Pháp sư Tế Quần: Tôi có quen một tín đồ Phật giáo, bà ấy đã tiếp xúc một số thượng sư khác nhau, có thượng sư thì bảo bà nên tu theo pháp này, có thượng sư bảo bà không thể tu theo pháp ấy, cuối cùng khiến bà cảm thấy không biết mình nên theo ai. Vậy trong Phật giáo Tây Tạng, người nào có thể tu theo pháp nào, có tiêu chuẩn cụ thể hay không?
Kham bố Sách Đạt Cát: Trước tiên chúng ta phải xác định rõ một nguyên tắc cơ bản, tức là không phải tất cả tín đồ Phật giáo đều đáng tin một trăm phần trăm, vì có một số người gọi là tín đồ Phật giáo nhưng căn bản họ không đi sâu nghiên cứu giáo nghĩa Phật pháp, họ cũng không căn cứ vào những lời chỉ dạy của Đức Phật để tuần tự tu hành một cách thiết thực. Trong suy nghĩ kỳ quặc như mộng ban ngày của những người này, hầu như chỉ cần dựa vào một vị thượng sư là có thể giải quyết tất cả mọi sự việc trên bước đường tu hành. Trong mắt họ, giấc mộng về giải thoát cá nhân, hy vọng vãng sinh, thoát vòng luân hồi, tất cả các sự việc ấy người tu hành phải tự mình cố gắng thực hiện, thì hầu như họ đều giao cho vị thượng sư làm thay. Thực ra, vị Đại thành tựu của xứ Tạng là Hoa Trí Nhân Ba Thiết đã từng nói, thượng sư dù có giỏi giang thế nào cũng không thể đưa bạn đến quốc độ thanh tịnh như ném một hòn đá đến đấy được, mà điều cốt yếu nhất là phải dựa vào nỗ lực tu hành của chính bản thân bạn.
Đối với vị tín đồ không biết mình nên theo ai, thì tôi cho rằng, nếu vị thượng sư ấy nói bà không thể tu theo pháp nào đó thì hầu như có ý nói bản thân bà có thể không đủ căn cơ để tu pháp môn ấy, tức là thiên tư của bà không thể thích ứng với yêu cầu của pháp môn ấy.
Nhưng nhìn chung, một vị thượng sư không nên giới hạn việc đệ tử tu theo pháp nào, không tu theo pháp nào, vì căn cơ của đệ tử có muôn vàn sai khác, chính vì truyền giáo theo đối tượng, theo tư chất của chúng sinh, nên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mới tùy nghi đưa ra tám vạn bốn ngàn pháp môn để cứu độ chúng sinh có căn tính khác nhau. Nếu một người tu hành có đầy đủ căn cơ Đại thừa nhưng lúc ấy sư phụ lại không để anh ta tu pháp môn Đại thừa, thì vị thượng sư ấy đã vi phạm Bồ tát giới.
Không chỉ Phật giáo Tây Tạng mà toàn bộ các giáo phái Phật giáo đều có tiêu chuẩn tu pháp rất nghiêm khắc đối với đệ tử. Khi một người muốn học Phật pháp của Tiểu thừa, chiếu theo yêu cầu của Câu Xá Luận, anh ta phải biết một cách đầy đủ các điều kiện như thiểu dục, ưa thích cõi tịch tĩnh, sẵn sàng có tâm giải thoát… Nhưng một người muốn học Đại thừa Bát nhã Trung Quán thì anh ta phải có đủ một số đặc trưng cơ bản của người có căn cơ Mật thừa hiện ra một cách hình tượng như trong Nhập Trung Luận: “Nếu một người nào khác nghe Không tính, thì trong lòng sinh ra vui vẻ vô cùng, do vui mà dẫn đến nước mắt chảy ròng ròng, chân lông toàn thân tự động dựng đứng. Thân ấy đã có hạt giống của Phật tuệ, tức là có thể tuyên bố chân tính khí, người ấy đáng được nói thắng nghĩa đế, tức là chân đế …”. Còn trong Đại ảo hóa võng tục thì trình bày đặc trưng cơ bản của người có căn cơ Mật thừa như sau: Đệ tử ứng đối điều mà trong Mật pháp đưa ra những kiến giải về bình đẳng tịnh, thanh tịnh, bất nhị và những hành vi thâm hậu cần có đủ lòng tin, hiểu biết kiên định. Ngoài những điểm nêu trên, về yêu cầu căn cơ của đệ tử Mật tông hoàn toàn không có chỗ nào khác biệt so với Hiển tông.
Nhưng trong Mật tông, đối với đệ tử có căn tính chậm lụt và đệ tử có căn tính thiện lương lại được phân biệt một cách rõ ràng. Theo Tôn giả Vô Cấu Quang nói trong Đại Viên Mãn Tâm Tính Hưu Tức Đại Xa Sớ thì đặc trưng của đệ tử có căn tính chậm lụt là: “Đệ tử có ác duyên và nhiều sai trái, không biết xấu hổ và tâm từ bi nhỏ, các hành vi đều thực hiện theo căn tính thấp hèn, vọng tưởng mê lầm độc ác, lẫn lộn thiện ác và làm bạn với phi pháp, vi phạm đạo học và phá bỏ giới luật, không tuân giữ lời thề và không biết sửa chữa sai lầm, trí óc nông cạn khó hiểu biết, tâm sân hận lớn mạnh và nói năng thô lỗ…”. Còn đối với pháp tướng của đệ từ có căn cơ thiện lương thì tôn giả miêu tả: “Đệ tử có thiện duyên và lòng tin to lớn, siêng năng tu pháp và trí tuệ cao rộng, hiểu biết suy nghĩ đúng đắn không buông thả, không vi phạm lời giáo huấn và tuân thủ giới luật, điều hòa ba cửa (tức tam môn gồm: không, vô tướng, vô nguyện) và có tâm từ bi rộng lớn, có lòng khoan dung và không nóng nảy, rộng lượng và có đủ quán thanh tịnh, thành tâm cung kính và luôn luôn ổn định”.
Nói tóm lại, đệ tử muốn cầu pháp nào, chỉ cần bản thân vị ấy chiếu theo các điều kiện như đã khảo sát ở trên để có thể xác nhận căn tính, từ đó thượng sư mới tiếp tục truyền pháp cho vị ấy. Một vị tu hành Phật giáo vĩ đại là Tôn giả A Để Hiệp đã nói như thế này: Đệ tử muốn tu pháp nào thì nên truyền pháp ấy cho họ, điều này sẽ rất có lợi cho người cầu pháp. Do đó, những vị pháp sư khi truyền pháp, điều cần phải suy nghĩ trước tiên là không nên ràng buộc đệ tử vào trong khuôn khổ của tông phái mình, lại càng không nên khuyến khích đệ tử chê bai, từ chối tiếp nhận giáo nghĩa của các giáo phái khác, điều này là vi phạm nguyên ý của Đức Phật khi Ngài khai sáng ra vô lượng pháp môn. Vị Toàn tri Mạch Bành Nhân Ba Thiết của phái Ninh Mã nói rất đúng rằng người tu hành phải nắm vững cơ sở của tông phái mình mà học tập, noi gương, tham khảo những kiến giải của các tông phái khác. Điều này cũng giống như khi chúng ta dựa vào thượng sư, chỉ cần chúng ta có lòng tin vào thượng sư thì dù có dựa vào hàng chục thượng sư cũng đều có thể được. Trong lịch sử Phật giáo Tây Tạng, có rất nhiều vị Đại thành tựu cũng đã tựa vào nhiều vị thượng sư. Ví như Tôn giả A Để Hiệp, theo như người ta nói vị Tôn giả này đã dựa vào hơn 150 vị thượng sư, và trước mặt các vị thượng sư này, ông không cầu cùng một pháp mà nhiều pháp khác nhau. Nhưng nếu mình chỉ có một lòng tin vào một vị thượng sư nào đó thì cũng có thể dựa vào một vị ấy là đủ rồi. Cho nên nói thượng sư truyền pháp không nên lẫn lộn tham muốn cá nhân trong quá trình thu nạp đệ tử, còn đệ tử cũng cần căn cứ điều kiện của bản thân để sáng suốt lựa chọn thượng sư, đồng thời cầu xin thượng sư ban cấp cho mình một pháp môn tu hành thích hợp.
Tóm lại, thượng sư chủ yếu chỉ nên nhìn ra căn cơ của đệ tử, sau đó tùy theo ý nguyện của đệ tử mà truyền những pháp yếu tương ứng.