu, tay lăm lăm khẩu tiểu liên báng gấp bước ra. Gã nhảy lên xe vừa lướt nhìn toàn cảnh vừa nhắc: “Giáy!
Giáy!”. Gã cầm thẻ căn cước, không đọc thẻ mà đọc nét mặt người bị soát giấy rồi trả lại. Nó khám người theo kinh nghiệm hoặc linh tính hay làm qua quýt cho đủ lệ bộ? Ngọc đưa chiếc thẻ căn cước còn mới nguyên với vẻ thản nhiên của người từng trải qua nhiều tao đoạn gian nguy. Thế là gã kiểm soát trở thành gà mờ. Đến lượt một bà cầm tấm thẻ đã hơi nát đưa cho gã. Gã nhìn bà ta bằng cặp mắt trắng dã rồi cau có xé đôi tờ giấy vất xuống đất. Bà già thét lên chửi. Thằng da đen đá kẻ chửi mình một cái rồi nhảy xuống đất, vẫy tay ra hiệu cho xe: “Cút mé may đi!”.
Xe leo lên cầu Long Biên. Hà Ngọc đưa mắt quan sát sông Hồng. Không một thuyền bè qua lại, thỉnh thoảng chiếc ca nô tuần tiễu rập rềnh men theo rìa sông như kẻ rình mò.
Xe đậu ở bến Nứa. Quang kín đáo liếc nhìn Hà Ngọc; chị xuống xe, đi lẫn vào đám đông. Hà Ngọc dềnh dàng xuống sau, anh thuê xe xích lô đến phố Hàng Đẫy - cơ sở nội thành đón anh.
Trên đường đi, bác đạp xích lô nói đủ thứ chuyện. Tai Hà Ngọc nghe, mắt Hà Ngọc quan sát và đầu óc thì suy xét đánh giá. Chà, Hà Nội là đây. Ô tô quân sự, mô tô, xe đạp, xe bò... qua lại ngược xuôi như mắc cửi. Nhà cửa như liền một khối mái nhấp nhô cao thấp cái lợp ngói, cái mái bằng; Hà Nội bị chiếm đóng ồn ào ầm ĩ là thành phố của lính đủ màu da: trắng bệch như phấn, đỏ ửng như quả cà chua, đen thui như cột nhà cháy, điểm vào đây là vài khách bộ hành, dân đồng nát, trẻ bán báo, đánh giày...
Một tháng sau Hà Ngọc hoàn thành nhiệm vụ liên lạc, tìm hiểu và đánh giá các điệp viên cài trong Hà Nội: Triệu Thi Mát, trung sĩ Bảo Chính đoàn; Vũ Bằng, nhà báo: Bảo Chung, thiếu tá Bảo an quân, Nguyên Thuyền, quân sư quạt mo của các nhân vật có vai vế trong tổ chức phản động.
*
Trung sỹ Triệu Thi Mát làm việc tại văn phòng thiếu tướng tư lệnh Bảo chính đoàn Nguyễn Văn Vận từng tham gia Đoàn thanh niên cứu quốc hồi khởi nghĩa tháng Tám năm 1945. Năm 1947, Mát hồi cư về Hà Nội, nhờ tiếng tăm cũ của bố vốn là bang tá làm việc cho Pháp, anh xin vào ngạch cảnh sát giao thông. Ít lâu sau, anh chạy chọt sang ngành Bảo chính đoàn cũng nhờ mối quan hệ cũ của bố anh ta với thiếu tướng tư lệnh Nguyễn Văn Vận - thời làm đội khố đỏ. Năm 1950, cán bộ tình báo nằm vùng Trần Hưng lôi kéo Thi Mát tham gia hoạt động tình báo nhằm khai thác các thông tin về âm mưu, kế hoạch hành quân càn quét của địch. Mát tuy làm ở văn phòng tư lệnh Bảo chính đoàn nhưng văn hoá thấp, không đọc nổi các văn bản bằng tiếng Pháp nên hạn chế khá nhiều trong việc thu thập những tin tức quan trọng. Dầu vậy, nhà Mát vẫn là cơ sở ngụy trang tốt, cán bộ hay giao liên vào ra ít bị địch nghi ngờ.
Triệu Thi Mát nhận lệnh đón khách nhập thành cả tuần rồi mà khách vẫn chưa đến. Mỗi khi làm việc ở Sở về, anh lại vác ghế ra ban công ngồi hóng mát. Xế trưa ấy, anh vác ghế ra ban công chưa kịp ngồi thì chợt trông thấy một người dáng thấp từ xe xích lô bước xuống đường - trước cửa nhà anh. Đúng quân ta rồi! Nào complê, nào giày, nào cạp... rặt thứ do chính vợ chồng anh tự mua sắm, lo liệu gửi ra vùng tự do cho khách cải trang vào thành. Khách đến - Hà Ngọc nhìn đúng số nhà và nhận dạng đúng người, thế là tay bắt mặt mừng. Chị Ngọc Loan - vợ Thi Mát là cô gái Hà Thành chính gốc, chị buôn bán tháo vát và là người chu đáo, thơm thảo với bạn bè của chồng, nhất là những người cùng hoạt động bí mật với chồng. Chị không bao giờ tò mò hỏi han công việc của chồng và bạn; nhưng đôi khi, làm như vô tình, đi chợ về chị thông báo cho chồng và bạn biết những tin tức bà con kháo nhau trong chợ hoặc bọn lính bàn tán dọc đường. Loại tin vỉa hè ấy nhiều khi có giá trị cứu được một cơ sở khỏi vỡ, một mạng người thoát chết. Chị đã qua đời sống tản cư như con thuyền không bến cố định, từng trải qua nỗi thiếu thốn, khổ ải của người tản cư và cũng từng nhận được sự đùm bọc của bà con hậu phương và bộ đội cụ Hồ nên rất thương những người tham gia kháng chiến, thương thật lòng và rất thực tế. Khi chuyện trò vui vẻ, chị bảo Hà Ngọc:
- Các anh công tác gì? Mặc! Phần tôi, tôi sẽ lo “vỗ béo” để khi ra vùng tự do chị ấy không nhận ra anh tôi mới chịu - Chị im lặng giây lát rồi bùi ngùi nói tiếp - Hoạt động như cối nước giã gạo mà ăn uống kham khổ thế thì sức nào cho xuể.
Lưới Trần Hưng còn có Trần Đình Thuỳ Quận phó cảnh sát giao thông, Uông Văn Mùi cảnh sát giao thông. Những tin tức do hai nhân mối này cung cấp chỉ có giá trị thời sự, họ không có điều kiện khai thác những tin tức quan trọng có giá trị chiến lược.
Hà Ngọc nhận tiếp chỉ thị đi kiểm tra khả năng phục vụ của nhân mối mang bí số 133 - anh Mạnh Nguyên. Anh Nguyên là bác sĩ tư đang mắc bệnh phổi. Anh làm việc có chừng mực và cũng phải kiêng kị cho bệnh nhân, công việc phòng khám do vợ anh - cũng là bác sĩ đảm nhiệm. Chị Nguyên mắc bệnh tim, không khoẻ lắm. Anh Nguyên thường khai thác tin tức ở những bệnh nhân có chức quyền đến khám bệnh - do bệnh nhân vui miệng lấy lòng thày thuốc hoặc do anh khéo gợi chuyện. Tin tức của anh có giá trị chiến thuật, nhưng anh yếu quá cần nghỉ dưỡng sức nên Hà Ngọc đề nghị Cục cho anh tạm ngừng công tác.
Đầu năm 1954, Cục tình báo chiến lược uỷ nhiệm cho Hà Ngọc đi kiểm tra hệ điệp báo do Trần Nguyên Thuyền - bí số A6 phụ trách. A6 vốn là một tri thức, quen thuộc nhiều giới cao cấp quân sự, chính trị và đảng phái ở Hà Nội. Anh tinh ranh và giỏi nghị luận, thạo mưu mẹo nên được coi như quân sư của bất kể ai cần tháo gỡ bế tắc. Thời kỳ còn Nhật, A6 đã cung cấp cho những người hoạt động cách mạng bí mật một số tin tức có giá trị. Năm 1947, A6 dinh tê vào Hà Nội. Tình báo ta biết A6 tiếp xúc nhiều với các nhân vật có chức quyền, hiểu nhiều về xã hội vùng địch chiếm, tuy cách sống còn nhiều phức tạp, nhưng là một nguồn khai thác tin đáng quý nên cử cán bộ vào làm công tác tư tưởng. A6 nhận lời tham gia hoạt động phục vụ kháng chiến. Nhưng A6 tham gia kháng chiến theo lối mặc cả - có cống hiến phải có đài thọ. Trung tâm tình báo băn khoăn “bỏ thì tiếc mà giữ thì chẳng có gì sáng tỏ”.
A6 tiếp phái viên của trung tâm ân cần và mào đầu khá lưu loát:
- Dùng người Thăng Long khai thác người Thăng Long phục vụ kháng chiến thì thật tuyệt. Hà Ngọc trò chuyện nhiều lần với A6 cũng cảm thấy quý cơ sở khai thác tin tức này. A6 đang làm cố vấn không chính thức nhưng có vẻ được sự trọng vọng của các đảng phái chính trị: nhóm Việt Chiến do Phan Tâm lãnh đạo, nhóm Đại Việt quốc xã của Nguyễn Văn Tiếu - Tiếu rùa, nhóm Quốc dân Đảng của Vũ Hồng Khanh, Lê Ngọc Chấn; A6 còn quen biết một số công an Ngụy quyền như Trần Văn Lý, Vũ Văn Mão, Vũ Tài Lục, Nguyễn Mộng Lân... Ở Hà Nội và một số tỉnh khác. Ngoài ra, A6 giao thiệp thân tình với Nguyễn Văn Hinh - Tổng tham mưu trưởng quân đội Bảo hoàng và một số sĩ quan phụ tá của Hinh. Vợ A6 là chị Lân, con gái bà Phán Đích hở cho Hà Ngọc biết các quan hệ buôn bán Bắc - Nam của chị. Hà Ngọc có cơ sở để kết luận: Điểm mạnh của A6 phát triển được là do mối giao lưu rộng rãi của vợ với các bọn biển thủ trong quân đội, cảnh sát hoặc đảng phái chính trị.
Trước đây, A6 báo cáo với Trung tâm rằng anh đã hình thành một mạng lưới tình báo. Trung tâm muốn biết lưới đó như thế nào, gồm những ai, A6 lần lữa không nói rõ. A6 không có liên lạc riêng, cũng không muốn có liên lạc riêng, mọi tin tức phản ánh về Trung tâm đều qua một cán bộ tình báo nằm vùng. A6 muốn trở thành một cán bộ trong biên chế nhưng lại không chịu nhận sự quản lý hành chính cũng như nghiệp vụ của cơ quan chủ quản. Tại sao lại vậy? Đó là điều Hà Ngọc phải tìm hiểu.
Đặc điểm nổi bật của A6 là ba hoa, thích khoe khoang. Nói chuyện thuộc lĩnh vực nào A6 cũng có thể có ý kiến dạy đời, nói như thể từng chuyên sâu, rất am hiểu lĩnh vực đó; bọn Ngụy, nhất là lũ dốt nát thường đến nhờ A6 hướng dẫn hoặc giảng giải những điều họ chưa biết. Nói chuyện với cán bộ kháng chiến hoạt động bí mật, A6 ca ngợi cụ Hồ, ca ngợi Liên Xô, Trung Quốc; nói chuyện với những nhân vật thuộc đảng phái “giúp Tây đánh ta”, A6 là một nhân sĩ có lý tưởng quốc gia bảo hoàng, “bất cộng đái thiên” với Cộng sản. Phương châm ứng xử của A6 là chỗ nào lao vào được thì phải lập tức lao vào, nhưng không cam kết, không gắn bó; kỵ nhất để lại giấy tờ có bút tích hoặc cái có thể là chứng cứ cự thể.
Sự thể ấy, nếu A6 là người thuỷ chung chân thực thì anh là một tình báo viên giàu bản lĩnh, nếu A6 là kẻ đầu cơ cơ hội thì giữ khoảng cách với anh ta là điều cần thiết phải duy trì. Dù sao, trước mắt phải động viên anh ta đi đến một cam kết gắn bó. Sự nghiệp chống ngoại xâm cứu nước chẳng của riêng ai. Nhân một buổi nói chuyện công tác, Mà Ngọc đề nghị:
- Anh nắm tin tức, phản ánh tình hình thấu triệt hơn tôi, anh nên tự tay viết báo cáo về cho trung tâm. Như vậy, chất lượng báo cáo tăng lên, tính tin cậy cũng cao hơn.
Thuyền ngả người ra phía sau, hai tay choàng lên thành ghế như ôm cái gì đó, vì tư thế ấy khiến ngực anh ưỡn ra với vẻ khá tự phụ.
- Từ trước đến nay tôi làm việc theo nguyên tắc “không bao giờ viết một cái gì cả”, đó là cách bảo vệ tốt nhất của người hoạt động bí mật. Các anh muốn hiểu điều gì, tôi phát biểu điều đó. Các anh nắm ý định của trên nên “xào nấu” thế nào tuỳ các anh - A6 đưa hai tay về chống lên hai đầu gối, kiểu khuỳnh khuỳnh lấy thế oai vệ, nói tiếp: - Các anh có thể coi tôi như một “thằng địch”, một đối tượng khai thác... Tuỳ! Cứ đặt thẳng vấn đề, khai thác thoải mái, không khó khăn gì. Biết đến đâu, tôi nói đến đấy!
Hà Ngọc cảm nhận “sự dạy đời” toát ra từ lời nói đến tư thế ngồi của A6, anh vẫn kiên nhẫn theo đuổi mục đích buổi nói chuyện của mình:
- Công tác giao thông liên lạc, bảo vệ tài liệu của ta từ khâu vận chuyển đến khâu bảo quản rất chu đáo, kỷ luật bảo mật cụ thể lắm, anh có thể an tâm. Tuy nhiên, tuỳ anh lựa chọn cách làm việc. Có điều, để tăng độ tin cậy đối với nơi nhận tin ở xa ta, mỗi lần anh cung cấp tin anh cho cả nguồn tin và trường hợp khai thác.
A6 lại ngả lưng khoác hai tay lên thành ghế, tư thế tự bảo vệ của anh khá thoải mái. Có lẽ anh ta thao tác quen rồi.
- Thuận tiện thì tôi nói, bất tiện thì thôi. Anh thông cảm, tôi cũng phải giữ chứ. Sơ xảy ra thì tôi là người trực tiếp chịu hậu quả, các anh ở chiến khu có hề hấn gì. Vả lại, đối với trên, nguồn tin chỉ việc nói là của tôi, tôi nghĩ thế cũng đủ tính chính xác của nó.
Hà Ngọc hơi cảm thấy thất vọng. A6 nhân danh một người kháng chiến hoạt động bí mật mà lại mặc cả với kháng chiến. Không những thế anh ta còn tỏ ra quá phách lối, so bì hơn thiệt nhất là từ “xào nấu” anh ta dùng đã gây nên sự hoài nghi về tính chân thực của các tin tức do anh ta báo cáo. Vậy, những tin tức anh ta cung cấp cho trung tâm từ trước tới nay có bao nhiêu tin xác thực, có bao nhiêu tin thêm thắt chi tiết, có bao nhiêu tin dàn dựng để lừa mị? Mặc dù vậy, Hà Ngọc vẫn không nỡ bỏ rơi A6. Anh ta từng cung cấp những tin tức có giá trị cho trung tâm, cần khuyến khích, động viên anh ta tiếp tục hoạt động vì sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc.
- Trung tâm mới chỉ thị vào cho tôi chuẩn bị cho anh một đường đây liên lạc trực tiếp với Trung tâm và báo cáo về Trung tâm tất cả các mối quan hệ tin tức của anh.
A6 toan từ chối loại đề nghị mà anh rất kiêng kị, nhưng kịp dừng lại. Trung tâm cho lập một đường dây riêng tức là Trung tâm đánh giá cao nguồn tin này. Điều đó đáng kể lắm. Đánh giá cao thì đúng rồi nhưng lập đường dây riêng làm quái gì, chỉ tổ “ôm rơm rặm bụng”; nhưng không báo cáo cho cấp trên biết tổ chức do mình chỉ huy gồm những ai là điều khó lý giải. A6 ngồi thẳng người, một tay vỗ vỗ đầu gối như cầm nhịp rồi lại nhướn người lấy đà:
- Quan hệ tin tức của tôi có rất nhiều, về nhân viên chấp hành mệnh lệnh của tôi, nghĩa là những người được coi là thành viên của lưới thì có: Vũ Bằng nhà báo; Vũ Văn Mão làm công an; Bảo Chung, Bảo chính đoàn... Ngoài ra, còn nhiều người được sử dụng như agent mobile(6), agent fixe(7). Họ đều là những phần tử rất đáng tin cậy, dám xông vào chỗ chết. Hàng tháng tôi phải chi cho họ trên dưới một vạn đồng. Ấy thế mà, ba bốn năm nay tôi chẳng nhận được tiền đài thọ của tổ chức.
(6) Nhân viên cơ động
(7) Nhân viên tại chỗ (chuyên sâu)
Hà Ngọc thấy A6 lại đề cập đến tiền, anh cảm thấy đang đối mặt với một anh chàng thực dụng; tuy vậy, anh không thể lơ là với yêu cầu ấy. Anh đáp:
- Vấn đề tiền, tôi sẽ phản ánh về Trung tâm; còn các cộng tác viên, tôi có thể tới thăm viếng những quan hệ đó không?
A6 gật đầu đáp không sốt sắng lắm:
- Được! Nhưng với danh nghĩa gì? Danh nghĩa cán bộ của Trung tâm à? Thế thì được. Anh có thể tới gặp Vũ Bằng. Anh này tốt, ta biết từ lâu. Anh cũng có thể đến gặp Bảo Chung, Chung là anh em họ xa với tôi. Cậu này một thời làm chỉ huy bảo an ở tỉnh Hà Nam nhưng lành lắm, chẳng đàn áp khủng bố ai. Tôi khuyên y vào thời điểm này nên nhảy vào làm Cách mạng, y nhận lời và sốt sắng lắm. Anh Chân(8) cũng đã gặp Chung, anh khen Chung có triển vọng làm tình báo được. Tôi sẽ xây dựng Chung thành một agent fixe. Nhưng, khi gặp Chung anh cũng đừng cho biết việc mình đang làm là công tác tình báo, hắn sẽ sợ.
(8) Biệt danh của Trạm trưởng 5 thuộc Cục Tình báo.
Hà Ngọc gặng hỏi:
- Còn những người khác.
A6 cảm thấy bộc bạch như thế là quá đủ, không đúng với phương pháp giao tiếp úp úp mở mở có hiệu quả thu hút và thuyết phục mà anh thường áp dụng. Anh quyết định coi sự cởi mở tới đây là giai đoạn cuối cùng.
- Chưa nên gặp ai nữa. Ví dụ như Vũ Văn Mão; nó biết anh là Việt Minh, nó bắt ngay. Hà Ngọc ngạc nhiên hỏi:
- Vậy anh dùng cậu ta vào việc gì?
A6 dặt dặt tay - một cử chỉ úp úp mở mở anh thường dùng khi đưa ra ý kiến nửa hở nửa kín.
- Agent inobile! Tuyệt lắm!
Để khẳng định sự đánh giá của mình, anh nhấn mạnh:
- Sự nghiệp kháng chiến là tận dụng mọi khả năng có thể tận dụng, tuyệt vời phải không anh! Hà Ngọc khen mấy câu theo thông lệ rồi quay lại vấn đề chủ yếu:
- Nhiệm vụ của tôi không phải ở hẳn trong này. Tôi chỉ thực hiện một số chỉ thị của Trung tâm rồi lại ra. Trung tâm đã sơ bộ đánh giá lưới công tác của anh và giao trách nhiệm cho tôi là phải tổ chức cho anh một tuyến liên lạc riêng, đảm bảo gọn nhẹ, bí mật và thuận tiện để anh có thể trao đổi công việc trực tiếp với ngoài.
Hai tay A6 thu gọn, khoanh lại tì lên bàn. Anh không nói, đầu hơi cúi, mắt như nhìn đâu đâu. Hà Ngọc đọc thấy vẻ lúng túng trong đầu A6, nhưng anh vẫn nói rõ:
- Tôi sẽ giao cho anh một hộp thư tại địa điểm trung tâm thành phố, gia đình bề thế. Người liên lạc của anh là con gái lớn của gia đình ấy. Cô ta tuổi chừng 30, chưa chồng, có nghiệp vụ công tác, đã qua thử thách và rất can đảm.
A6 cảm thấy bị dồn vào ngõ cụt. Không thể không trả lời dứt khoát, mà trả lời dứt khoát thì coi như chấm dứt một khả năng “lấp lửng ăn tiền”. Trong lúc khẩn trương, anh tỏ ra có tài biến báo, nhưng do tính lừa dối nên sự biến báo của anh lại để lộ ra sự hớ hênh về một biện pháp công tác mà anh vẫn cố bảo vệ:
- Tôi không thích tổ chức cồng kềnh, càng không muốn có tổ chức cụ thể. Tuy nhiên, anh cho tôi suy nghĩ vài bữa nữa.
Hà Ngọc đồng ý, anh hỏi thêm:
- Anh còn đề nghị gì nữa không?
A6 vừa có dáng cởi mở vừa có dáng băn khoăn, cuối cùng anh thổ lộ:
- Kể ra... Nhiều lắm. Đề nghị nhiều, thắc mắc cũng nhiều. Trước mắt anh báo cáo với Trung tâm giúp tôi là hiện nay tôi đói lắm, đói xơ xác. Nhiều lúc xe ô tô để xó vì không có tiền mua xăng; cả tuần chỉ dám mua vài ký bạc nhạc... Tôi phải tiết kiệm tiền để chi cho lưới duy trì hoạt động, trung bình mỗi tháng một vạn đồng, làm việc này chi vài ba trăm ngàn có thấm tháp gì. Mấy năm nay không được Trung tâm tiếp tế cho xu nào, tôi chỉ xin Trung tâm trả lại cho tôi số công tác phí đó. Thế thôi! - Thấy người đối thoại gật đầu ra ý công nhận. A6 dấn thêm - Các anh phải nên biết những người làm công tác trong lòng địch như chúng tôi hy sinh nhiều lắm, hy sinh sự nghiệp, hy sinh tình cảm, không được chơi bời thoải mái với bạn bè tri kỷ, lại vất vả đói khổ...
Hà Ngọc cảm thấy có cái gì đó không ổn ở con người A6, một loại trí thức tả pí lù - Cái gì cũng biết mà chẳng hiểu cái gì đến nơi đến chốn, cống hiến không hết lòng mà đòi hỏi thì khá ráo riết, tệ hơn là anh ta tỏ ra thiếu khiêm tốn. Dấn bước vào con đường cách mạng chông gai mà than vãn nghèo khổ thì quả là tự mâu thuẫn. Nhưng, A6 có nghèo đâu, anh ta có xe riêng cơ mà. Tuy không bới lông tìm vết, cũng phải tìm hiểu thêm về anh ta, cùng làm một công việc nguy hiểm mà không hiểu nhau thì nguy hiểm càng nhiều.
*
Vũ Bằng là phóng viên, vừa viết cho tờ Liên Hiệp vừa làm việc cho Việt-tấn-xã. Anh là người nhanh nhạy, xông pha... có nhiều quan hệ với đồng nghiệp và cả những người ăn chơi trác táng nơi thành thị: anh uống rượu cả chai, thuốc phiện cũng vào loại sành sỏi, sống thực dụng. Tin tức tình báo của anh khai thác ở những buổi trà dư tửu hậu, hoặc bên bàn đèn thuốc phiện với cánh làng chơi. Tin tức nhiều mặt nhưng chủ yếu là những tin tức trôi nổi trong dư luận công khai.. Do đó, anh có thông tin khá đều đặn. Vũ Bằng tiếp Hà Ngọc với sự dè dặt lúc đầu, sau đó xởi lởi cởi gan cởi ruột. Vũ Bằng nhận xét Trần Nguyên Thuyền.
- Thằng cha có tài, khoa biến báo trong đối đáp thì ăn đứt cả trợ lý Bộ trưởng ngoại giao. Nhưng lạm dụng tài biến báo nên trở thành một thằng “phịa”, mà cũng có tài “phịa” nữa mới gớm. Nhiều cái anh ta mù tịt, nhưng ai hỏi, anh ta “phịa” rất lưu loát như thông thạo lĩnh vực ấy lắm. Thế mà lắm kẻ tin mới lạ chứ. “Xừ Thuyền” có cái dở là hay giả nghèo giả khổ, anh ta khá giả hơn tôi rất nhiều, vợ buôn bán với bọn nhà binh đâu phải chơi. Vậy mà hắn vẫn kiếm cớ “đẽo” tôi. Bực đấy, nhưng cả nể nên “móc ra” cho rồi. Tuy vậy, xét cho cùng thì:
“Hoài hơi mà giận người dưng.
Bắt sao được với chim rừng nó bay”.
Hà Ngọc đoán Vũ Bằng không bằng lòng A6 và biết anh là người có thể nói chuyện cởi mở nên vui vẻ gặng chuyện:
- “Biết mà không nói là bất nhân, nói mà không nói hết là bất nghĩa”.
Vũ Bằng phá ra cười chứng tỏ anh thú vị cách vận dụng lời dạy của người xưa. Anh gật gù thổ lộ:
- Đừng bài xích người khi chính mình cũng có điều đáng chê bai. Dù vậy, vì lợi ích chúng tôi vẫn cứ nói: Các cụ ta dạy: “Cây gỗ vừa tay ôm mọc lên từ mầm nhỏ, toà lầu chín tầng khởi từ hòn đất...” Tôi nghĩ, thân đê bị vỡ bắt đầu từ mạch sủi nhỏ. Thuyền tồn tại nhờ những lời nói rỗng tuyếch, lời nói rỗng tuyếch bị phơi bày thì Thuyền không còn là Thuyền. Tóm lại trong bản báo cáo tràng giang đại hải của anh ta vo viên lại chỉ còn bằng hòn bi.
Hà Ngọc gật đầu:
- Tôi rất hoan nghênh lời nói thẳng thắn của anh và sẽ chú ý quan tâm tới khía cạnh ấy - Anh ngừng lời. Anh đã có được một số yếu tố cơ bản để có khái niệm về tính cách A6 và không muốn soi sâu vào cá tính anh ta nữa. Anh hỏi chuyện khác:
- Anh có đề nghị gì không? Vũ Bằng chồm lên khi nói:
- Đề nghị là mặc cả! Mặc cả với đất nước thì tồi lắm! Khoản ấy chỉ “xừ Thuyền” là thạo!
Mặc Vũ Bằng nuôi giữ ác cảm với A6 là điều không có lợi cho mối giao lưu bạn bè, nhất là đối với công tác, Ngọc lựa lời hoà giải:
- Mỗi người mỗi cá tính, mỗi hoàn cảnh. Sống trong hàng ngũ những người chịu hy sinh vì Tổ Quốc, chúng ta phải chấp nhận, phải khoan dung với khuyết tật của đồng đội, có như thế mới không tổn hại tới lợi ích chung của cách mạng.
Vũ Bằng vỗ tay tán thưởng:
- D’accord! Bravo! “Nói thật thì có ích cho người nghe mà thiệt cho người nói”.
Hà Ngọc cười:
- Phái viên của Cục không đưa cuộc tiếp xúc tay đôi ra tay ba. Vũ Bằng chớp chớp mắt tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Thủ đô là nơi tiếp thu nhiều dòng văn hoá khác nhau nên ngoài thủ đô thanh nhã và lịch thiệp. Tôi dù hèn kém cũng là người Tràng An, sao anh đem lòng ngờ như vậy?
Hà Ngọc xua tay cười nói:
- Đâu có thế! Ấy là tôi nói cho hết nhẽ để anh hiểu tôi.
*
Bảo Chung mâu thuẫn gay gắt với Nguyễn Ngọc Phan - Tư lệnh Bảo an đoàn, thế là bị “sếp” cho nghỉ không thời hạn. Tức giận mà không làm gì được cho hả lòng sẽ tích luỹ thành nỗi uất ức, thậm chí dẫn đến bệnh trầm uất. Anh đang sống trong tâm trạng đáng ngại thì Hà Ngọc đến nhà. Anh bộc bạch với “Phái viên của Trung tâm” những suy nghĩ dằn vặt, những mưu toan trả thù của mình; sự bực dọc, nổi nóng của anh toát ra từ cử chỉ đến lời nói, anh ngâm to câu thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ với sức mạnh dồn nén từ phía trong bật ra:
“Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
“Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua...”.
Hà Ngọc hoàn toàn bất ngờ trước tâm trạng phẫn uất của Bảo Chung. A6 mặc cho Bảo Chung sống trong trạng thái này thì thật nguy hiểm, nó là mối đe doạ đối với anh ta và những người trong lưới. Biết Bảo Chung là người khảng khái, thật thà và trọng danh dự, Ngọc lựa lời hạ bớt “cơn hoả”.
- Trả thù dằn mặt là lối hành động của cánh anh chị, trả thù ngầm là cách làm của kẻ tiểu nhân. Cách trả thù cao thượng là phải làm cái gì tỏ ra chính nhân quân tử hơn nó.
Bảo Chung lặng im giây lát rồi nắm tay vắt ngang ngực ngâm vài câu trong bài “Nhớ rừng”.
“... Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!”
“Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị...”.
Có người chân thành nghe mình dốc bầu tâm sự và thực tâm san xẻ nỗi lòng, lại vạch ra hướng giải quyết bế tắc một cách hợp lý, Bảo Chung bình tĩnh trở lại. Anh ngồi xuống ghế đối diện với Ngọc, thong thả bàn soạn công việc.
- Tôi nghe anh. Chí lí lắm! Dù bị thằng Phan đuổi khỏi lực lượng quân sự, tôi vẫn tìm cách trở lại nhà binh. Tôi phải có chỗ đứng đúng sở trường để phục vụ kháng chiến nhiều hơn. Các anh đừng bỏ rơi tôi nhá.
Hà Ngọc góp ý:
- Anh nên tuỳ cơ ứng biến. Tuy nhiên, xác định như vậy là đúng hướng. Trung tâm sẽ liên lạc với anh, trước mắt anh giữ quan hệ với Thuyền.
Rõ ràng Bảo Chung cố nén tiếng thở dài khi nhắc đến tên người anh em họ. Chắc hẳn giữa hai người “vừa là anh em vừa là đồng chí” này đang có mắc mớ với nhau về một kỷ niệm nặng nề, một ấn tượng không tốt nào đó. Trong một tổ công tác mà phải giữ kẽ với nhau, thậm chí hầm hè nhau, thì rất dễ dẫn đến sứt mẻ tình anh em, tổn hại tới hiệu quả công tác. Hà Ngọc gợi ý khéo.
Bảo Chung bộc bạch tâm sự.
- Tuy người xưa dạy rằng: “Không nên nói cái dở của người, chớ nên khoe cái hay của mình. Nhưng vì lợi ích cách mạng tôi cứ phải nói. Thuyền là một người nhanh nhạy về chính trị, nhưng cũng là tay thích nói bốc và bịp. Anh ấy không kết bạn được với những người trung thực. Tôi biết một số bạn bè của anh ấy. Họ chơi với anh ấy nhưng vẫn ngại bị anh ấy đưa vào “xiếc”. Có dịp, anh nhắc Thuyền tránh những chuyện đó.
*
Năm 1952, Viết Thảo - cán bộ Phòng điệp báo vào Đông Anh huấn luyện nghiệp vụ cho một số giao thông viên ở địch hậu bị địch vây càn, phải xuống hầm bí mật với một anh du kích. Anh du kích muốn bảo vệ người cán bộ được trên phái xuống địa phương nên quy ước: Thảo là hương sư chưa kịp chạy trốn thì địch càn tới, gặp du kích liền bị lôi tuột xuống hầm tránh để khỏi lộ cả hai. Khi bị địch bắt, cả hai làm đúng kế hoạch. Địch dẫn giải Thảo về Hà Nội giam tại Nhà Tiền, anh du kích sau những trận tra tấn khảo cung, chúng xếp vào loại tù binh. Pháp nhìn bộ dạng Thảo trắng trẻo, gày yếu cho rằng anh không thể là du kích - những người dãi dầm nắng mưa ngoài đồng ruộng và dạn dày với súng đạn nên canh giữ chiếu lệ chờ xét xử phóng thích: thấy anh thạo tiếng Pháp, chúng dùng anh vào một số công việc lặt vặt.
Ngay sau khi được tha Thảo đã tự tìm đến một địa chỉ nhạy cảm - đó là nhà Thân Trọng người đang làm việc ở toà án Hà Nội, có uy thế và được Pháp tín nhiệm. Thảo tự giới thiệu rồi đề nghị Thân Trọng giúp đỡ trong việc xin thẻ căn cước tại Hà Nội. Thảo biết Thân Trọng là do qua những buổi họp kiểm điểm lực lượng và mối quan hệ giữa vùng tự do với vùng địch hậu trong đó bàn luận đến ý định của Trung tâm muốn thuyết phục vị quan toà này làm việc cho kháng chiến. Bước đầu tiên Trung tâm cử người đến nhà thông báo cho Thân Trọng một số tin tức gia đình Thân Trọng đang sống ở ngoài vùng tự do, tiếp theo là vài cuộc tiếp xúc thăm dò.
Vài tuần sau, Viết Thảo có đầy đủ giấy tờ hợp lệ, đến tá túc ở nhà em ruột tên là Quản và chuẩn bị sinh sống bằng nghề dạy học tư. Trung tâm thấy Viết Thảo liên hệ vô nguyên tắc ngại Phòng nhì Pháp “thả mồi theo vết” nên đình chỉ việc lôi kéo Thân Trọng để bảo đảm an toàn cho ông. Viết Thảo sợ cuộc sống bơ vơ, anh biết Hường, một tổ trưởng tình báo cắm chốt ở Hà Nội liền tìm đến nhà, nhờ gửi báo cáo riêng của mình về Trung tâm. Thảo đến cả nhà Triệu Thi Mát để cậy nhờ. Trung tâm chỉ thị cho Thảo tạm nằm im giữ cự ly an toàn, chờ hướng giải quyết của Trung tâm. Thảo không chấp hành, ngày nào cũng đến nhà Hường và Thi Mát, Lưới bộc lộ nhiều sơ hở, có nhiều mặt phải cảnh giác.
Nhưng ở đời lắm sự bất ngờ, có cái đáng lo mà hoá ra lo hão. Tại các đô thị miền Bắc vào năm 1953 khí thế cách mạng cồn lên như sóng. Địch hoang mang lo thế thủ hoặc trốn chạy, các cơ quan đàn áp kìm kẹp cũng làm việc sơ khoáng, đại khái, rời rạc từng mảng, do đó, ta có nhiều sơ suất mà địch vẫn chưa phát hiện được. Phía ta cũng đang bận tíu tít, vừa củng cố cơ sở cũ vừa phát triển lực lượng mới, vừa làm nhiệm vụ trước mắt vừa lo triển khai kế hoạch lâu dài... nên có trường hợp giao nhiệm vụ cho cấp dưới mà không kiểm tra, đôn đốc triệt để. Tình trạng ấy thể hiện rộ ở trường hợp Viết Thảo. Hà Ngọc đề nghị Trung tâm rút Viết Thảo ra vùng tự do để bảo vệ cơ sở, nhưng đề nghị của anh chưa được giải quyết.
*
Tùng Sơn không biết mối hiểm hoạ vẫn kè kè cạnh nách, anh được “xếp” mới cho nghỉ một tuần để xả “ga”, anh biết Đoàn Trung Mộc thả lỏng cấp dưới như thế là vì nể “ông kễnh” Đoàn Thi. Từ giám đốc Tại đến Trưởng phòng Lý, Mộc đều hành động theo cách “vuốt mặt nể mũi”; anh thực sự yên tâm và nhận thấy đã thoát nạn vì có sự bảo trợ của Đoàn Thi. Anh không giấu lòng biết ơn của mình đối với ông bà già tốt bụng; tuy anh không thể hiện lòng biết ơn bằng lời nói tâng bốc, hành vi nâng đón thớ lợ, nhưng tấm lòng kính trọng chân thành của anh cũng đủ làm ông bà già nhân hậu vừa lòng. Chính nhờ sự hàm ơn sâu kín ấy lại là cách chinh phục tâm tư, tình cảm ông bà già mạnh nhất, bền vững nhất. Ông bà Đoàn Thi càng kiên trì ý định gây dựng cho chàng trai thảo nảo, trầm tính và ngay thẳng nên người.
Tùng Sơn đang suy nghĩ lan man thì Lê Nguyên đến chơi. Nguyên là nhân viên Phòng chính trị dưới quyền chủ sự Vũ Đình Lý, anh thường đến chơi nhà này, tự nhận mình là đày tớ “quan cụ” và bạn của Tùng Sơn. Nguyên nhìn trước ngó sau rồi hỏi:
- Các cụ đi vắng cả?
Tùng Sơn mời Nguyên yên vị, gọi người giúp việc mang giải khát lên. Anh muốn qua Nguyên để dò la thái độ của Phòng chính trị đối với mình:
- Sếp của ông nhiễu sự quá, làm mất thì giờ của ông cụ. Đấy, có gì đâu, trắng đen rõ ràng. Nguyên nghiêng về phía Tùng Sơn:
- Chớ vội mừng. Xừ Lý nghi ông là thằng Tuấn công an Hà Nội nên ghi vào lý lịch tư pháp và giao cho bọn thằng Hênh bí mật giám sát ông đấy.
Quả là mới thấy dấu hiệu tốt chớ vội cho là hay, nhưng Tùng Sơn là người có bộ thần kinh khá vững. Anh ngả mình ra sau cười ha hả, có ý chế nhạo việc làm vớ vẩn của Phòng Chính trị.
- Sếp của ông nhìn gà hoá cuốc rồi! Tuy nhiên, tôi rất cảm ơn ông đã vì tình bạn mà lộ cho tôi biết tin này.
Tiễn Nguyên về rồi, nỗi lo ngại mới hiện hình trong đầu Tùng Sơn. Nguyễn Đình Tại và một số trưởng phòng Nha Công an Hà Nội là Đảng viên Đại Việt, đó là một trong những đối tượng tìm diệt của Đội công tác đặc biệt do Bá Đoan chỉ huy mà anh là thành viên, may sao thời gian sôi động ấy anh không chạm trán với bọn này, vì thế Lý mới nghi anh là cậu Tuấn công an nào đó. Nhưng màng lưới mật thám do thằng Hênh chỉ huy biết đâu chẳng có bọn Đại Việt, Quốc dân Đảng, Đồng Minh hội từng bị anh rượt đuổi thời kỳ cách mạng tháng Tám thành công và ngày đầu kháng chiến. Khả năng bị lộ khá lớn. Anh đành tạm khắc phục bằng cách “tĩnh toạ”, hết giờ làm việc ở công sở là về nhà, về nhà thì dồn tâm lực vào việc săn sóc các con Đặng học tập. Giải pháp tiêu cực ấy có hiệu quả, mọi việc đều đều êm êm, anh không thấy có hiện tượng khả nghi đáng lưu tâm. Nguyên cũng không thóc mách gì thêm. Dẫu vậy, anh vẫn khẳng định rằng bọn Lý không khi nào bỏ cuộc một cách dễ dàng, không thể xem thường cái thằng hết làm tay sai cho Pháp lại quay ngoắt sang làm tay sai cho Nhật, cuối cùng muối mặt về ôm chân chủ cũ.
Đoàn Thi thấy dạo này Tùng Sơn ít ra ngoài, đôi khi có biểu hiện tư lự, ông lấy làm lạ liền gạn hỏi.
Tùng Sơn nói thật để tìm sự bảo vệ:
- Ông nói vậy mà anh Tại vẫn nghi con là Tuấn công an Việt Minh. Đoàn Thi vỗ bàn đứng dậy, chửi thề rồi nói:
- Khinh nhờn thật! Lôi thôi thì dắt díu nhau đi chăn ngựa.
Đoàn Thi buông lời “mục hạ vô nhân” ấy là có duyên cớ. Bọn Nguyễn Đình Tại sợ ông chứ không thân với ông, ông còn quyền chúng còn nể sợ, ông hết quyền, chúng có thể trở mặt đánh lại ông. Nhưng, tình thế ấy sắp khác. Nguyễn Văn Hướng - bạn thân ông sắp từ Sài Gòn ra thay Nguyễn Đình Tại, tất nhiên bộ khung của Tại phải đổ luôn.
Tùng Sơn yên tâm phần nào về áp lực từ phía bọn Đại Việt làm công an ép xuống, anh gợi sang ý khác:
- Con đọc báo thấy cuộc chiến ở thung lũng Điện Biên Phủ diễn ra kịch hệt, quân sĩ dưới quyền chỉ huy của tướng Đờ-cát chiến đấu rất dũng cảm, Việt Minh bị...
Đoàn Thi gạt phăng:
- Nghe bọn nhà báo, nhà binh có phen vắt chân lên cổ chạy không kịp.
Chỉ cần thế cũng đủ giúp Tùng Sơn hiểu quân ta đang thắng thế và phỏng đoán được tình thế hoang mang dao động của bọn Ngụy quyền.
*
Nguyễn Văn Hướng từ Sài Gòn ra, đến thẳng nhà Đoàn Thi. Bà Cả tổ chức bữa tiệc chiêu đãi bạn của chồng rất thịnh soạn nhưng thân tình; ngoài Hướng, bà cả còn cho mời những bạn của khách và chồng đang giữ chức vị cao trong chính quyền thành phố đến dự. Đây là cuộc họp mặt của một êkíp mới. Tùng Sơn trở thành vai tiếp tân chính, anh đón chào các quan khách tới dự bữa cơm gia đình bằng phong thái tao nhã và lịch lãm. Người mới gặp cũng không thể không có cảm tình về anh.
Trong bữa tiệc, Đoàn Thi đứng lên giới thiệu giám đốc mới và khách rồi chỉ chàng trai chững chạc, nói nằng lưu loát, vui vẻ giới thiệu tiếp:
- Con rể em ruột tôi - chú Đoàn Thiên Giám đốc Công an Bắc Ninh. Mong được các ngài nâng đỡ.
Thực là lời giới thiệu ra mắt có giá trị thuyết phục trước các quan chức cũ và mới đối với một điệp viên cần phủ lên mình tấm áo Ngụy trang. Đột nhiên, Hướng - giám đốc mới đề cập tới một vấn đề khá quan trọng và mới mẻ:
- Có thể cựu Thượng thư Ngô Đình Diệm sẽ từ Mỹ về nước thay Thủ tướng Bửu Lộc. Đoàn Thi ngạc nhiên hỏi:
- Pháp chịu Mỹ vượt mặt à?
Hướng nâng chén lên hạ chén xuống:
- Thế lực đôla Mỹ mạnh lắm.
Đoàn Thi ngớ người, lúc này ông mới thấy tuổi già thiếu nhạy bén của mình:
- Hãng buôn Đại Ý gửi đơn xin chuyển cơ sở chính vào Sài Gòn. Bọn nhà buôn thánh thật! Đó là những thông tin quan trọng mà Tùng Sơn bất ngờ chớp được.
Nguyễn Văn Hướng thay Nguyễn Đình Tại dẫn đến thay đổi nhân sự. Tại ra đi, bọn đàn em thất thế bị đuổi khỏi chiếc ghế đang ngồi và thay thế bằng bọn đàn em Hưởng. Thế lực Đoàn Thi càng mạnh hơn. Tùng Sơn thoải mái đi lại giao thiệp với các giới chức, kể cả bọn Phòng Nhì Pháp. Một hôm, anh lảng vảng đến hiệu trồng răng Minh Sinh bất ngờ gặp Cao Minh Châu - nhân vật quan trọng trong tổ chức công giáo Bùi Chư, một trong những lực lượng ủng hộ Ngô Đình Diệm về nước. Châu khuyên Tùng Sơn nên ngả theo khuynh hướng mới này. Hắn bảo:
- Không tỉnh táo, năng động thì hết chỗ chen chân.
Xu thế Mỹ nhúng tay can thiệp dẫn tới nhảy vào Việt Nam đã hé lộ từ lâu, từ ngày Tổng thống Mỹ Ru-dơ-ven tuyên bố chính sách phòng thủ toàn cầu. Tùng Sơn được cử vào Hà Nội là làm công tác chuẩn bị đối phó với tham vọng của Mỹ. Anh chưa phát hiện ra phe cánh thân Mỹ để tìm cách tiếp cận chúng thì... chẳng khác gì muốn qua sông lại gặp bến đò. Tùng Sơn mừng thầm, anh lật ngửa bàn tay Minh Châu vỗ một cái khá mạnh để tỏ ra anh rất phấn chấn về mối giao hảo hợp tác ấy:
- Ý kiến ông làm mình sực nhớ tích xưa: Lưu Bình, Dương Lễ biết dựa vào nhau mà vượt qua hoàn cảnh khó khăn để bước vào quan trường. Hay lắm! Chúng ta có một liên minh tiến thủ. Tôi ủng hộ sáng kiến của ông.
Minh Châu cười cười:
- Ba chàng thợ da thành một Khổng Minh, hai chàng cơ hội tạo nên khả năng đón lõng. Tóm lại, có hai chân là đủ đứng vững, ông ôm Pháp, tôi ôm Mỹ, thằng nào thắng thế ta cũng có chỗ dựa.
Tùng Sơn khen lấy lệ:
- Ông thực là người nhạy bén về chính trị.
Hai chàng “cơ hội” dắt tay nhau bước ra khỏi hiệu Minh Sinh, đang đi thì gặp thằng Tây mặc xi-vin đi tới Thằng Tây giơ hai tay lên trời ô ô a a tỏ vẻ ngạc nhiên. Thì ra thằng Tây quen Minh Châu. Nó không phải là Tây chính hiệu mà là thằng Tây lai Tàu, nó tên là Bernard - sĩ quan Phòng Nhì, nó biết tiếng Quảng Đông, nói tiếng Việt cũng khá sõi. Bất chấp Tùng Sơn là ai, Bernard bô bô hỏi:
- Có phi vụ gì không?
Nghe chuyện hai thằng trao đổi, Tùng Sơn hiểu ra hai gã không những làm mật thám mà còn tham gia các phi vụ phạm pháp, có khi chúng làm mật thám chỉ để tạo nên thế mạnh cho các vụ áp-phe hàng lậu. Cái cách bô bô thổ lộ thứ công chuyện làm ăn phải giữ kín khiến tính cảnh giác nơi Tùng Sơn trỗi dậy: Bọn này giăng bẫy, thả bùa chăng? Cần phải làm sáng tỏ:
- Hai ông không ngại chuyện bí mật ấy lọt vào tai kẻ qua đường thóc mách à? Bernard phẩy tay bất cần:
- Ai thóc mách? Có thóc mách cũng chẳng sao. Các vị to đầu còn mải lo cho bản thân mình thì giờ đâu quan tâm tới việc khác - Y chỉ tay vào ngực Tùng Sơn nói như đanh đóng cột: - Ngay đến chuyện biết đích xác 100% ông là Việt Minh họ cũng lờ đi như không biết gì?
Tùng Sơn gợi chuyện:
- Làm gì đến nỗi ấy.
Có lẽ thằng Tây lại bị tư tưởng chiến bại làm đảo lộn mọi dự định, mọi khuynh hướng nên mới thối chí chiến đấu, gã nhìn đâu cũng thấy sự tắc trách, rệu rã... Gã nhún vai, phẩy tay bảo:
- Bọn có tinh thần tự phụ trách vẫn còn, nhưng không nhiều đâu... Một ông tướng trong Bộ Tham mưu đang nằng nặc đòi xin về nước trước kỳ hạn.
Tùng Sơn không ngờ hôm nay mình thu lượm được một lượng thông tin có cơ sở để đánh giá: Pháp đang thua, tình trạng giao thời hỗn quân hỗn quan đang nảy nở. Về nhà, anh thấy ông bà Đoàn Thi đang bàn đến vấn đề di cư. Vậy thì sự đánh giá tình thế của anh là đúng.
Hôm sau, Tùng Sơn đi gặp Văn Văn thông báo các thông tin thu lượm được với niềm phấn chấn không cần che giấu. Anh nghĩ đến cuộc đoàn tụ, anh sắp được gặp mẹ già, vợ con và các bạn thân quen. Anh sắp được... ôi, biết bao dự định ấp ủ sắp có cơ hội thực hiện. Nhưng là cấp thừa hành nên chẳng thể nói trước điều gì.
Không bao lâu Văn Văn tìm Tùng Sơn phổ biến tình hình:
- Hiệp định đình chiến Giơ-ne-vơ sẽ ký kết nay mai, Việt Nam tạm chia làm hai miền, Ngụy quyền quản lý miền Nam. Pháp thất thế, Mỹ lăm le nhảy vào thay. Ngô Đình Diệm đã từ Mỹ về Sài Gòn. Trung tâm cử tôi dẫn một tổ điệp báo theo đường di cư vào Nam.
Tùng Sơn nhìn Văn Văn. Anh chỉ là một điệp viên được chiêu mộ để đáp ứng tình thế, chưa được huấn luyện nghiệp vụ. Chống Mỹ cần những điệp viên lành nghề, chắc anh không thuộc diện này. Còn Văn Văn thì sao? Anh là tình báo viên kỳ cựu, được cử đi là xứng đáng. Nhưng, chính Văn Văn thổ lộ với anh rằng anh ấy có người yêu ở Hàng Bồ, hai người yêu nhau tha thiết và ước hẹn hết chiến tranh sẽ tổ chức cưới. Bây giờ Văn Văn vì nhiệm vụ tiếp tục ra đi. Chà! Anh nhìn kỹ nét mặt con người vừa là bạn, vừa là cấp trên hỏi:
- Câu chuyện Hàng Bồ ra sao?
Văn Văn móc túi lấy ra bao thuốc Basto, rút một điếu rồi đưa cả bao thuốc cho Tùng Sơn. Anh châm lửa nhưng vừa rít đã ho sặc sụa. Anh vốn không nghiện thuốc, Tùng Sơn biết thế nên càng thông cảm với nỗi lòng bạn, anh toan lên tiếng an ủi thì Văn Văn đã nói:
- Anh cũng nằm trong biên chế tổ tình báo Nam tiến do mình chỉ huy.
Tùng Sơn hiểu nhanh tình thế, anh đã chuẩn bị tư tưởng nên tuy không bị sốc nhưng cũng thoáng bối rối. Nước nào cũng vậy, hết chiến tranh là người lính được thở phào; còn ở Việt Nam thì cuộc chiến tranh này dứt sẽ tiếp diễn cuộc chiến tranh khác chăng? Vậy là cuộc chiến đấu vẫn chưa ngừng hẳn. Trước mắt Tùng Sơn, chiến tranh và hoà bình không phải là hai khái niệm mà là hai tình huống an và nguy. Ngót chục năm sống trong cảnh gian lao nguy hiểm và đầy ắp những lo toan không thể coi là ngắn với một đời người nhất là thời gian ấy lại là quãng trai trẻ sung sức. Sau ly ắt sẽ là hợp, sau dông tố ắt phải yên lành, lẽ đời là thế và cần phải thế để giữ thăng bằng. Anh nhớ và nhìn rõ khuôn mặt người thân, vết chân chim hằn dưới đôi mắt mẹ, nụ cười như đoá hoa nở của vợ và ánh mắt hau háu của con... Nhưng trách nhiệm và bổn phận? Chỉ là kẻ đốn mạt mới trốn tránh bổn phận, chối bỏ trách nhiệm. Anh phải sống và làm việc với thực tại.
- Pháp bại trận tất dẫn đến Đoàn Thi thất thế... Tôi cần phải thiết kế điểm tựa vững chắc. Văn Văn gật đầu công nhận:
- Tình hình biến chuyển nhưng không nhanh như lật quyển sổ. Trong lúc giao thời Đoàn Thi vẫn còn tác dụng, nhất là ông ta có nhiều tay chân trong Ngụy quyền và Ngụy quân. Điều tiên quyết là anh phải bám gia đình Đoàn Thi mà đi.
Tùng Sơn nhìn ra xa, tay đưa lên hạ xuống tỏ vẻ bất lực:
- Đi với Đoàn Thi thì nhà tôi và cháu không thể đi theo được; Không những thế, Đoàn Thi sẽ ép tôi phải cưới cô Son.
Văn Văn suy nghĩ một lát, nói:
- Mình sẽ xin chỉ thị của trung tâm, nhưng theo mình thì cậu nên cưới cô Son, thằng tình báo nằm mơ cũng không thể có hoàn cảnh thuận lợi như cậu, vừa Ngụy trang tốt vừa có thế bám rễ leo cao.
Tùng Sơn xua tay như xua ruồi:
- Không ổn! Đến vậy thì tôi còn mặt mũi nào nhìn mặt nhà tôi và con tôi. Văn Văn vẫn không thay đổi ý định:
- Có thể như thế là vi phạm đạo đức cách mạng, làm tổn thương tình cảm riêng tư của cậu. Chỉ xin cậu nhớ cho điều này: Cách mạng cần sự cống hiến của một người có khả năng và vị thế như cậu. Cậu hãy suy nghĩ kỹ, phần mình ngoài công việc đề đạt kế hoạch thâm nhập của cậu với trung tâm, mình sẽ gặp chị làm công tác tư tưởng.
Mấy hôm sau Văn Văn gặp Tùng Sơn thông báo: Trung tâm đồng ý kế hoạch thâm nhập và chị Thu vui lòng “vì nghĩa cả quên tình riêng”.
Tùng Sơn buộc phải triển khai công việc theo kế hoạch. Nghĩ đến vợ con, anh thấy mình là kẻ bất nghĩa, bất nhân, anh muốn từ bỏ tất cả quay về sống một cuộc sống đời thường với vợ con; nhưng nghĩa vụ công dân nhắc nhở anh: không bảo vệ chính nghĩa, không kiên trì lý tưởng thì sớm muộn sẽ trở thành kẻ vô dụng, một gã vô liêm sỉ.
Thôi đành chấp nhận hoàn cảnh, ở đời mấy người đạt được thành quả “công tư trọn vẹn”. Tùng Sơn gặp Đoàn Thi ở phòng khách, anh toan gợi vấn dề di cư để dẫn dắt suy nghĩ của ông phát triển theo dự định của mình thì chính Đoàn Thi đã nêu ra trước:
- Gia đình tôi không thể ở lại miền Bắc, anh cũng nên chọn mảnh đất phương Nam làm nơi lập nghiệp.
Quả là trèo dốc vớ được gậy, Tùng Sơn hưởng ứng liền:
- Thưa ông, con không muốn xa ông bà, con cũng có ý định ấy. Nhưng...
Bà Cả từ phòng riêng vừa đi ra vừa nói:
- Lưỡng lự nỗi gì? Để tôi tính cho: Tôi đã chọn được ngày đón cháu Son về làm dâu nhà này, việc trăm năm phải lo trước việc di cư.
Tùng Sơn vẫn dạo dạo ở tầm xa:
- Thưa ông bà! Việc đó không ổn...
Người đàn bà quen ra lệnh và quen được phục tùng bước đến trước mặt Tùng Sơn, nghiêng nghiêng đầu hỏi:
- Cái gì không ổn! Chẳng cái gì là không ổn cả.
Đến lúc Tùng Sơn đi thẳng vào trọng tâm công việc thầm kín của mình:
- Con không muốn làm khổ lây sang cô Son. Vì hồi con đi tìm vợ con con ở vùng Việt Minh về bị đốc sự Lý bắt; ông ta nể sợ ông nên gác vụ ấy nhưng lại ghi trong hổ sơ tư pháp là nghi con hoạt động Việt Minh. Với bản lý lịch tư pháp đó vào trong Nam, con sẽ bị công an Sài Gòn bắt lúc nào cũng được.
Bà Cả nhìn chồng ra ý hỏi: Xử trí thế nào? Đoàn Thi đáp:
- Khó gì đâu! Ngày mai tôi đến gặp Giám đốc công an rút cái hồ sơ tư pháp quái quỷ ấy ra là anh yên lòng chứ gì.
Hoàn cảnh này Tùng Sơn chẳng thể mong có được cách xử lý tốt đẹp hoàn hảo hơn. Việc Đoàn Thi nói được thực hiện ngay buổi sáng hôm sau, ông mang bản hồ sơ về giao cho Tùng Sơn bảo huỷ đi rồi giục anh sang công an làm các giấy tờ. Tùng Sơn nhờ Cao Minh Châu đưa đến Phòng công an đặc biệt làm hồ sơ theo thủ tục hành chính; Sau đó Châu giới thiệu anh với chánh án Bạch Văn Ly để hợp thức các giấy tờ hộ tịch gốc. Vậy là anh có một lý lịch trắng bong.
Trước khi tổ chức cưới Son, Tùng Sơn lẻn về Khâm Thiên thăm người vợ thuở hàn vi. Thu không thay đổi mấy, vẫn cái vẻ lam làm, cam chịu như xưa. Tùng Sơn ngồi bên vợ với dáng bẽn lẽn tội lỗi. Anh không thể nói nên lời, anh không biết nói thế nào cho phải. Rút cục, chính Thu chủ động giải toả tâm lý bức bối cho anh:
- Em biết tình riêng không thể phân chia, anh cũng không muốn cảnh trớ trêu này là em hả lòng rồi. Vì nhiệm vụ chúng ta đành chấp nhận.
Tùng Sơn móc túi lấy bức thư của Son gửi cho Thu. Thu mở ra đọc, đọc xong nét mặt chị tươi tỉnh hẳn lên:
- Cũng may, cô ta là người biết điều.
*
Hà Ngọc hoàn thành nhiệm vụ kiểm tra đồng thời nắm khá vững một số lưới điệp báo cài cắm trong hàng ngũ địch ở Hà Nội và cũng là thời kỳ tình thế chuyển biến. Sau chiến dịch Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết. Ba trăm ngày là thời gian cho hai bên tập kết lực lượng của mình, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà quản lý miền Bắc, Chính quyền Bảo Đại - Pháp quản lý miền Nam, lấy vĩ tuyến 17 - sông Bến Hải làm ranh giới phân chia tạm thời. Hai năm sau sẽ tổ chức Tổng tuyển cử toàn quốc để thống nhất nước nhà.
Tình hình Việt Nam hiện nay như một người ốm mới được chữa khỏi bệnh chính, nhưng vẫn còn đang “ủ” nhiều thứ bệnh khác nguy nan hơn.
Mỹ nhòm ngó Đông Dương từ thời cố Tổng thống F.D.Rosevelt khởi xướng thuyết “phòng thủ vành cung Đông Nam Á”, Truman nâng lên thành thuyết “Phòng thủ toàn cầu” với chiến lược răn đe “Phản ứng tức thời”, “Trả đũa ồ ạt”. Và bây giờ D.D. Eisenhower kế tục với tham vọng mang tính thực dụng hơn: “Đưa các quốc gia Đông Nam Á vào thế phòng thủ toàn cầu của Mỹ”. Mỹ tăng cường can thiệp vào miền Nam, o bế chính quyền Diệm, chèn ép chính quyền Pháp ở Đông Dương. Pháp có nhiều quyền lợi ở Đông Dương không dễ gì nhả ra ngay. Sự kiện hiệp thương đi đến tổ chức Tổng tuyển cử toàn quốc xem ra sẽ là một quá trình gian truân. Nếu không phòng xa đối phó với biến cố bất trắc thì sẽ có ngày gian nan khốn khổ.
Việc phái tình báo vào Nam trở thành một nhu cầu chiến lược. Cục phó Cục Tình báo chiến lược Trần Mười vẫn ở lại Sài Gòn để chỉ đạo hệ thống tình báo Nam Bộ, nhưng như thế vẫn chưa đủ, cần tăng cường lực lượng vào đó. Cục trưởng Phan Trần nói trong cuộc họp bàn nhiệm vụ “Tình báo Nam tiến”:
- Nếu lực lượng ta mạnh, ta có khả năng còn chi viện cho phong trào địa phương vào những giờ phút quyết định nhất.
Cục trưởng trao đổi riêng với Hà Ngọc:
- Cục phân công đồng chí dẫn một lưới tình báo Hà Nội vào Sài Gòn, đồng chí nghĩ sao?
Hà Ngọc bị bất ngờ khi nghe nói vậy. Sau chín năm liên tục hoạt động, cỗ máy Hà Ngọc không còn hoàn hảo như xưa, có lần anh ho ra máu, thần kinh luôn ở trạng thái căng thẳng. Đất nước thanh bình anh muốn được xả hơi, được gần gũi chăm sóc mẹ già và xây dựng tổ ấm gia đình đi vào qui củ. Nhưng, “quốc gia hưng vong thất phu hữu trách”, đất nước chưa thống nhất, mầm mống rối loạn vẫn còn, anh không thể lựa chọn cách sống cho mình. Nghĩa vụ là một gánh nặng và cũng là đôi cánh giúp con người mạnh mẽ bay vào đời.
- Tổ chức phân công, tôi chấp hành.
Cục trưởng Cục Tình báo nhìn thẳng Hà Ngọc, hỏi:
- Chị thế nào? Anh động viên chị được chứ?
Hà Ngọc hiểu rõ vợ mình. Liên là người đàn bà chu đáo hết lòng thương yêu chồng con, không khó khăn nào khiến chị nản lòng; thời kháng chiến tản cư lận đận, lo ăn mặc chật vật, trốn chạy giặc trong chiến dịch đại tấn công Việt Bắc, tránh đạn bom từ hàng chục máy bay Pháp dội xuống san phẳng chợ Vũ Ẻn... chị chứng tỏ mình là người tháo vát và kiên cường; từ ngày vào làm việc trong cơ quan kháng chiến, chị càng vững vàng hơn ở hai tư thế công dân và chủ gia đình.
Hà Ngọc vững tâm nói thay vợ mình:
- Nhà tôi là người lính. “Đâu có giặc là ta cứ đi”.
Cục trưởng gật đầu:
- Thế thì tốt! Tuy nhiên, anh phải nên dân chủ hỏi ý kiến chị, động viên chị hy sinh vì nhiệm vụ chung - Ông ngừng lời, pha nước mời khách, ông kề cà thuốc nước khá lâu, dường như để dành đủ thời gian cho khách tính đường đi nước bước, rồi hỏi:
- Anh đã có dự kiến gì về anh em đi hay ở?
Quả là trong lúc hai người hút thuốc uống nước, Hà Ngọc đã kiểm điểm lực lượng và phác kế hoạch Nam tiến của lưới tình báo do mình chỉ huy:
- Bốn người đi theo Ngụy quân Ngụy quyền là Triệu Thi Mát, Uông Văn Mùi, Vũ Bằng và Nguyễn Đình Thuỳ; Người đi theo đường di cư là Bảo Chung. Trần Nguyên Thuyền thì... Tôi muốn anh làm công tác tư tưởng với cậu ta.
Cục trưởng gật đầu, chuyển sang chủ đề khác:
- Đồng ý. Anh đã có phương án sống trong đó ra sao chưa? Hà Ngọc đáp:
- Tôi sẽ liên hệ với người quen trong đó. Nhưng chưa lội xuống nước sao biết được nông sâu - Ngừng giây lát, anh nói tiếp: - Vào đó, xây dựng bình phong xong tôi sẽ gửi báo cáo ra ngay.
Cục trưởng cũng cười, ông gật đầu đáp:
- Rất hợp lý! Cục cấp cho anh một vạn tiền Đông Dương để lo chỗ ăn ở và bình phong.
Hà Ngọc chia tay Cục trưởng rồi vào Hà Nội ngay để thu xếp công việc. Ba trăm ngày cho công việc đi hay ở là quá đủ với từng gia đình. Đây là thời gian phân hoá rõ ràng đối với những người thiết tha gắn bó với chế độ xã hội, và cũng là cơ hội cho những kẻ có tham vọng bộc lộ ra hành động và cũng là cơ hội cho những tên tội phạm trốn chạy sự trừng phạt của pháp luật.
Giai đoạn quá độ giữa ta và địch. Hà Ngọc thoải mái đi giữa đất Thăng Long nhan nhản lính Âu - Phi, tất tả ngược xuôi những người xách va li, mang vác hòm xiểng tìm đường di cư vào Nam. Anh tìm Quận trưởng cảnh sát Nguyễn Đình Thuỳ. Thuỳ di cư đợt đầu. Anh đến nhà Uông Đình Mùi. Gia đình Mùi là Công giáo toàn tòng nên “theo Chúa vào Nam” là đương nhiên. Anh nhìn lướt đám va li, hòm xiểng đai buộc cẩn thận, hỏi Mùi bằng ánh mắt. Mùi thành thật:
- Nếu có lệnh tôi phải ở lại cũng khó, vì tất cả gia đình tôi đều đi. Hà Ngọc cười, nắm tay Mùi thật chặt:
- Hẹn gặp lại nhau ở Sài Gòn.
Hà Ngọc gặp Vũ Bằng trước nhà hàng Thuỷ Toạ Hoàn Kiếm, Vũ Bằng ôm nghiến eo Hà Ngọc hỏi cộc lốc, mùi rượu bốc “mù mịt”.
- Thế nào?
Hà Ngọc rướn người để khỏi bị nghẹt bởi anh chàng suốt ngày làm bạn với Lưu Linh. Anh vốn không ưa những người nghiện rượu, nhưng biết có người nhờ hơi men mà nói năng hoạt bát, suy nghĩ sắc sảo. Hà Ngọc hỏi Vũ Bằng bằng cái nhìn hàm chứa của ánh mắt; sau khi tiếp nhận được tín hiệu cũng bằng ánh mắt, anh có thể yên tâm thổ lộ.
- Đất nước tạm chia làm hai miền. Trung tâm muốn anh vào Nam, công dân văn hiến nghĩ sao?
Vũ Bằng buông Hà Ngọc thọc hai tay vào túi, cúi đầu đếm bước vừa chậm rãi nói:
- Thủ đô là nơi kết tinh linh khí dân tộc, tập hợp nhân tài đất nước. Thời thịnh vận suy đều là cơ hội cho các anh hùng danh nhân nổi lên. Tôi tuy là một anh nhà báo quèn cũng được mang danh là công dân của đất Thăng Long ngàn năm văn hiến, dù giúp ích chẳng được bao nhiêu, tôi cũng sẵn sàng lên đường. Vợ con ở lại Hà Nội cho nhẹ bước tang bồng.
Hà Ngọc nắm bàn tay đang vung vẩy của Vũ Bằng dùng bàn tay kia vỗ vỗ bàn tay của anh ta:
- Người Hà Nội sẽ khuấy đảo Sài Gòn một phen.
Triệu Thi Mát cũng nhận lời Nam tiến, động viên mấy người trong họ cùng đi, nhưng yêu cầu giữ Mai Trúc Tùng ở lại miền Bắc. Cậu ấy quen ăn chơi phóng túng, vào đó sẽ làm hỏng công việc của mình.
Hà Ngọc đồng ý. Trước đình chiến, Tùng xin ra vùng tự do công tác, Ngọc nhận lời và gửi anh ta ra Tuyên Quang. Anh ta vẫn ở Việt Bắc có ý tìm người anh trai là quân y sĩ, chắc vẫn luẩn quẩn ở ngoài đó, giữ anh ta không khó.
Bảo Chung lúc đầu không chịu đi. Anh muốn ở lại mảnh đất quê hương xứ sở. Hà Ngọc dựa vào sứ mệnh cao cả động viên giải thích, Bảo Chung nhất trí:
- D’accort! Không khí mới khí thế mới! Hào khí Thăng Long không bao giờ mất.
Hà Ngọc đến nhà Nguyên Thuyền. Vị quân sư quạt mo này là hòn đá tảng khó lay. Anh ta nhất định “sống chết với Hà Nội”, khăng khăng một mực.
- Tôi công tác liên tục trong lòng địch tám, chín năm rồi, người yếu rồi. Tôi cần ở lại để được hưởng hoà bình độc lập, gia đình đoàn tụ. Ở lại cũng không phải là hết tác dụng. Tôi có khả năng về kinh tế, tôi có thể làm việc gì đó cho Ban kinh tế kế hoạch nhà nước. Tôi cũng là cuốn tự điển sống để các anh tra cứu về nhân vật Ngụy, tổ chức và lề lối làm việc của chúng. Một người như tôi ở lại rất hiếm. Bây giờ các anh hiểu chưa ra, sau này các anh sẽ hiểu ra. Tôi nhất định không đi đâu cả.
Hà Ngọc nghe mà nản Nguyễn Thuyền đã nhầm lẫn quá lâu về thứ tài năng viển vông, một thứ tài bẻm mép chẳng giúp ích gì cho đời, dần dần anh ta ngộ nhận mình là người có chân tài, thế là lòng tự phụ bành trướng. Người có tài năng thì ở chế độ nào cũng được trọng dụng, được ưu đãi. Í tưởng ấy dẫn anh ta tới sự phách lối, yêu sách quá đáng. Dẫu sao, cái cốt lõi ở anh ta vẫn chỉ là một gã cơ hội, nên dù che giấu, Ngụy trang khéo đến đâu cũng cứ bị lòi ra. Anh ta viện đủ mọi chứng cớ để tỏ ra gia đình anh ta đang gặp khó khăn về kinh tế. Cục trưởng Cục tình báo phải vét hết quỹ mới được một vạn đồng Đông Dương chu cấp cho anh ta. Nguyễn Thuyền nghe nói quỹ của Cục đã cạn vì phải chi tiền vào quá nhiều công việc đột xuất liền ngỏ ý xin Cục cung cấp thuốc phiện.
Cục trưởng Trần ngạc nhiên:
- Cậu này hiểu và nghĩ thế quái nào thế nhỉ?
Nguyên Thuyền xoay sang xin cấp giấy đi lại giữa Hà Nội - Hải Phòng trong thời kỳ 300 ngày nhằm nhân lúc nhộn nhạo có thể kiếm chác bằng các chuyến buôn lậu. Anh ta thác cớ:
- Tôi có công việc phải thu xếp với những gia đình di cư. Đề nghị Cục cấp giấy thông hành. Giấy đi lại do công an cấp cho những người đi làm nhiệm vụ cần thiết giữa hai vùng, thời gian hiệu lực không quá ba ngày. Cục tình báo khá “chiều”, hay nói đúng hơn cố lấy lòng nhân viên của mình nên sang Công an xin giấy thông hành cho anh ta. Nguyên Thuyền không hiểu sự khó khăn, sự “phá lệ” của cơ quan tình báo, cũng có thể anh biết nhưng cố lạm dụng sự bao dung của cơ quan chủ quản nên được đổi giấy nhiều lần mà anh ta vẫn không biết nể. Gặp Hà Ngọc là anh ta nài nỉ “chiếu cố tình cảm”, Hà Ngọc giải thích thế nào cũng không vừa ý lòng tham.
Cục trưởng Trần về Hà Nội chỉ vài ngày đã thu xếp công việc để gặp Nguyên Thuyền. Cục trưởng đánh giá đúng mức những đóng góp của anh ta đối với kháng chiến, chủ yếu là tin tức mang tính chất salon, tuy nhiên tổ chức vẫn biểu dương cố gắng ấy và cho là tạm được.
Nguyên Thuyền bị điểm đúng huyệt. Tuy biết vậy, anh ta vẫn biến báo:
- Tôi cố vấn cho bọn chính khách, tướng tá Ngụy hạn chế tác hại do chúng gây ra cho ta... Cục trưởng phủ nhận ngay:
- Anh mách nước cho địch, tinh thần cố gắng hạn chế cái hại, phát huy cái lợi cho kháng chiến, nhưng những việc đó đều chưa xin ý kiến tổ chức, do đó đã có việc làm có hại; ví dụ việc vận động các lực lượng phản động thành lập một Mặt trận thống nhất chống Cộng sản chẳng hạn. May “cái thứ đó” chưa hình thành, nếu nó hình thành thì lợi hại thế nào?
Nguyên Thuyền ngọ nguậy, nhưng chịu chết. Tài biến báo miệng lưỡi chỉ có thể thi thố với kẻ ngu dại. Người ta biết thủ đoạn mình rồi thì tốt nhất là im lặng chớ giở thêm mánh khoé bịp bợm mà rơi mất mặt nạ. Cục trưởng Trần biết nhân viên của mình đã bị soi đúng thủ đoạn hành nghề mồi chài nên không nỡ đi sâu nữa. Ông chuyển sang vấn đề khác:
- Anh vào đó thì phát huy tác dụng tốt hơn. Vấn đề phục vụ nếu thấy môi trường nào có thể phục vụ thì mình lao tới. Còn tính toán cá nhân thì tuỳ anh suy nghĩ.
Nguyên Thuyền không nói gì thêm, chỉ ngồi nghe và ừ hữ lấy lệ. Sau đó anh ta thổ lộ với Hà Ngọc bằng giọng bực tức:
- Thái độ của anh Trần là thái độ của người muốn vắt chanh cho kiệt nước. Anh ấy bảo tôi nếu ở lại thì không còn tác dụng, như vậy có nghĩa là anh ấy cho tôi bây giờ là loại bỏ đi, vô dụng.
- Anh ta thở dài đánh thượt, than thở tiếp: - Chao ôi! “Chim bay diệt hết rồi thì cất cung, thỏ săn hết rồi thì giết chó, nước địch phá rồi thì mưu thần bị quên lãng” thế thái nhân tình là vậy đấy.
Hà Ngọc thấy Thuyền vận dụng lời nói của Phạm Lãi để oán trách và mặc cả, anh liền dùng lời nói của Khổng Tử để nhắc nhở:
- Chớ lo người không biết mình, hãy lo mình chẳng biết người.
Thuyền nắm chắc có tranh luận nữa cũng chẳng đi đến đâu, chỉ tổ khiến người ta nhìn thấy gan ruột. Anh ta đổi sang giọng kiên quyết:
- Nhưng tôi báo để anh biết, tôi có quyền công dân của tôi. Tôi không đi đâu cả.
Hà Ngọc báo cáo chuyện này với Cục trưởng. Cục trưởng Trần cho rằng không thể ép người ta phải có hành động yêu nước, càng không thể ép người ta phải có tinh thần tự chịu trách nhiệm.
- Tuỳ cậu ta! - Ông ngừng lời như dành thời gian để tưởng tượng ra cuộc sống gian khổ, hiểm nguy của người tình báo hoạt động trong lòng địch, ông chuyển sang vấn đề có quan hệ thiết thực với Hà Ngọc.
- Thằng Tâm có tư duy, có nhận thức khá rồi đấy. Nó lại sống trong khu tự do từ nhỏ, nên phải cảnh giác sự sơ hở của nó. Có thể anh để cháu ở lại ngoài này, cơ quan sẽ thay anh chị chăm sóc cháu, chỉ nên mang cháu Hoà Bình đi tôi.
Hà Ngọc đem ý của Cục trưởng nói với vợ con. Liên thương con không muốn để con ở lại. Bé Tâm khăng khăng không nghe:
- Mặc kệ! Bố mẹ ở đâu con đi theo đấy!
Trước khi lên đường, Hà Ngọc về quê từ biệt mẹ. Bà thấy con cháu trở về sau cuộc chiến tranh, chết chóc, chia ly nhớ nhung... mừng quýnh lên, bà bế Hoà Bình và nói với bé Tâm:
- Làng mới mở trường, ngày mai tự bà đi xin cho cháu bà đi học.
Hà Ngọc ứa nước mắt. Một câu nói của bà nói lên biết bao tình cảm. Vợ chồng anh, con cái anh thật có lỗi với tấm lòng lo toan và khát vọng ấy của mẹ. Dù sao anh vẫn phải nói thật thà với bà về yêu cầu công tác.
Nghe nói “đi Nam” bà mẹ giật nảy người, hai tay bà lóng ngóng trên vai hai cháu. Nhưng tấm lòng người mẹ vẫn là sự chịu đựng:
- Các con đi vì công tác. Không ai ngăn giữ được. Nhưng vào trong đó - Bà ngập ngừng giây lát rồi tiếp - Hay các con cho mẹ cùng đi theo để lỡ xảy chuyện gì đã có bà nuôi các cháu.
Liên đặt tay lên bàn tay nhăn nheo của mẹ chồng. Một lời nói chứa biết bao ân tình. Anh nhìn chị, chị nhìn anh không nói nên lời.
Cuộc chia tay giữa mẹ và vợ chồng con cái Hà Ngọc là cuộc chia tay trái khoáy so với bao nhiêu gia đình khác. Sau cuộc chiến tranh gian khổ, ai cũng muốn đoàn tụ, làm lại nhà cửa, chăm sóc mẹ già, lo cho con học hành... nhưng họ thì lại dấn thân vào nẻo đường gian khổ, xa mẹ già, lìa quê hương... Vậy mà vẫn phải chấp nhận.
Hà Ngọc quay về Hà Nội, chia tay với Cục trưởng Trần. Cục trưởng cố nén xúc động trước phút biệt ly, ông cởi chiếc cà vạt đỏ đang thắt đưa cho đồng đội.
- Gọi là chút kỷ niệm, có thể chả lúc nào anh dùng đến nó, nhưng cứ giữ - Ông lặng đi một lúc rồi gọi anh lái xe ở bên ngoài mang vào chiếc máy ảnh Rolex ông vẫn dùng ấn vào tay Hà Ngọc nói - Giữ lấy làm kỷ niệm.