• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Đợi bọn mọi
  3. Trang 4

  • Trước
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • Sau

1

T

ôi chưa từng thấy thứ gì giống như vậy. Hai miếng thủy tinh tròn nhỏ lồng trong khung kim loại mảnh treo lơ lửng ngay trước mắt ông ta. Ông ấy mù chăng? Tôi có thể hiểu được nếu quả thực ông ta muốn giấu đi đôi mắt tật nguyền của mình, nhưng ông ta chẳng hề mù. Hai miếng thủy tinh sẫm màu tưởng chừng mờ đục tăm tối nếu nhìn từ bên ngoài, nhưng thực ra ông ta có thể nhìn xuyên qua chúng. Ông nói với tôi đó là một sáng chế mới. “Chúng bảo vệ mắt ta khỏi bị chói nắng. Ông sẽ thấy chúng rất hữu dụng ở vùng sa mạc này. Nhờ có nó, ông khỏi phải nheo mắt cả ngày. Thế là đỡ nhức đầu. Đây ông xem.” Ông ta vuốt nhẹ lên khóe mắt, “Không một nếp nhăn nhé”, rồi lại mang kính vào. Đúng thế thật. Ông có làn da trẻ hơn so với tuổi. “Ở bên nhà ai cũng đeo chúng cả.”

Ngồi trong căn phòng tiện nghi nhất quán trọ, giữa chúng tôi là bình rượu và một bát quả hạch. Chẳng ai đả động gì tới lý do ông ta có mặt ở đây. Ông được điều đến đây với quyền hạn đặc biệt trong trường hợp khẩn cấp, vậy là đủ hiểu. Thay vào đó, chúng tôi bàn luận chuyện săn bắn. Ông kể về chuyến đi săn quy mô lớn ông tham gia gần đây nhất, với hàng ngàn con hươu, heo và gấu bị tiêu diệt, nhiều đến mức cả đống xác động vật bị bỏ mặc cho thối rữa (“kể cũng phí thật”). Tôi thuật lại chuyện ngỗng và vịt sà xuống mặt hồ từng đàn lớn trong các chuyến di cư hàng năm và cách đánh bẫy của dân địa phương. Tôi gợi ý sẽ dẫn ông đi câu đêm trên một chiếc thuyền mộc. “Đó là một trải nghiệm không thể bỏ lỡ”, tôi nói, “ ngư dân mang theo những bó đuốc cháy rừng rực và gõ trống trên mặt nước để dồn đàn cá vào chiếc lưới đã giăng sẵn”. Ông gật gù.

Ông kể lại chuyến đi thị sát ở đâu đó thuộc vùng biên nơi người ta ăn một số loại rắn như thể cao lương mỹ vị, và về con linh dương khổng lồ ông bắn được.

Ông lần bước giữa đám đồ đạc xa lạ nhưng vẫn không gỡ cặp kính râm ra. Ông đi ngủ sớm. Ông được bố trí chỗ ở tại quán trọ này vì đây là nơi lưu trú tốt nhất trong thị trấn. Tôi đã nhấn mạnh với các nhân viên ở đây rằng ông là một vị khách quan trọng. “Đại tá Joll đến từ Cục Ba”, tôi bảo họ. “Cục Ba hiện là cơ quan trọng yếu nhất của Đội Bảo an Nhân dân.” Ít nhất đó là những gì chúng tôi nghe ngóng được trong các câu chuyện ngồi lê đôi mách lỗi thời từ thủ đô. Ông chủ nhà trọ gật gù còn mấy cô hầu phòng thì cúi đầu vâng lệnh. “Chúng ta phải gây ấn tượng tốt với ông ấy.”

Tôi cắp chiếu ngủ ra ngoài đê, nơi những ngọn gió đêm làm dịu bớt cái oi bức. Ánh trăng soi tỏ hình dáng những người đang ngủ trên các nóc nhà bằng phẳng của thị trấn. Tôi vẫn nghe thấy tiếng trò chuyện râm ran dưới tán cây óc chó trên quảng trường. Trong bóng đêm, một tẩu thuốc cháy lập lòe như đom đóm, tàn đi, rồi lại lóe sáng. Mùa hè đang chậm rãi xoay vần đến những ngày cuối. Các vườn cây đơm quả trĩu cành.

Tôi chưa trở lại thủ đô lần nào kể từ thời trai trẻ.

Tôi thức dậy trước bình minh và nhón chân xuống cầu thang, bước qua các binh sĩ còn đang say ngủ, chốc chốc lại trở mình và thở dài trong những giấc mơ về mẹ hiền và người yêu dấu. Hàng ngàn vì sao đang dõi theo chúng tôi trên trời cao. Thật vậy, chúng tôi đang ở đây, trên nóc nhà thế giới. Đã quen bước trong bóng đêm, khi ra ngoài, người ta sẽ bị hoa mắt.

Cậu lính gác cổng ngồi bắt chéo chân ngủ gà gật, trên tay vẫn ôm khẩu súng hỏa mai. Người trực cổng còn chưa mở chốt cửa và chiếc xe đẩy của anh ta nằm bên ngoài. Tôi đi qua.

“Chúng tôi không có nơi giam giữ tù nhân”, tôi giải thích. “Ở đây người ta không phạm những tội ác tày trời nên hình phạt thông thường chỉ là phạt tiền hoặc lao động cưỡng bách. Cái lều này đơn thuần là một buồng kho dựng sát với vựa thóc, như ông thấy đấy.”

Trong buồng giam ngột ngạt và hôi hám. Không có lấy một cái cửa sổ. Hai tù nhân bị trói nằm trên sàn. Mùi hôi bốc ra từ người họ và nước tiểu lưu cữu.

Tôi gọi lính canh vào. “Làm ơn đưa ngay những gã này đi tắm rửa”.

Tôi đưa vị khách của mình vào kho thóc tối tăm lạnh lẽo. “Chúng tôi hy vọng sẽ thu được ba nghìn giạ thóc từ đất công năm nay. Chúng tôi chỉ gieo trồng một vụ mỗi năm thôi. Thời tiết đang mưa thuận gió hòa.” Sau khi trò chuyện về lũ chuột cống và cách hạn chế sự sinh sôi của chúng, chúng tôi trở lại căn lều bốc mùi tro ẩm và thấy những tù nhân đã ở đó quỳ gối trong góc lều. Một tù nhân già và một cậu thiếu niên. “Họ bị bắt cách đây vài ngày”, tôi nói. “Đã có một vụ cướp bóc xảy ra cách đây chưa tới hai mươi dặm. Thật kỳ lạ. Bọn họ vẫn thường lánh xa pháo đài công sự. Hai người này bị bắt sau đó. Họ khai rằng mình không tham gia vụ cướp. Tôi không biết nữa. Có thể họ nói thật. Nếu ông muốn nói chuyện với họ, dĩ nhiên tôi sẽ thông ngôn giúp ông.”

Mặt cậu thiếu niên sưng húp và thâm tím, một bên mắt sưng phồng không mở nổi. Tôi ngồi xổm xuống trước mặt và vỗ nhẹ má cậu ta. “Nghe này, cậu bé”, tôi nói bằng phương ngữ của vùng biên giới, “chúng ta muốn nói chuyện với cháu”.

Cậu ta không phản ứng.

“Nó đang giả vờ”, tên lính canh nói. “Nó hiểu cả đấy.”

“Ai đánh nó vậy?”, tôi hỏi.

“Không phải tôi”, tên lính canh trả lời. “Lúc mới đến nó đã bị như vậy rồi.”

“Ai đã đánh cháu?”, tôi hỏi cậu ta.

Không nghe tôi nói, cậu ta chỉ nhìn chằm chằm qua vai, nhưng không nhìn tên lính canh mà nhằm vào ông Đại tá Joll đang đứng cạnh hắn.

Tôi quay sang Joll, “Chắc là trước đây nó chưa từng thấy thứ gì như vậy.” Tôi phác tay. “Ý tôi là cặp kính. Hẳn nó nghĩ ông bị mù.” Nhưng Joll không cười đáp lại. Xem chừng ông ta muốn giữ vẻ lạnh lùng trước mặt các tù nhân.

Tôi ngồi xổm trước mặt ông già. “Nghe này, bố già. Ông bị giải về đây sau khi bị bắt trong một vụ cướp hàng. Ông thừa hiểu mức độ nghiêm trọng của vụ này và mình có thể bị trừng trị vì tội đó mà.”

Ông ta thè lưỡi ra liếm môi. Gương mặt tái nhợt và mệt lử.

“Bố già, ông thấy quý ngài đây chứ? Ngài ấy từ thủ đô đến đây để thị sát chỗ chúng ta. Ngài sẽ kiểm tra tất cả các pháo đài dọc biên giới. Công việc của ngài ấy là truy tìm sự thật. Đó là phận sự của ngài ấy, tìm ra sự thật. Nếu ông không nói chuyện với tôi, ngài sẽ phải thẩm vấn ông. Ông hiểu không?

“Thưa ngài”, ông ta lên tiếng bằng giọng rền rĩ và hắng giọng.

“Thưa ngài, bọn tôi nào biết chuyện trộm cướp gì. Quân lính chặn đường và trói bọn tôi lại. Chẳng vì cớ gì. Bọn tôi đang trên đường đến đây để đi bác sĩ. Thằng nhóc này là cháu gọi tôi bằng cậu. Nó đang bị một vết thương chữa mãi chưa lành. Bọn tôi không phải quân trộm cướp. Cho các ngài đây xem vết thương của cháu đi.”

Cậu thiếu niên nhanh chóng dùng răng và một bàn tay bắt đầu tháo miếng vải quấn quanh cẳng tay. Ở lớp băng trong cùng, máu và mủ quánh lại một mảng dính chặt vào da thịt, nhưng cậu ta vẫn lật mép vải ra cho tôi xem miệng vết thương viêm tấy đỏ.

“Ngài thấy đấy”, ông già nói, “Vết thương đó chẳng thể lành được nên tôi đang trên đường đưa nó đến gặp bác sĩ thì bị quân lính chặn lại. Chuyện chỉ có thế”.

Tôi cùng vị khách của mình quay lại phía bên kia quảng trường. Ba người phụ nữ đi ngang qua chúng tôi, họ trở về từ đập tưới tiêu với những rổ quần áo trên đầu.

Cổ vẫn giữ thẳng, họ nhìn chúng tôi bằng ánh mắt tò mò. Ánh mặt trời chiếu xuống chói chang.

“Đã lâu lắm rồi chúng tôi mới bỏ tù tội phạm”, tôi nói. “Chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên thôi, bình thường hẳn chúng tôi sẽ chẳng có gã mọi nào cho ông xem. Đám quân ăn cướp này cũng không gây họa gì to tát. Chúng ăn trộm vài con cừu hoặc đánh tháo súc vật thồ trên tàu hỏa. Thỉnh thoảng chúng tôi cướp lại của chúng. Chủ yếu là những bộ tộc nghèo túng sinh sống riêng lẻ thành nhiều nhóm nhỏ dọc con sông. Lâu dần nó trở thành lối sống. Ông già đó nói bọn họ đang trên đường đến gặp bác sĩ. Có lẽ chuyện chỉ có thế. Không ai lại cho một ông già và thằng nhóc bệnh tật gia nhập toán cướp cả.”

Tôi dần nhận ra rằng mình đang bào chữa cho họ.

“Dĩ nhiên không ai nói chắc được. Nhưng dù bọn chúng có khai gian đi nữa thì loại người như vậy có gì hữu dụng với ông chứ?”

Tôi cố nén cảm giác phát cáu trước sự im lặng khó hiểu của ông ta, vì cặp kính tối màu bí ẩn và kệch cỡm ấy đã ti tiện che đi đôi mắt không chút tật nguyền. Ông ta bước đi, hai bàn tay khoanh trước người hệt như đàn bà.

“Tuy nhiên”, ông ta nói, “Tôi vẫn phải tra khảo chúng. Tối nay, nếu tiện tôi sẽ đưa một người phụ tá đi cùng. Tôi cũng cần ai đó hỗ trợ về khoản thông ngôn. Cậu lính canh kia thì sao? Cậu ta dịch được chứ?”.

“Tất cả chúng tôi đều có thể cố gắng để họ hiểu mình. Ông không muốn tôi có mặt ở đó phải không?”

“Anh sẽ thấy việc này thật tẻ nhạt. Chúng tôi đã lên kế hoạch từng bước cả rồi.”

Mọi người đều quả quyết rằng có tiếng gào thét phát ra từ kho thóc, còn tôi thì chẳng nghe thấy gì hết. Đêm đó, khi đi lo việc của mình, tôi luôn ý thức được chuyện gì có thể xảy ra, thậm chí đôi tai tôi còn rất nhạy cảm với nỗi đau của con người. Nhưng kho thóc là một tòa nhà kiên cố với những cánh cửa dày và cửa sổ rất nhỏ, nó lại nằm tít bên kia lò mổ và nhà xưởng phía nam. Hơn nữa, vùng đất từng là tiền đồn xa xôi rồi trở thành pháo đài vùng biên giới, giờ đã phát triển thành một khu nông nghiệp. Đó là một thị trấn ba nghìn dân, nơi sự huyên náo của cuộc sống và âm thanh từ tất thảy ba nghìn con người trong một buổi tối mùa hè ấm áp chẳng thể lặng đi chỉ vì ở đâu đó có kẻ đang gào khóc. (Ở góc độ nào đó, tôi bắt đầu viện cớ cho bản thân.)

Khi Đại tá Joll có thời gian rảnh, tôi đã gặp lại ông ta và đề cập đến vấn đề tra tấn tù nhân. “Sẽ ra sao nếu tù nhân của ông đang khai thật”, tôi hỏi, “rồi họ nhận ra không ai tin lời mình? Tình cảnh đó không phải rất tồi tệ sao? Thử tưởng tượng mà xem. bị ép khai, khai bằng hết, khi không còn gì để khai và đã hoàn toàn suy sụp, vẫn buộc phải khai tiếp! Cả một trọng trách đặt lên vai người thẩm vấn! Làm thế nào ông biết được phạm nhân có đang khai thật hay không?”

“Nghe giọng là biết”, Joll nói. “Luôn có một giọng điệu đặc trưng khi bọn chúng khai thật. Kinh nghiệm và quá trình huấn luyện đã dạy chúng tôi cách nhận biết điều đó.”

“Chất giọng thành thật! Ông có thể nhận ra nó khi đối thoại hàng ngày sao? Ông biết tôi đang nói thật hay không ư?”

Đó là khoảnh khắc thân mật nhất từng có giữa chúng tôi, khi ông ta phủ nhận điều tôi vừa nói bằng một cái phẩy tay nhè nhẹ. “Không phải, anh hiểu nhầm ý tôi rồi. Lúc này tôi chỉ đang đề cập đến những tình huống đặc biệt, trong trường hợp tôi đang điều tra để tìm ra sự thật thì tôi phải gây sức ép để truy cho bằng được.”

Đầu tiên bọn chúng nói dối, anh thấy đấy - chuyện diễn ra như thế này - thoạt đầu là những lời nói dối, ta gây áp lực, chúng bắt đầu quanh co, rồi ta lại gây áp lực nhiều hơn, làm chúng lỡ lời, thế là ta tiếp tục dồn ép, và cuối cùng có được sự thật. Đó là cách anh lấy được lời khai.”

Chỉ có đau đớn mới là thật, tất cả những thứ khác đều đáng ngờ. Tôi học được điều này từ cuộc trò chuyện với đại tá Joll, người có bộ móng tay thuôn dài, những chiếc khăn tay màu hoa cà và bàn chân mảnh khảnh trong đôi giày đế mềm luôn khiến tôi hình dung ra cảnh ông ta đang nhỏ to trò chuyện với bạn bè trên hành lang rạp hát giữa các màn diễn ở thủ đô nơi ông ta đang mong ngóng được quay về.

Mặt khác, tôi là ai mà đòi giữ khoảng cách với Đại tá Joll? Tôi ăn uống cùng ông ta, đưa ông ta đi ngắm cảnh, giúp đỡ mọi thứ ông ta cần theo thư ủy nhiệm, và hơn thế nữa. Chính phủ không yêu cầu công chức của mình phải yêu thương lẫn nhau, mà chỉ đơn thuần là ai làm phận sự của người nấy.

Bản báo cáo ông ta soạn cho tôi với tư cách là quan tòa rất vắn tắt.

“Trong suốt quá trình thẩm vấn, lời khai của phạm nhân lộ rõ nhiều mâu thuẫn. Bị vạch trần những điểm này, tù nhân đã nổi điên và tấn công sĩ quan điều tra. Một trận ẩu đả đã xảy ra sau đó khiến tù nhân bị đập mạnh vào tường. Nỗ lực phục hồi cho anh ta bất thành.”

Để hoàn thành đúng luật định, tôi đã cho gọi lính canh vào và bảo cậu ta tường thuật cho tôi nghe. Cậu ta kể còn tôi thì ghi lại những lời cậu ta nói. “Tù nhân trở nên không thể kiểm soát được và đã tấn công sĩ quan thị sát. Tôi đã được gọi vào để giúp viên sĩ quan trấn áp anh ta. Vừa lúc tôi vào thì cuộc giằng co kết thúc. Tù nhân đã bất tỉnh và chảy máu mũi.” Tôi chỉ chỗ cho cậu ta ký tên vào. Cậu ta đón cây bút từ tay tôi một cách cung kính.

“Có phải viên sĩ quan đã bảo cậu nói vậy với tôi không?” Tôi nhẹ nhàng hỏi cậu ta.

“Vâng, thưa ngài”, cậu ta trả lời.

“Lúc ấy tay người tù bị trói phải không?” “Vâng, thưa ngài. Ý tôi là, không, thưa ngài.”

Tôi cho cậu ta ra ngoài và điền vào giấy chứng nhận mai táng.

Nhưng trước khi đi ngủ, tôi lại xách đèn lồng băng ngang quảng trường và vòng qua những con đường phía sau để đến kho thóc. Có lính gác mới ở cửa lều và một cậu bé tá điền khác đang quấn chăn ngủ. Tiếng kêu của con dế ngưng bặt khi tôi lại gần. Tiếng động khi tôi đẩy chốt cửa không làm cậu lính canh thức giấc. Bước vào trong lều và giơ đèn lên cao, tôi nhận ra rằng mình đang xâm phạm vùng thánh địa, hay vùng vô đạo, nói sao cũng được, khu vực cấm đầy bí ẩn của Chính phủ.

Cậu bé nằm trên một đống rơm trong góc lều, còn sống và vẫn ổn. Cậu ta vờ như đang ngủ, nhưng tư thế nằm căng thẳng đã lật tẩy tất cả. Tay cậu bị trói trước người. Ở góc bên kia lều là một cái bọc màu trắng.

Tôi lay cậu lính gác dậy. “Ai bảo cậu để tử thi ở đó? Ai đã khâu tấm vải liệm lại?”

Cậu ta nhận ra sự giận dữ trong giọng nói của tôi. “Là người đàn ông đi cùng với Ngài kia, thưa ông. Ông ta đã ở đây khi tôi vào làm nhiệm vụ. Tôi nghe ông ta bảo thằng nhóc rằng, ‘Ngủ với ông mày đi, giữ ấm cho ông ấy’. Trông ông ta như thể sẽ khâu luôn thằng bé vào chung một tấm vải liệm, nhưng rồi ông ta lại không làm.”

Trong lúc cậu bé vẫn đang nằm ngủ trong tư thế cứng đơ, mắt nhắm nghiền, chúng tôi mang tử thi đi. Ngay trên sân, cậu lính gác giữ đèn để tôi tìm đường khâu của tấm vải bằng mũi ghim của con dao mang theo rồi xé tấm vải liệm ra và lật ngược xuống từ phía trên đầu ông già.

Máu dính bết trên bộ râu màu xám. Bờ môi dập nát và bị kéo xệch xuống, để lộ ra những cái răng gãy lìa. Một mắt ông trợn ngược lên, hốc mắt bên kia chỉ còn là một cái lỗ đầy máu. “Đóng lại đi”, tôi nói. Anh lính gác kéo mép tấm vải liệm lại. Nó lại mở ra. “Họ nói rằng ông ấy đã đập đầu vào tường.”

“Ông nghĩ sao?”, anh ta thận trọng nhìn tôi. “Lấy vài sợi dây và buộc chặt lại.”

Tôi lia đèn qua chỗ cậu bé. Cậu ấy không hề nhúc nhích, nhưng khi tôi cúi xuống chạm vào má cậu, người cậu bé chùng xuống và toàn thân bắt đầu run lên từng đợt. “Nghe ta này, cậu bé”, tôi nói, “Ta sẽ không làm hại cháu”. Cậu ta thu mình lại và giơ hai cánh tay đang bị trói lên trước mặt. Chúng sưng phồng và tím tái. Tôi lần tìm nút thắt dây trói. Mọi hành động của tôi nhằm thể hiện thiện ý với cậu bé đều thật vụng về. “Nghe này. Cháu phải khai thật với viên cảnh sát. Đó là tất cả những gì ông ta muốn nghe từ cháu - sự thật. Chỉ cần chắc chắn là cháu đang nói thật, ông ta sẽ không làm cháu đau. Nhưng cháu phải kể cho ông ấy nghe mọi thứ cháu biết. Cháu phải trả lời mọi câu hỏi của ông ta một cách thành thật. Dù có bị đau đớn, cũng đừng để mất lòng can đảm.” Không đồng tình với việc trói thằng bé, cuối cùng tôi đã nới lỏng sợi dây trói cho cậu ấy. “Chà xát hai tay cháu vào nhau cho đến khi máu bắt đầu chảy.” Tôi xoa hai tay cậu ấy trong bàn tay mình. Cậu bé gập ngón tay lại một cách đau đớn. Tôi chẳng thể làm gì hơn ngoài việc đóng giả một bà mẹ an ủi đứa con mình giữa những cơn giận dữ của bố nó. Tôi vẫn không quên rằng một nhà thẩm vấn có thể mang hai mặt nạ và trò chuyện bằng hai giọng. Khi thì dữ dằn, lúc lại ngọt ngào dụ dỗ.

“Nó đã được ăn gì tối nay chưa?”, tôi hỏi lính canh.

“Tôi không biết.”

“Cháu ăn gì chưa?”, tôi hỏi cậu bé. Cậu ta lắc đầu. Tôi cảm thấy tim mình nặng như đá. Tôi không bao giờ muốn dính vào vụ này. Tôi không biết nó sẽ kết thúc ở đâu. Tôi quay sang cậu lính canh. “Giờ tôi phải đi rồi, nhưng có ba việc tôi muốn anh làm. Thứ nhất, khi tay cậu bé khá hơn, tôi muốn anh trói chúng lại, nhưng đừng trói chặt quá đến nỗi chúng sưng lên. Thứ hai, tôi muốn anh để nguyên tử thi trên sân như vậy. Đừng mang nó trở lại đây. Sáng sớm mai tôi sẽ gửi một đội đến lo việc chôn cất, và anh sẽ giao tử thi cho họ. Nếu có ai hỏi gì, cứ nói là tôi ra lệnh. Thứ ba, tôi muốn anh khóa cửa lều lại và đi cùng tôi. Tôi sẽ vào bếp lấy chút gì đó đưa anh mang về cho thằng bé ăn. Đi nào.”

Tôi không định dây vào vụ này. Tôi chỉ là một Quan tòa ở chốn quê mùa, một công chức có nghĩa vụ phụng sự cho Chính phủ, hàng ngày đốt thời gian ở cái vùng biên giới uể oải này, mòn mỏi chờ đến ngày nghỉ hưu. Tôi thu thuế thập phân và vài loại thuế khác, quản lý những vùng đất công, giám sát việc lo liệu cho đơn vị đồn trú, quản lý các sĩ quan cấp dưới duy nhất ở vùng biên giới này, theo sát các hoạt động buôn bán kinh doanh và làm chủ tọa ở tòa án hai lần một tuần. Thời gian còn lại, tôi ngắm mặt trời mọc rồi lặn, ăn uống ngủ nghỉ và bằng lòng với cuộc sống của mình.

Khi qua đời, tôi hy vọng sẽ được khen tặng ba dòng trong một cột báo nhỏ của tờ Đế quốc. Tôi không đòi hỏi gì hơn một cuộc sống thanh thản trong thời đại thái bình.

Nhưng năm ngoái, những câu chuyện về bọn mọi rợ không chịu an phận ở thủ đô bắt đầu lan đến chỗ chúng tôi. Thương nhân buôn bán trên các tuyến đường vốn rất an toàn đã bị tấn công và cướp bóc. Các vụ ăn cắp ngày một gia tăng về qui mô và mức độ táo bạo. Một nhóm nhân viên điều tra đã mất tích và được tìm thấy bị chôn trong những ngôi mộ tạm bợ. Một ủy viên chính quyền tỉnh bị bắn khi đang đi tuần tra. Đã có vài vụ xung đột với đội tuần tra biên giới. Những bộ tộc mọi rợ đang chuẩn bị cho một cuộc chiến, tin đồn đã lan đi, Chính phủ nên có những biện pháp phòng ngừa, vì chắn chắn chiến tranh sẽ nổ ra.

Bản thân tôi không lấy làm lạ về tình trạng bất ổn này. Tôi đã kín đáo quan sát thấy, thời nào cũng có một giai đoạn người ta bị kích động bởi chứng sợ bọn mọi. Không một phụ nữ nào sống dọc biên giới mà chưa từng mơ thấy một bàn tay mọi rợ đen đúa từ dưới giường thò lên tóm chặt lấy mắt cá chân họ, chẳng có người đàn ông nào không tự dọa mình bằng cách tưởng tượng ra cảnh những tên mọi đen đang chè chén no say trong nhà họ, đập vỡ bát đĩa, châm lửa đốt trụi rèm cửa, và cưỡng hiếp con gái họ. Những giấc mơ này là hệ quả của cuộc sống quá mức an nhàn.

Tôi chỉ tin những chuyện này khi được thấy tận mắt đội quân mọi rợ đó.

Ở thủ đô, người ta lo ngại rằng có thể những bộ lạc mọi rợ ở phía bắc và phía tây cuối cùng sẽ hợp nhất lại với nhau. Các sĩ quan của Bộ Tổng tham mưu được cử đi thị sát quanh vùng biên giới. Một vài đơn vị đóng quân được củng cố vững chắc hơn.

Các thương nhân đã yêu cầu đều được cấp những đội hộ tống. Và lần đầu tiên những viên chức của Cục Ba trong Đội Bảo an Nhân dân xuất hiện ở vùng biên giới, rồi cả lực lượng bảo vệ của Bang, những chuyên gia phân tích động cơ sâu xa của hành vi nổi loạn, những người cuồng tín và những tiến sĩ trong lĩnh vực thẩm vấn. Nên dường như những năm tháng an nhàn của tôi đã sắp đến hồi kết, những năm tháng mà tôi có thể ăn ngon ngủ yên vì biết rằng dù thi thoảng có đánh trận chỗ này hay chạm trán chỗ kia, thì trái đất vẫn quay trên quỹ đạo ấy không hề suy chuyển. Giá như tôi bàn giao lại hai tên tù ngớ ngẩn này cho viên Đại tá, tôi ngẫm lại, “Bọn họ đây, thưa đại tá, ông là chuyên gia, hãy xem có thể làm gì với họ!”. Giá mà tôi đi săn vài ngày, đáng lẽ tôi nên đi săn. Có thể là một chuyến về phía thượng nguồn con sông rồi quay trở về và không biết gì về vụ này, hoặc chỉ đọc lướt qua một cách thờ ơ rồi đóng dấu vào bản báo cáo của ông ta mà không hỏi han gì về ý nghĩa của từ ‘điều tra’ cũng như những điều mờ ám đằng sau vụ này, như một nữ thần báo tử mắc kẹt dưới một phiến đá. Giá tôi sáng suốt hơn, thì hẳn bây giờ tôi có thể quay về với việc săn bắn và đi săn bằng chim ưng cùng những thú vui giản dị khác của mình trong lúc chờ đợi những vụ khiêu khích kích động lẫn nhau dừng lại và những sang chấn dọc biên giới lắng xuống. Nhưng than ôi, tôi đã không đi săn. Có lúc tôi đã dừng lại lắng tai nghe những tiếng ồn phát ra từ cái lều chứa nông cụ gần kho thóc rồi xách đèn tự mình đi xem chuyện gì xảy ra.

Mênh mông trắng xóa cả đất trời, tuyết rơi xuống từ trên trời cao nơi ánh sáng khuếch tán rộng và hiện diện khắp nơi, mặt trời như tan vào trong sương thành một ánh hào quang. Trong giấc mơ, tôi băng qua cổng doanh trại và cột cờ trống không. Quảng trường trải ra trước mắt tôi và bờ rìa của nó hòa lẫn vào bầu trời sáng rỡ. Những bức tường, cây cối và những ngôi nhà như thu nhỏ lại và yếu ớt rơi khỏi vành đai của thế giới.

Khi tôi lướt qua quảng trường, những dáng người mờ ảo nổi bật trên sắc trắng, bọn trẻ đang xây lâu đài tuyết với lá cờ nhỏ màu đỏ cắm trên đỉnh lâu đài. Chúng đeo găng tay hở ngón, mang giày ống và quấn khăn ấm để chống lại cái lạnh. Hết nắm tuyết này đến nắm tuyết khác, chúng xây những bức tường cho tòa lâu đài tuyết của mình và thở ra những làn hơi màu trắng. Thành lũy xung quanh lâu đài đã được xây xong một nửa. Tôi cố gắng lắng nghe những câu nói nhanh mơ hồ kỳ quặc của bọn trẻ nhưng không vãn nghe ra được gì.

Nhận thức được vóc người to lớn và cái bóng lừng lững của mình, nên tôi không ngạc nhiên khi những đứa trẻ chạy tán loạn khắp các hướng khi tôi đến gần. Tất cả đều bỏ chạy ngoại trừ một đứa. Lớn hơn những đứa còn lại, có lẽ không còn là một đứa trẻ nữa, cô bé ngồi trong tuyết, đầu đội chiếc mũ trùm và xoay lưng về phía tôi mải miết xây cánh cửa lâu đài. Hai chân dang rộng, cô đào, vỗ tuyết, rồi tạo hình. Tôi đứng đằng sau và quan sát. Cô không quay lại. Dù đã cố gắng nhưng tôi vẫn không thể hình dung ra khuôn mặt cô trong vành mũ trùm đầu có chóp nhọn.

Cậu bé nằm ngửa, chẳng mặc gì trên người và ngủ thiếp đi với những hơi thở ngắn gấp gáp. Da cậu lấp lánh mồ hôi. Lần đầu tiên, miếng băng quấn quanh vết thương rơi khỏi cánh tay cậu và tôi thấy vết thương há miệng tấy đỏ trầm trọng sau miếng băng. Tôi mang đèn tới gần hơn. Bụng và háng cậu bé lấm tấm những đốm ghẻ nhỏ cùng nhiều vết thâm tím, những vết cắt và vài chỗ máu rỉ ra thành dòng.

“Họ đã làm gì nó?”, tôi thì thầm với cậu lính canh trạc tuổi cậu lính tối qua.

“Một con dao”, cậu lính thì thầm lại với tôi.,“Chỉ là một con dao nhỏ, khoảng chừng này”. Cậu ta căng ngón cái và ngón trỏ ra để diễn tả độ dài con dao. Nắm chặt con dao tưởng tượng, cậu ta làm cử chỉ như một nhát đâm gọn vào cơ thể cậu bé đang ngủ và ngoáy con dao như một cái chìa khóa, sang trái, rồi sang phải. Sau đó cậu ta rút nó ra, thu tay lại và đứng đó chờ đợi.

Tôi quì xuống bên cạnh cậu bé, rọi đèn sát vào mặt cậu ta và lay cậu dậy. Mắt cậu ta mở ra lờ đờ rồi nhắm lại. Cậu thở dài, hơi thở gấp gáp dần chậm lại. “Nghe này!”, tôi nói. “Cháu đang gặp ác mộng. Cháu phải tỉnh dậy.” Cậu ta mở mắt và liếc nhìn tôi.

Cậu lính canh mang tới một nồi nước. “Nó có ngồi được không?”, tôi hỏi. Cậu ta lắc đầu rồi đỡ cậu bé dậy và giúp cậu uống nước.

“Nghe này”, tôi nói. “Họ nói với ta rằng cháu đã nhận tội. Rằng cháu và ông già đó cùng những gã khác nữa ở bộ tộc của cháu đã ăn trộm cừu và ngựa. Cháu đã khai rằng đồng bọn trong bộ tộc đang trang bị vũ khí, để vào mùa xuân tất cả sẽ tham gia vào một cuộc chiến lớn chống lại Chính phủ. Cháu đang nói thật đấy à? Cháu có hiểu việc mình nhận tội có ý nghĩa gì không? Cháu có hiểu không vậy?” Tôi dừng lời, cậu ta ngoái nhìn mông lung vào khoảng không vô định bằng ánh mắt dữ dội, như một người đã kiệt sức sau khi chạy một quãng đường dài. “Điều đó có nghĩa là Chính phủ sẽ xuất binh tiến đánh bộ lạc của cháu. Sẽ có giết chóc. Họ hàng của cháu sẽ chết, thậm chế có thể là bố mẹ cháu và các anh chị em của cháu nữa.

Cháu thật sự muốn thế sao?”. Cậu ta không đáp. Tôi lắc mạnh vai và vỗ vào má cậu. Cậu ta cũng không phản ứng lại. Như thể tôi đang đập một thây ma. “Tôi nghĩ nó yếu lắm rồi”, cậu lính canh thì thầm sau lưng tôi, “bị thương rất nặng và đuối quá rồi”. Cậu bé nhắm mắt lại.

Tôi cho mời vị bác sĩ duy nhất chúng tôi có, một lão già kiếm sống bằng nghề nhổ răng và chế thuốc kích dục từ bột xương và máu thằn lằn. Ông ta đắp thuốc dán lên vết thương và bôi thuốc mỡ lên hàng trăm đốm ghẻ nhỏ. Ông ta hứa trong vòng một tuần, cậu bé sẽ có thể đi lại được. Sau khi dặn dò tôi cho cậu bé ăn thức ăn bổ dưỡng, ông vội vã rời đi mà không hề hỏi vì sao cậu bé lại bị những vết thương đó.

Nhưng Đại tá là một người thiếu kiên nhẫn. Kế hoạch của ông ta là mở một cuộc vây bắt nhanh gọn đám dân du cư và bắt thêm tù nhân. Ông muốn cậu bé đi cùng để chỉ đường. Ông ta còn yêu cầu tôi giao ba mươi trong số bốn mươi đơn vị đồn trú và cung cấp ngựa cho ông ta.

Tôi cố ngăn cản ông ta. “Tôi không hề muốn bất kính với ông, Đại tá”, tôi nói. “Nhưng ông không phải là một chiến binh, ông chưa từng tham gia chiến dịch nào ở những nơi khắc nghiệt như thế này. Không có ai chỉ đường cho ông trừ một đứa bé đã bị ông dọa cho mất vía nên sẽ nói bất cứ điều gì xuất hiện trong đầu nó để khiến ông hài lòng. Dù thế nào đi nữa, thằng bé đó cũng không thích hợp để đi cùng ông. Ông cũng chẳng thể trông cậy vào đám binh lính sẽ giúp mình, bọn họ chỉ là những tá điền bị buộc đi lính theo nghĩa vụ, hầu hết đều chưa từng đi xa hơn năm dặm khỏi khu định cư. Những tên mọi mà ông đang săn đuổi sẽ đánh hơi được ông đang đến và lẩn trốn vào sa mạc, trong khi ông vẫn còn cách cả ngày đường. Bọn chúng đã sống ở đây cả đời nên biết rõ mọi ngõ ngách ở đây. Ông và tôi đều lạ nước lạ cái - ông thậm chí còn xa lạ với nơi này hơn tôi. Tôi thành thật khuyên ông không nên đi.”

Ông ta lắng nghe tôi nói hết, thậm chí (theo cảm giác của tôi) còn gợi cho tôi nói ra. Tôi chắc chắn rằng sau đó cuộc trò chuyện này sẽ được ghi lại, với lời bình phẩm rằng tôi là một kẻ ‘không an phận’. Khi đã nghe đủ những gì tôi nói, ông ta gạt đi lời can gián của tôi. “Tôi có một nhiệm vụ phải hoàn thành, thưa ngài Quan tòa. Chỉ có tôi mới biết khi nào công việc của mình kết thúc”. Và ông ta tiếp tục chuẩn bị cho chuyến đi.

Ông ta đi trên cỗ xe ngựa hai bánh màu đen có giường xếp và một chiếc bàn gấp dùng để viết cột vào mui xe bằng dây da. Tôi cung cấp cho ông ta ngựa, xe, cỏ khô và các nhu yếu phẩm dùng trong ba tuần. Một trung úy cấp thấp của đơn vị đồn trú đi cùng hộ tống ông. Tôi nói riêng với anh ta. “Đừng lệ thuộc vào người chỉ đường của các anh. Cậu bé rất yếu và đang vô cùng hoảng sợ. Hãy chú ý thời tiết. Nhớ làm mốc đánh dấu đường đi. Nhiệm vụ hàng đầu của anh là đưa vị khách của chúng ta trở về bình an vô sự.” Anh ta gật đầu.

Tôi tiến lại chỗ Đại tá Joll lần nữa, cố nắm bắt sơ qua những ý định của ông ta.

“Đúng vậy”, ông ta nói. “Dĩ nhiên tôi không nên muốn tự gây nguy hiểm cho mình khi dấn thân vào chặng đường phía trước. Nhưng, nói chung, chúng ta sẽ xác định vị trí đám dân du cư của các anh cắm trại và sau đó tiến xa hơn nữa tùy hoàn cảnh lúc đó thế nào.”

“Tôi hỏi điều này”, tôi tiếp tục, “chỉ bởi vì nếu chẳng may ông mất tích, nhiệm vụ của bọn tôi là tìm kiếm và đưa ông trở lại với xã hội văn minh”. Chúng tôi ngừng tranh luận một lát để gặm nhấm sự châm biếm trong lời lẽ từ hai vị trí khác nhau.

“Ừ, dĩ nhiên”, ông ta nói. “Nhưng chuyện đó không thể xảy ra. Chúng tôi may mắn có được những bản đồ tuyệt vời về vùng này do chính anh cung cấp.”

“Chúng ít nhiều được vẽ ra dựa trên những lời đồn đại, Đại tá à. Tôi đã chắp vá chúng lại với nhau theo mô tả của những kẻ du hành trong suốt mười hoặc hai mươi năm qua. Tôi chưa từng đặt chân đến nơi ông sắp đi. Đơn giản là tôi đang cảnh báo ông.”

Kể từ ngày thứ hai Đại tá Joll ở đây, tôi đã thấy quá phiền phức vì sự hiện diện của ông ta, đến mức không từ nào miêu tả chính xác cảm giác của tôi hơn là đang chịu đựng ông ta. Tôi cho rằng, như một đao phủ lang thang khắp nơi, ông ta đã quen với việc bị xa lánh. (Hay điều này chỉ đúng ở những tỉnh mà đao phủ và những kẻ chuyên hành nghề tra tấn vẫn bị coi là bọn vô đạo đức?).

Nhìn ông ta, tôi tự hỏi không biết ông ta cảm thấy thế nào vào lần đầu tiên. Được mời đến như một thợ học việc để xoắn cái kìm hoặc vặn cái đinh ốc, hay bất cứ việc gì những người thợ mới vào nghề vẫn làm, liệu ông ta có rùng mình dù chỉ là thoáng qua khi ngay lập tức nhận ra mình đang vi phạm những điều cấm kị? Tôi cảm thấy bản thân cũng đang thắc mắc liệu ông ta có tiến hành nghi lễ rửa tội riêng sau những khung cửa đóng chặt trước khi trở về dùng bữa với những người khác hay không. Ông ta có rửa tay thật kỹ, hoặc biết đâu còn thay tất cả quần áo, hoặc phải chăng Cục đã tạo ra một giống người mới có thể sống thanh thản giữa những tội lỗi bẩn thỉu và sự vô tội?

Đến quá nửa đêm, tôi nghe thấy những âm thanh réo rắt và tiếng trống từ dàn nhạc dưới hàng cây óc chó già cỗi ở phía bên kia quảng trường. Đám than lớn đang cháy tạo thành một quầng sáng hồng rực trong không trung, nơi những người lính đang quay cả một con cừu, một món quà từ ‘quý ngài’. Họ sẽ chè chén đến gần sáng và sau đó lên đường lúc rạng đông.

Tôi đi đến kho thóc bằng lối đi ở phía sau. Cậu lính không có ở vị trí đứng gác, cánh cửa dẫn ra cái lều vẫn đang mở. Vừa lúc sắp vào tới nơi, tôi nghe thấy tiếng thầm thì và cười khúc khích bên trong.

Tôi nhìn chằm chằm vào khoảng không đen đặc. “Ai ở đây vậy?”, tôi lên tiếng.

Có tiếng sờ soạng bên trong và tên lính canh trẻ va phải tôi.

“Tôi xin lỗi, thưa ông”, cậu ta nói. Tôi ngửi thấy mùi rượu nồng nặc trong hơi thở cậu ta. “Tên tù đã gọi tôi vào và tôi đang cố giúp hắn.” Từ trong bóng tối phát ra một tràng cười.

Tôi đi ngủ, nhưng rồi lại bị đánh thức bởi một tràng nhạc khiêu vũ phát ra từ quảng trường và khi lại thiếp vào giấc ngủ, tôi mơ thấy một cơ thể đang nằm ngửa xõa xượi, một đám lông mu rậm ánh lên màu chất lỏng màu đen và vàng chảy qua bụng, trườn lên chỗ thắt lưng và lao xuống như một mũi tên nhắm vào rãnh giữa hai chân. Khi tôi đưa một tay ra để chải phần lông đó, bàn tay tôi bỗng đau nhói. Đó không phải là lông mà là một bầy ong đang tụm lại dày đặc chồng chất lên nhau. Dính dớp và nhầy nhụa, chúng bò ra khỏi khe chân và vo ve vẫy cánh.

Cử chỉ lịch sự cuối cùng của tôi là gắng tiễn ngài đại tá đến tận con đường rẽ sang hướng tây bắc chạy dọc theo bờ hồ. Mặt trời đã lên và mặt hồ hắt sáng chói chang đến mức tôi phải che mắt lại. Vẫn còn mệt mỏi và nôn nao sau đêm chè chén say sưa, đám đàn ông hàng ngũ lộn xộn, tụt lại phía sau chúng tôi.

Người tù đi giữa đội hình, bị canh chừng bởi tên lính gác đi sát ngay bên cạnh. Khuôn mặt nhợt nhạt như xác chết, cậu ta chật vật ngồi trên ngựa, vết thương rõ ràng vẫn làm cậu đau đớn. Đằng sau cậu ta là đàn ngựa cùng những chiếc xe đẩy với thùng đựng nước, đồ dự phòng, và các thiết bị nặng hơn như giáo, súng hỏa mai, đạn dược và lều trại. Nhìn chung, đó là một cảnh tượng chẳng sôi nổi hào hứng gì. Đoàn người cưỡi ngựa đi xiêu vẹo, tả tơi, người thì đầu trần, những người khác mang mũ giáp nặng nề kiểu kỵ binh có đính lông chim, còn lại chỉ mang mũ da.

Tất cả họ đều ngoảnh đi tránh ánh nắng cho khỏi chói, chỉ trừ một gã vẫn lạnh lùng nhìn thẳng qua miếng kính ám khói gắn với một cái cán giữ trước mắt, bắt chước thủ lĩnh của mình. Hiệu ứng màu mè lố bịch này liệu sẽ còn lây lan đến mức nào nữa đây?

Chúng tôi đi trong im lặng. Bận rộn trên cánh đồng từ sáng tinh mơ, những người nông dân đang gặt lúa ngừng làm việc và giơ tay vẫy chào khi chúng tôi đi qua. Tại khúc cua của con đường, tôi kìm cương ngựa lại và đứng chào tạm biệt. “Chúc ngài trở về bình an, ngài Đại tá”, tôi nói. Từ cửa sổ xe ngựa, ông ta gật đầu một cách bí hiểm.

Rồi tôi quay ngựa lại, cảm thấy thật thanh thản vì trút được gánh nặng và hạnh phúc vì lại được ở một mình trong thế giới tôi biết và hiểu rõ. Tôi trèo lên tường nhìn đội hình bé nhỏ đang nương theo con đường hướng tây bắc về phía vệt xanh mờ mờ phía xa, nơi dòng sông đổ về hồ và hàng cây biến mất trong đám bụi sa mạc mù mịt. Mặt trời vẫn lừng lững vàng rực trên mặt nước. Phía nam hồ kéo dài đến vùng đầm lầy và những miền đất thấp ngập mặn. Thấp thoáng bên kia là những ngọn đồi cằn cỗi xanh xám. Trên cánh đồng, những người nông dân đang chất lúa lên hai chiếc xe chở cỏ to lớn, cũ kĩ. Một đàn vịt trời bay vòng tròn trên cao rồi sà xuống mặt nước. Cuối hè là khoảng thời gian yên bình và sung túc. Tôi tin vào sự thái bình, thậm chí có thể là sự thái bình có được bằng mọi giá.

Cách đây đúng hai dặm về phía nam thị trấn có một đám cồn cát nổi bật trên bờ cát bằng phẳng. Bắt ếch trong vùng đầm lầy và trượt xuống triền cát bằng những miếng gỗ đã mài nhẵn là trò chơi chính của tụi trẻ con, trò thì chơi vào buổi sáng, có trò lại dành cho những buổi chiều tối khi mặt trời lặn xuống và cát bắt đầu mát. Dù gió thổi vào tất cả các mùa, cồn cát vẫn đứng vững và gắn kết với nhau bởi đám cỏ thưa thớt mọc quanh mỏm cát như một chiếc mũ, và bởi những khung gỗ mà tôi tình cờ phát hiện cách đây vài năm. Cũng nhờ cồn cát đã phủ lên những căn nhà đổ nát từ thời xa xưa, trước cả khi những tỉnh miền Tây này được sát nhập và pháo đài được xây dựng lên.

Một trong những sở thích của tôi là khai quật đống đổ nát này. Khi không có hệ thống tưới tiêu nào phải tu sửa, tôi sẽ phạt những người phạm tội lặt vặt đào những cồn cát này trong ít ngày. Những người lính bị gửi đến đây vì dính án kỷ luật, và trong một lần hăng hái quá mức, tôi thậm chí đã dốc sạch tiền túi ra để trả công cho đám nhân công ‘bất đắc dĩ’ này.

Công việc này chẳng báu bở gì, vì đám thợ đào phải quần quật cặm cụi dưới cái nóng của ánh nắng mặt trời hay cơn gió rét buốt mà không có chỗ trú ẩn, cát thì bay khắp nơi. Bọn họ làm việc không hăng hái cho lắm và chẳng có chung sở thích với tôi (cái sở thích mà bọn họ cho là quái gở), nản lòng khi những đống cát nhanh chóng phủ đầy trở lại. Nhưng trong một vài năm, tôi đã thành công trong việc khai quật hoàn toàn đến tận phần nền của những khung nhà lớn nhất.

Cuộc khai quật gần đây nhất đã phát hiện ra một công trình trông như chiếc thuyền đắm giữa sa mạc, thậm chí có thể nhìn thấy được từ những bức tường bao quanh thị trấn. Dựa vào kiến trúc, có lẽ nó là một tòa nhà công cộng hay một đền thờ nào đó. Chiếc rầm đỡ bằng gỗ dương nặng trịch chạm trổ hình đàn cá vui đùa quấn quýt mà tôi tìm được giờ vẫn đang treo trên bếp sưởi. Tôi cũng tìm thấy một nơi giấu những mảnh gỗ nhỏ có vẽ những kí tự chữ viết mà tôi chưa thấy bao giờ. Chúng bị chôn vùi dưới nền nhà trong một cái túi tưởng chừng có thể vỡ vụn ra ngay khi vừa chạm vào. Chúng tôi từng tìm thấy những mảnh gỗ nhỏ giống như vậy trước đây, chúng nằm rải rác như những mảnh vải trong đống đổ nát, nhưng hầu hết đã bị bào mòn bởi cát đến mức không còn đọc được chữ viết trên đó. Còn kí tự trên những mảnh gỗ mới vẫn rõ nét như thể chúng vừa được viết xong. Giờ đây, với hy vọng có thể giải mã được những kí tự in đó, tôi đã bắt tay vào việc thu thập những mảnh gỗ nhiều nhất có thể và rao thưởng cho những đứa trẻ hay chơi ở đây rằng chúng sẽ được thưởng một xu cho mỗi mảnh gỗ tìm được.

Những thanh gỗ chúng tôi tìm ra đều khô và mục nát. Nhiều thanh chỉ được cố kết với nhau nhờ cát bao quanh và khi bị lôi ra khỏi cát, chúng lập tức vỡ vụn. Những thanh khác thì chỉ cần một lực ép nhẹ nhất thôi cũng gãy lìa. Tôi không biết đám gỗ này đã bao nhiêu năm tuổi. Sự tích của đám mọi, gồm những người chăn cừu, dân du cư và những kẻ sống lang bạt trong lều không hề nhắc đến khu định cư lâu dài nào ở gần hồ.

Không có dấu tích của con người trong những đống đổ nát. Nếu khu này có một cái nghĩa trang thì hẳn là chúng tôi chưa tìm thấy. Những ngôi nhà không có đồ đạc gì bên trong. Trong một đống tro, tôi đã tìm thấy những mảnh gốm vỡ làm bằng đất sét khô và vài thứ màu nâu có lẽ đã từng là một đôi giày da hay một cái mũ, nhưng chúng đã mủn ra thành nhiều mảnh ngay trước mắt tôi. Tôi không biết gỗ để xây những ngôi nhà này được lấy từ đâu.

Có lẽ vào thời đó, những tên tội phạm, nô lệ và những người lính đã kéo xe đến một nơi cách dòng sông mười hai dặm và đốn những cây bạch dương, cưa nhỏ, bào nhẵn rồi vận chuyển chúng trên những chiếc xe bò quay lại chốn cằn cỗi này để xây những ngôi nhà, và cả một pháo đài nữa, theo những gì tôi biết. Thời gian qua đi, những vị chủ nhân cùng các Cảnh sát trưởng, Quan tòa và Chỉ huy của họ có thể leo lên mái nhà và tòa tháp của pháo đài mỗi sáng và tối để tầm soát thế giới từ góc trời nọ đến chân trời kia nhằm truy tìm dấu vết bọn mọi.

Dường như trong công việc đào bới của mình, tôi chỉ mới khám phá ra bề nổi. Có lẽ ẩn sâu dưới nền nhà khoảng mười bước chân là đống đổ nát của một pháo đài khác đã bị san bằng bởi những tên mọi và hàng đống xương người chồng chất của những kẻ từng nghĩ mình sẽ tìm được nơi trú ẩn an toàn dưới những bức tường cao. Tưởng chừng như khi đứng trên nền nhà của tòa án, nếu nó đúng là công trình này, tôi cũng đang đứng trên đầu của một quan tòa giống như mình, một kẻ bầy tôi đội tóc giả màu xám phục vụ Chính phủ, người đã nằm xuống trên chính vũ đài nơi mình nắm quyền, đối mặt với một tên mọi trong phút cuối. Làm sao để tôi biết được chuyện này? Bằng cách đào đào bới bới như một con thỏ? Hay một ngày nào đó đám kí tự trên những mảnh gỗ sẽ nói cho tôi biết? Có tất thảy hai trăm năm mươi sáu mảnh gỗ trong cái túi. Phải chăng tình cờ con số này lại hoàn hảo đến vậy? Sau khi tôi đếm chúng lần đầu và phát hiện ra điều này, tôi đã lau sạch sẽ sàn nhà trong văn phòng của mình và trải chúng ra, đầu tiên là trải trong một ô vuông lớn, rồi trong mười sáu ô vuông nhỏ hơn, rồi tôi lại chắp nối theo những kiểu khác, vì nghĩ rằng cho đến lúc này, những gì tôi đã lấy được chính là những kí tự trong một bảng kí hiệu âm tiết. Mà cũng có thể chúng thực ra là mảnh vỡ của một bức tranh, những nét phác thảo của nó sẽ hiện ra nếu tôi sắp xếp đúng vị trí. Một bản đồ về lãnh địa của những tên mọi thời xa xưa, hoặc một bản mô tả về một ngôi đền đã mất tích. Thậm chí tôi còn nhìn thấy mình đang soi những mảnh gỗ trong gương để đọc, hoặc đang lần theo dấu vết của mảnh này từ một mảnh khác, hay đang ghép nối nửa này với nửa kia.

Một tối nọ, sau khi lũ trẻ đã chạy về nhà ăn bữa nhẹ trước khi đi ngủ, tôi nán lại trong đống đổ nát dưới ánh sáng tím nhá nhem của thời khắc chạng vạng và những ngôi sao đầu tiên, thời điểm mà theo truyền thuyết là lúc những hồn ma thức dậy. Tôi áp tai vào bãi đất như lời những đứa trẻ đã chỉ cho tôi, để lắng nghe thứ chúng đã nghe. Những tiếng đấm thùi thụi và tiếng rên rỉ dưới mặt đất, những tiếng trống đánh trầm trầm ngắt quãng. Ngay dưới má mình, tôi cảm nhận được âm thanh vù vù của cát bị cuốn đi từ một nơi nào đó, băng qua những vùng sa mạc đến một nơi cũng rất mơ hồ. Tia sáng cuối cùng lịm tắt, những thành lũy mờ dần trên nền trời và tan vào bóng đêm. Tôi đã chờ đợi khoảng một giờ đồng hồ, quấn mình trong chiếc áo khoác không tay, dựa lưng vào góc một ngôi nhà, nơi người ta vẫn thường trò chuyện, ăn uống và chơi nhạc trước đây. Tôi ngồi ngắm trăng lên và mở toang mọi giác quan để cảm nhận đêm tối, chờ đợi dấu hiệu của một cái gì đó tồn tại xung quanh mình, cái gì đó dưới chân tôi, không chỉ là cát, những bộ xương mục ruỗng, các vảy sắt gỉ hay tàn tro và mảnh gốm vỡ. Dấu hiệu ấy đã không xuất hiện. Tôi không thấy rùng mình vì sợ ma. Cái tổ trong cát của tôi thật ấm áp. Không lâu sau đó, tôi thấy mình đang ngủ gật.

Tôi đứng lên vươn vai rồi mệt mỏi lê bước xuyên qua bóng đêm êm dịu để trở về nhà, xác định phương hướng bằng cách theo dấu những đốm sáng lờ mờ phát ra từ bếp lửa của các gia đình. Thật nực cười, tôi đã nghĩ. Một lão ngớ ngẩn tóc hoa râm ngồi trong bóng tối chờ đợi những linh hồn bị lãng quên từ quá khứ đến nói chuyện với mình trước khi về nhà tận hưởng món thịt hầm nhà binh và cái giường ấm cúng của ông ta. Cái không gian nơi chúng tôi ở chỉ đơn thuần là không gian, chẳng tầm thường hay cao quí hơn không gian trong những cái lán, những căn hộ, đền thờ và những văn phòng làm việc ở thủ đô. Không gian chỉ là không gian, cuộc sống là cuộc sống, khắp nơi đều như nhau cả. Nhưng về phần tôi, được nuôi sống nhờ công sức lao động cực nhọc của người khác, nhưng lại thiếu thốn những trò tiêu khiển văn minh để khỏa lấp khoảng thời gian nhàn rỗi, nên tôi nuông chiều nỗi sầu muộn của mình và cố gắng tìm trong sa mạc hoang vu một nỗi niềm thương tâm xưa cũ. Vô nghĩa, rỗi hơi, dại dột! Thật may là không ai nhìn thấy tôi lúc đó!

Hôm nay, chỉ bốn ngày sau khi khởi hành chuyến săn người, những tù nhân đầu tiên của Đại tá đã đến. Từ cửa sổ phòng mình, tôi quan sát họ đi giữa hàng lính gác cưỡi ngựa băng qua quảng trường, người đầy bụi, mệt lử, đầu cúi gằm tránh cái nhìn của những khán giả hiếu kỳ đang vây quanh họ, bọn trẻ con thì nhảy chân sáo và lũ chó đang sủa. Dưới bóng râm của bờ tường doanh trại, toán lính gác xuống ngựa, còn những tù nhân thì ngay lập tức tranh thủ ngồi xổm xuống nghỉ, mệt, chỉ trừ một cậu bé vẫn đứng trên một chân, cánh tay vịn trên vai mẹ và tò mò nhìn chằm chằm lại đám khán giả hiếu kỳ. Ai đó mang đến một xô nước cùng cái gáo múc. Bọn họ uống như chết khát đến nơi, trong khi đám người xem bâu lại càng lúc càng đông và chen chúc nhau kít mít đến nỗi tôi không thể nhìn thấy được gì nữa. Tôi nôn nóng đợi cậu lính gác đang chen lấn thoát ra khỏi đám đông và băng qua sân của khu doanh trại.

“Cậu giải thích chuyện này thế nào?”, tôi quát. Cậu ta cúi đầu, đôi tay ngọ nguậy trong túi quần. “Bọn họ là ngư dân! Sao cậu lại giải họ về đây?”

Cậu ta đưa ra một lá thư. Tôi xé niêm phong và đọc. “Vui lòng nhốt và biệt giam đám nghi phạm này cho tới khi tôi quay về.” Bên dưới chữ kí của ông ta có một dấu niêm phong nữa, con dấu của Cục mà ông ta đã mang theo trong hành trình vào sa mạc và nếu ông ta bỏ mạng, tôi chắc chắn sẽ phải mở một đợt hành quân thứ hai để tìm lại con dấu đó.

“Ông ta thật lố bịch!”, tôi hét lên và quát tháo ầm ĩ cả căn phòng. Người ta hẳn sẽ không làm mất thể diện của các sĩ quan chỉ huy trước mặt người khác hay làm mất thể diện những ông bố trước mặt con họ bao giờ, nhưng trong tim tôi chẳng có chút lòng trung thành nào đối với người đàn ông này. “Không ai nói cho ông ta biết rằng họ chỉ là những ngư dân sao? Thật phí thời gian khi đem bọn họ về đây! Cậu có nhiệm vụ đi theo để giúp ông ta truy tìm bọn kẻ trộm, quân ăn cướp và những tên xâm lược cho Chính phủ!

Nhìn những người này giống một mối nguy hiểm cho Chính phủ lắm sao?”. Tôi ném lá thư ra cửa sổ.

Đám đông dạt ra trước mặt tôi, cho đến khi tôi đứng giữa đám đông, đối mặt với những tù nhân đáng thương. Bọn họ có vẻ ngần ngại trước thái độ giận dữ của tôi, cậu bé con ngã vào cánh tay của người mẹ. Tôi ra hiệu cho những tên lính canh. “Dọn đường và đưa đám này vào trong sân doanh trại!”. Họ dồn những người bị bắt lại và mở đường để thoát khỏi đám đông, cánh cổng doanh trại khép lại phía sau chúng tôi. “Giờ các cậu giải thích đi”, tôi nói, “không một ai trong các cậu cho ông ta hay những tù nhân này vô hại với ông ta à? Không ai trong các cậu cho ông ta biết sự khác biệt giữa một ngư dân vác lưới đánh cá với bọn kỵ sĩ ngông cuồng cưỡi ngựa mang cung sao? Không một ai trong các cậu nói cho ông ta biết rằng những người này thậm chí còn không nói cùng một thứ tiếng sao?”.

Một trong những tên lính canh giải thích. “Khi nhìn thấy bọn tôi tiến đến, họ đã cố lẩn vào đám sậy. Họ thấy quân lính cưỡi ngựa đến nên đã cố chạy trốn. Vì vậy sĩ quan chỉ huy, ngài Đại tá, đã ra lệnh cho chúng tôi bắt lấy bọn họ. Bởi vì họ đang lẩn trốn.”

Tôi đến phải rủa xả vì phát bực. Một tên cảnh sát! Lập luận của một tay cảnh sát!

“Đại tá có nói vì sao ông ta muốn giải họ về đây không? Ông ta có nói vì sao ông ta không thể thẩm vấn họ ở đó không?”

“Không ai trong chúng tôi nói được thứ tiếng của bọn người này, thưa ông.”

Dĩ nhiên là không rồi! Những người sống dọc sông này là thổ dân, thậm chí còn lâu đời hơn cả đám dân du cư. Họ sống dọc theo bờ sông, trong những khu định cư với hai hoặc ba gia đình, họ câu cá, bẫy thú quanh năm và chèo xuồng đến những bờ đất tận phía nam của hồ vào mùa thu để bắt giun đỏ và phơi khô chúng làm mồi câu, họ dựng những túp lều tranh tạm bợ, khoác da thú thay quần áo nên suốt mùa đông chỉ biết rên siết vì lạnh. Họ sống trong nỗi khiếp sợ con người, lẩn lút trong những bờ lau, liệu họ có thể biết gì về một quân đoàn mọi hùng hậu đối đầu với Chính phủ?

Tôi sai một trong những tên lính canh xuống bếp tìm ít thức ăn. Anh ta quay lại với một ổ bánh mì để lại từ hôm qua và đưa nó cho tù nhân già nhất. Ông già nhận ổ bánh mì một cách kính cẩn bằng cả hai tay, ngửi ngửi rồi bẻ nhỏ ra để chia cho những người ngồi xung quanh. Họ ngấu nghiến thứ lộc trời cho này mà không ngước mắt lên. Một người phụ nữ nhổ miếng bánh mì cô ta đã nhai ra lòng bàn tay và đút cho đứa con ăn. Tôi ra hiệu cho cậu lính canh lấy thêm bánh mì. Chúng tôi đứng nhìn bọn họ ăn như thể họ là những động vật lạ lùng.

“Để bọn họ ở trong sân”, tôi bảo những tên lính canh. “Điều này khá bất tiện cho chúng ta, nhưng chẳng còn nơi nào khác. Nếu tối nay trời lạnh tôi sẽ thu xếp cách khác. Nhớ là phải cho họ ăn. Giao việc gì đó cho họ làm để họ bận luôn tay cho tôi. Cổng phải luôn đóng. Họ sẽ không chạy trốn nhưng tôi không muốn những kẻ rỗi hơi kéo đến dòm ngó họ.”

Thế là tôi cố vuốt giận và làm theo lời chỉ dẫn của Đại tá. Tôi “biệt giam” những tù nhân vô hại của ông. Và chỉ trong một hoặc hai ngày, những con người hoang dã này dường như quên mất họ từng có một ngôi nhà khác. Họ bị cám dỗ bởi thực phẩm miễn phí và dồi dào, đặc biệt là bánh mì, họ thư giãn, mỉm cười với mọi người, di chuyển quanh sân doanh trại từ khoảng đất có bóng râm này đến khoảng đất có bóng râm khác, họ ngủ gà ngủ gật rồi lại thức giấc và phấn khích khi đến giờ ăn. Những thói quen sinh hoạt của họ thật bộc trực và bẩn thỉu. Một góc sân đã trở thành nhà xí, nơi cả đàn ông lẫn đàn bà thoải mái ngồi chồm hỗm đi vệ sinh và một bầy ruồi bay vo ve cả ngày.

“Giao cho chúng một cái mai!”, tôi sai đám lính, nhưng họ không sử dụng nó. Thằng bé con đã trở nên hết sức táo tợn, nó bám cứng lấy nhà bếp để năn nỉ xin cô hầu gái chút đường. Ngoài bánh mì ra thì đường và trà là những thứ vô cùng mới mẻ với họ.

Mỗi sáng, họ lấy một bọc lá trà ép và đun sôi trong một thùng nước chừng bốn ga-lông1 trên chiếc bếp lửa dựng bằng cái kiềng ba chân. Bọn họ vui sướng khi ở đây, quả thực nếu chúng tôi không xua họ đi, họ có thể ở với chúng tôi mãi mãi, vì vậy dường như việc này phần nào đã nhử họ thoát ra khỏi cuộc sống hoang dã của mình.

1 Gallon hay galông là một đơn vị đo thể tích 1 ga- lông = 3,785411784 lít

Tôi quan sát họ hàng tiếng đồng hồ từ cửa sổ trên lầu những kẻ rỗi hơi khác phải xem qua cánh cổng. Tôi quan sát những người phụ nữ đang bắt chấy, chải mái tóc đen dài và tết đuôi sam cho nhau. Một vài người trong số đó ho khan. Điều đáng chú ý là không có đứa trẻ con nào trong nhóm, ngoại trừ một đứa bé sơ sinh và cậu bé trai kia. Có phải một vài người trong số họ, những người lanh lẹ và tỉnh táo sau cùng đã thành công trong việc thoát khỏi sự canh giữ của những tên lính hay không? Tôi hi vọng đúng là vậy. Tôi mong rằng khi chúng tôi trả họ về lại những ngôi nhà của họ dọc con sông, họ sẽ có nhiều câu chuyện cường điệu để kể cho những người hàng xóm nghe. Tôi hi vọng rằng sự kiện bị giam cầm lần này sẽ đi vào huyền thoại của bộ tộc họ và được truyền tai từ đời cha ông cho đến cháu chắt. Nhưng tôi cũng hi vọng, những kí ức về thị trấn, với cuộc sống tiện nghi và những thực phẩm kì lạ, không đủ mạnh để cám dỗ họ quay trở lại. Tôi không muốn quản lý thêm một giống hành khất nữa.

Trong một vài ngày, đám ngư dân này là trò tiêu khiển, với tiếng nói lắp bắp lạ lùng, sự thèm ăn vô độ, thói vô tư không biết xấu hổ gần như động vật, và tính nhẹ dạ của họ. Những tên lính canh đi dạo quanh các ô cửa quan sát họ, cười cợt và buông vài câu bình luận tục tĩu về họ mà họ không hiểu được, luôn có những đứa trẻ tì mặt vào những chấn song của cánh cổng, và từ cửa sổ phòng mình, tôi ngó xuống quan sát chăm chú, dù họ không thể thấy tôi phía sau tấm kính.

Sau đó, tất cả chúng tôi không thể thương cảm bọn họ nổi nữa. Đến ngày thứ năm, mùi hôi cùng âm thanh hỗn loạn từ những trận cãi vã và tiếng ho của họ trở nên quá mức chịu đựng. Có một trận xô xát tồi tệ xảy ra khi một người lính cố lôi một phụ nữ thuộc đám đó vào trong nhà, có lẽ chỉ để chọc chơi, ai mà biết được, và bị ném đá tới tấp. Tin đồn rằng bọn họ bị bệnh và sẽ mang dịch bệnh đến thị trấn bắt đầu lan rộng ra. Mặc dù tôi đã bảo bọn họ đào một cái hố ở một góc sân doanh trại và cho dọn sạch những thứ bẩn thỉu đi, đám người trong nhà bếp vẫn từ chối đưa cho bọn họ dụng cụ ăn uống và bắt đầu quăng thức ăn qua ô cửa như thể bọn họ đúng là thú hoang. Những tên lính canh khóa cánh cửa dẫn đến đại sảnh của doanh trại, những đứa trẻ hiếu kỳ không còn lân la ở cổng nữa. Ai đó đã ném một con mèo chết qua tường trong đêm và gây ra một trận náo động. Suốt những ngày nóng bức dài đằng đẵng, họ thẫn thờ đi lang thang khắp khoảng sân doanh trại trống trải. Đứa bé cứ khóc và ho suốt khiến tôi phải lẩn vào góc xa nhất trong căn hộ để thoát khỏi âm thanh đó. Tôi viết một lá thư đầy giận dữ cho Cục Ba, đơn vị bảo vệ thường trực của Chính phủ để lên án sự kém cỏi ở một trong những đặc vụ của họ. “Tại sao các ông không cử người có kinh nghiệm về biên giới đi điều tra bạo động biên giới?”, tôi viết. Nhưng tôi đã sáng suốt xé vụn lá thư ra. Tôi tự hỏi nếu mình mở khóa cổng trong đêm tối, những ngư dân đó sẽ trốn đi chứ? Nhưng tôi không làm gì cả. Rồi một ngày nọ, tôi nhận ra rằng em bé đã ngừng khóc. Khi nhìn từ cửa sổ, tôi cũng không thấy gì. Tôi cử một cậu lính canh đi tìm hiểu và anh ta thấy thi hài bé nhỏ nằm dưới mớ quần áo của mẹ nó. Cô ta sẽ không gào khóc, chúng tôi phải tách nó khỏi cô ta.

Sau chuyện đó, cô ta cứ ngồi xổm một chỗ, úp mặt xuống gối cả ngày mà không chịu ăn gì cả. Nhóm người còn lại dường như lảng tránh cô ta. Tôi tự hỏi phải chăng việc chúng tôi mang đứa bé đi chôn đã xâm phạm một phong tục nào đó của họ? Tôi nguyền rủa tên Đại tá Joll vì tất cả những phiền phức và cả sự hổ thẹn lão mang đến cho tôi.

Lúc nửa đêm ông ta trở lại. Tiếng kèn báo hiệu từ các thành lũy đã phá hỏng giấc ngủ của tôi, khu doanh trại ồn ào như ong vỡ tổ khi đám quân nhân chen lấn nhau chộp lấy vũ khí. Đầu óc vẫn đang bị xáo trộn, tôi chậm rãi mặc quần áo. Lúc tôi vào đến quảng trường, đoàn quân đã tiến qua mấy cánh cổng, vài người trong số họ cưỡi ngựa, vài người đi bộ dắt ngựa theo. Tôi đứng tụt lại phía sau trong khi đám đông hiếu kỳ lại vây quanh toán lính, đụng chạm và ôm ghì lấy các quân nhân, nói cười phấn khích. “Tất cả đều an toàn!”, ai đó hét lên. Mãi đến khi chen chân lên được vào giữa đội hình, tôi mới thấy điều mình đang lo sợ. Một chiếc xe ngựa màu đen, rồi một nhóm tù nhân đang lê bước, cổ họ bị trói lại với nhau bằng dây thừng, những dáng hình kì quái trong những tấm áo choàng làm bằng da cừu dưới ánh trăng bàng bạc, phía sau họ là những người lính cuối cùng đang dắt những chiếc xe bò và ngựa thồ.

Khi càng lúc càng nhiều người kéo đến, vài người cầm theo những bó đuốc cháy rực, và những âm thanh hỗn tạp ngày một ầm ĩ, tôi quay lưng lại với chiến thắng của Đại tá và trở về dãy phòng mình. Đây là thời điểm tôi bắt đầu nhận thấy những bất lợi của cuộc sống, vì tôi đã lựa chọn cuộc sống đó, trong căn hộ bừa bãi trên những kho thực phẩm và nhà bếp dành cho sĩ quan chỉ huy quân đội vốn bao năm nay rồi vùng này không có, chứ không phải trong căn biệt thự đẹp đẽ với đám phong lữ thảo bên cửa sổ, chủ yếu được thiết kế riêng cho các quan tòa dân sự. Tôi những mong không phải nghe tiếng ồn phát ra từ cái sân bên dưới, nơi lúc này đây, có lẽ, đã vĩnh viễn trở thành một cái sân nhốt tù binh. Tôi cảm thấy mình già cả và mệt mỏi, tôi muốn ngủ. Tôi ngủ bất cứ lúc nào tôi có thể và khi thức dậy, tôi thức dậy một cách miễn cưỡng. Giấc ngủ không còn là một lần tắm táp để gột rửa vết thương và phục hồi sinh lực, mà là một sự lãng quên, một cuộc chạm trán với sự hủy diệt hàng đêm. Tôi nghĩ việc sống trong một căn hộ đã là phiền phức, nhưng không chỉ có thế.

Giả dụ tôi sống trong một căn biệt thự dành cho quan tòa trên con phố yên tĩnh nhất trong thị trấn, chủ trì các phiên tòa vào thứ Hai và thứ Năm, đi săn mỗi buổi sáng, bận rộn với việc nghiền ngẫm những tác phẩm kinh điển mỗi buổi tối, bịt tai trước những hành động của viên cảnh sát mới phất lên này, nếu tôi quyết tâm vượt qua khoảng thời gian tồi tệ và không để lộ ý định của mình, có lẽ tôi đã thôi cảm thấy mình như một người đàn ông đang vẫy vùng trong vòng kìm kẹp của cơn sóng dữ, không còn ý chí đấu tranh, ngừng bơi và ngẩng mặt trước biển cả bao la, đối mặt với cái chết. Nhưng như thế mới thấy sự bứt rứt của tôi ngẫu nhiên ra sao và lệ thuộc thế nào vào việc một đứa bé sơ sinh bên dưới cửa sổ phòng tôi mới ngày nọ còn la khóc, sang ngày tiếp theo đã không nghe tiếng khóc nữa. Việc này mang lại cho tôi nỗi hổ thẹn tồi tệ nhất khi tỏ ra hoàn toàn dửng dưng trước sự hủy diệt. Ở mức độ nào đó, tôi biết quá nhiều, và chính vì sự hiểu biết này, một khi tư tưởng người ta đã bị đầu độc, dường như việc tìm lại được chính mình là điều không thể. Lẽ ra tôi không nên xách đèn lồng đi xem chuyện gì đang xảy ra trong cái lều gần kho thóc đó.

Mặt khác, một khi tôi đã cầm chiếc đèn lên, tôi không còn cách nào đặt nó xuống lại nữa. Khúc mắc này vốn dĩ không có khởi đầu, tôi cũng sẽ chẳng thể tìm ra điểm kết thúc.

Đại tá dành cả ngày tiếp theo để ngủ trong phòng ông ta ở nhà trọ, và đám nhân viên nhà trọ phải nhón chân đi rất khẽ khi làm việc. Tôi cố không để ý đến đợt tù binh mới trong sân doanh trại. Đáng tiếc là, tất cả những cánh cửa của khối doanh trại cũng như cầu thang dẫn lên căn hộ của tôi đều nhìn ra sân. Tôi vội vàng ra khỏi phòng trong ánh mặt trời của buổi sáng sớm, cả ngày vùi đầu vào những công việc thuê mướn ở thành phố và dùng bữa tối với những người bạn. Trên đường trở về nhà, tôi gặp viên Trung úy trẻ đã đi theo hộ tống Đại tá Joll tới sa mạc và chúc mừng anh ta vì đã trở về bình an vô sự.

“Nhưng tại sao anh không giải thích cho Đại tá rằng những ngư dân đó chẳng thể nào giúp gì được cho cuộc điều tra của ông ta?” Anh ta có vẻ bối rối. “Tôi đã nói với ông ấy như vậy”, anh ta nói, “nhưng tất cả những gì ông ta nói là, ‘tù nhân là tù nhân’. Tôi hiểu rằng mình chả có tư cách gì mà tranh cãi với ông ta”.

Ngày hôm sau, viên Đại tá bắt đầu những cuộc thẩm vấn của mình. Tôi từng nghĩ ông ta là loại người lười biếng, một viên chức quan liêu không hơn không kém với những sở thích xấu xa. Giờ tôi mới biết mình đã nhầm to. Trong công việc truy lùng sự thật, ông ta không hề biết thế nào là mệt mỏi. Việc thẩm vấn bắt đầu từ sáng sớm và vẫn còn tiếp diễn lúc tôi trở lại khi trời sập tối. Ông ta đã tranh thủ sự giúp đỡ của một thợ săn, người trong suốt cuộc đời mình đã bắn hạ vô số lợn từ khắp đầu này đến đầu kia con sông và thông thạo hàng trăm từ về ngôn ngữ của những người sống bằng nghề đánh cá. Lần lượt từng ngư dân được đưa vào căn phòng mà Đại tá đã tự bố trí, ông ta hỏi họ có nhìn thấy những chuyến hành quân của đám kỵ sĩ lạ cưỡi ngựa hay không. Ngay cả một đứa bé cũng bị hỏi. “Những người lạ có ghé thăm bố cháu trong đêm không?” (Tôi đoán vậy, dĩ nhiên, dựa vào những gì diễn ra trong căn phòng đó và sự sợ hãi, nỗi hoang mang cùng sự lăng nhục.)

Những tù nhân không được đưa trở lại sân doanh trại mà bị giải đến sảnh chính. Những tên lính đã được chia phiên lần lượt canh giữ. Trong phòng mình với cánh cửa sổ đã khép chặt, giữa cái oi bức ngột ngạt của buổi tối không có gió trời, tôi cố đọc sách và căng tai ra nghe hoặc để không phải nghe những âm thanh của sự bạo lực. Rốt cuộc thì màn thẩm vấn cũng dừng lại vào lúc nửa đêm, không có thêm tiếng sập cửa hay tiếng bước chân nặng nề nào, khoảng sân tĩnh mịch chìm trong ánh trăng, và tôi có thể mặc sức ngủ.

Niềm vui đã rời bỏ cuộc sống của tôi. Ban ngày, tôi đốt thời gian vào việc tiêu khiển với các bản danh sách và những con số, bày ra những công việc lặt vặt hòng lấp đầy khoảng thời gian trống còn lại. Vào buổi tối, tôi ăn ở nhà trọ, rồi miễn cưỡng lê bước về nhà lên khu căn hộ nhỏ với những căn phòng được ngăn với nhau bằng các bức vách, nơi nhóm người coi chuồng ngựa ngủ nghỉ và mấy cô điếm chiều chuộng đám đàn ông.

Tôi ngủ say như chết. Khi tôi thức dậy vào lúc tờ mờ sáng, một cô gái đang nằm co tròn trên sàn nhà. Tôi lay cánh tay cô. “Sao em lại ngủ ở đây?”

Cô mỉm cười với tôi. “Không sao. Em cảm thấy hoàn toàn thoải mái.” Đúng thế. Nằm trên tấm trải sàn làm bằng da cừu mềm mại, cô duỗi người ra và ngáp, cơ thể nhỏ nhắn gọn gàng của cô thậm chí còn không lấp đầy được tấm thảm. “Ông đã trằn trọc suốt trong lúc ngủ, ông bảo em biến đi, vì vậy em đã quyết định ngủ ở dưới này thì tốt hơn.”

“Tôi bảo em biến đi sao?”

“Vâng, ông chỉ nói mơ thôi. Đừng lo lắng.” Cô leo lên giường nằm cạnh tôi. Tôi ôm ghì cô với lòng biết ơn, không hề có chút dục vọng.

“Tối nay tôi muốn ngủ lại đây nữa”, tôi nói. Cô rúc vào ngực tôi.

Tôi chợt nghĩ rằng bất cứ điều gì tôi nói với cô đều sẽ được lắng nghe với sự cảm thông và ân cần.

Nhưng liệu tôi có thể nói gì với cô đây? “Có những chuyện khủng khiếp diễn ra trong đêm lúc em và tôi đang ngủ?” Con chó rừng xé toạc ruột của bầy thỏ hoang, nhưng trái đất vẫn quay.

Một ngày và một đêm nữa, tôi cố lánh xa vương quốc thương đau. Tôi ngủ vùi trong vòng tay cô gái. Vào buổi sáng, cô lại nằm trên sàn nhà. Cô cười trước sự hoảng hốt của tôi, “Ông dùng cả tay lẫn chân mà xô em ra. Nhưng đừng lo gì cả. Chúng ta không thể khống chế được giấc mơ của mình hay những gì ta làm trong giấc ngủ.” Tôi rên rỉ và quay mặt đi. Tôi biết cô đã được một năm và thỉnh thoảng ghé thăm cô hai lần một tuần trong căn phòng này. Tôi cảm thấy rất mến cô, đây có lẽ là điều tốt đẹp nhất có thể mong đợi giữa một người đàn ông luống tuổi và một cô gái chỉ mới đôi mươi, chắc chắn tốt hơn là một thứ đam mê chiếm hữu. Ý định đề nghị cô về sống chung với mình đã từng thoáng qua trong đầu tôi. Tôi cố gắng nhớ xem mình đã gặp cơn ác mộng quái quỉ nào khi đẩy cô ra, nhưng không thể nhớ nổi. “Nếu tôi còn làm thế nữa, nhất định em phải đánh thức tôi dậy nhé”, tôi nói với cô.

Sau đó, khi đang ngồi trong văn phòng của mình ở tòa án, tôi được báo có khách tới thăm. Vẫn đeo cặp kính mát sẫm màu của lão, Đại tá Joll bước vào phòng và ngồi xuống đối diện với tôi. Khi mời trà lão, tôi ngạc nhiên thấy bàn tay mình thật bình tĩnh.

Đại tá Joll nói rằng lão sắp rời đi. Tôi có nên cố che giấu sự vui mừng của mình không? Nhấm nháp từng ngụm trà, ông ta ngồi thẳng lưng và đưa mắt quan sát căn phòng, hàng kệ đựng những bó giấy tờ nối tiếp nhau được buộc bằng dây ruy-băng, đống hồ sơ quản lý vô cùng tẻ nhạt từ hàng thập kỷ, giá sách nhỏ chứa các loại văn bản luật và bàn làm việc bừa bộn. Ông ta nói tạm thời đã hoàn thành xong việc thẩm vấn, và đang gấp rút thu xếp về lại thủ đô để làm báo cáo. Ông ta khéo léo kiềm chế vẻ đắc thắng. Tôi gật đầu ra hiệu đã hiểu những gì lão nói. “Bất kì điều gì tôi có thể làm để tạo điều kiện thuận lợi cho chuyến đi của ngài… ”, tôi nói. Tôi ngập ngừng. Và trong khoảng lặng đó, như một viên đá cuội ném vào lòng hồ, tôi thốt ra câu hỏi.

“Và thưa Đại tá, những cuộc thẩm vấn của ngài với đám dân du cư và thổ dân đó - có thành công như ngài mong đợi không?”

Ông ta chụm đầu ngón tay lại với nhau trước khi trả lời câu hỏi của tôi. Tôi có cảm giác lão biết rằng những cử chỉ điệu bộ màu mè ấy tôi phát cáu đến mức nào. “Vâng, Ngài quan tòa, tôi có thể nói rằng chúng ta đã có chút ít thành công. Đặc biệt là khi ngài biết rằng những cuộc thẩm vấn tương tự cũng đang được tiến hành ở các nơi khác dọc biên giới, theo cùng phương thức ấy.”

“Vậy thì tốt. Và ngài có thể cho chúng tôi biết liệu có điều gì phải lo sợ không? Chúng tôi có thể yên tâm ngủ mỗi đêm chứ?”

Khóe miệng ông ta hơi nhếch lên thành một cái cười mỉm. Rồi ông ta đứng lên, cúi chào, quay lưng, và rời đi. Sáng sớm hôm sau, cùng vài kẻ tháp tùng, ông ta khởi hành cuộc hành trình dài về hướng đông để trở về thủ đô.

Suốt một khoảng thời gian thử thách, cả ông ta và tôi đều đã kiềm chế để cư xử với nhau như những con người văn minh. Cả cuộc đời tôi đã tin tưởng vào cái gọi là hành xử có văn hóa, tuy nhiên, trong trường hợp này, tôi không thể phủ nhận, ký ức về cách hành xử đó khiến tôi phát ngán chính mình.

Việc đầu tiên tôi làm là viếng thăm các tù nhân. Mở khóa sảnh doanh trại vốn là nơi giam giữ họ, tôi phát tởm vì cái mùi buồn nôn của mồ hôi và phân người, tôi mở toang tất cả cánh cửa. “Đưa chúng ra khỏi đó!”, tôi hét lên với những tên lính cởi trần đang đứng đực ra đó quan sát tôi khi bọn họ ăn cháo. Từ trong bóng tối u ám, những tù nhân hờ hững nhìn về phía tôi. “Tiến vào và chùi rửa căn phòng kia ngay!”, tôi quát lên. “Tôi muốn mọi thứ sạch sẽ! Xà phòng và nước! Tôi muốn căn phòng lại như trước!”. Những tên lính vội vàng làm theo lệnh, nhưng hẳn đám lính đang tự hỏi vì lí do gì tôi lại trút giận lên đầu họ. Bước ra ánh sáng ban ngày, đám tù nhân chớp chớp và lấy tay che mắt lại. Một trong những phụ nữ cần phải có người dìu. Cô ta run lẩy bẩy như một bà già, dù vẫn còn trẻ. Một số khác quá yếu đến nỗi không đứng lên được.

Lần cuối cùng tôi thấy họ là cách đây năm ngày nếu tôi chắc rằng mình đã thấy họ và không hờ hững miễn cưỡng nhìn lướt qua bọn họ. Họ đã chịu đựng những gì trong năm ngày đó, tôi không biết.

Bị những tên lính gác dồn lại một chỗ, họ túm tụm thành một nhóm nhỏ vô vọng trong góc sân, dân du cư và ngư dân đứng cùng với nhau, ốm yếu, đói khát, bị thương, và sợ sệt. Sẽ tốt biết bao nếu chương đoạn tăm tối trong lịch sử thế giới này chấm dứt ngay lập tức, nếu những con người xấu xí tội nghiệp này bị xóa sổ khỏi bề mặt trái đất và chúng ta thề sẽ bắt tay làm nên một khởi đầu mới, để vận hành một Đế chế trong đó không còn sự bất công và nỗi đau nào nữa. Sẽ chẳng tốn kém là bao nếu dồn bọn họ vào sa mạc (trước tiên phải cho họ ăn một bữa, có lẽ vậy, để có thể tiến hành cuộc hành trình), bắt họ dùng chút tàn lực cuối cùng để đào một cái hố đủ lớn cho cả bọn nằm vào (hoặc thậm chí là đào huyệt giùm họ!), và chôn vùi họ ở đó vĩnh viễn, rồi quay trở lại thị trấn nơi có tường bao quanh với những dự định và bước chuyển biến mới mẻ. Nhưng đó sẽ không phải là cách của tôi. Con người mới của Đế chế phải tin tưởng vào những khởi đầu tươi mới, những chương đoạn tân thời và những trang sử sạch sẽ, tôi vật lộn với câu chuyện của quá khứ, với hi vọng trước khi khép lại, nó sẽ tiết lộ lý do vì sao tôi cho rằng quá khứ đó là đáng bận tâm. Như vậy, việc coi quản luật pháp và trật tự trong giai đoạn này đã được chuyển giao lại cho tôi, tôi ra lệnh phải cho tù nhân ăn uống, gọi bác sĩ vào để ra sức giúp họ và doanh trại phải được trả về đúng nghĩa một doanh trại, những việc này phải được thu xếp để giúp tù nhân khôi phục lại cuộc sống trước đây của họ ngay khi có thể, và chu đáo nhất trong khả năng cho phép.