Pháp sư Tế Quần: Trong Bát chính đạo của Phật giáo, Chính kiến là đứng đầu, điều này đã nói rõ tính chất quan trọng của Chính kiến trong tu hành. Người tu hành trong các tông phái đều có các loại Chính kiến chỉ đạo: như Vô thường kiến và Vô ngã kiến của Thanh văn thừa, Duy thức kiến của tông Duy thức, Tính không kiến của tông Trung Quán. Tu hành Mật tông có hệ thống độc lập và tu pháp bất đồng, vậy trong tri kiến phải chăng cũng có một loại Chính kiến bất đồng nằm ngoài Hiển giáo Đại thừa? Hoặc như nói Chính kiến bất đồng của Mật tông là gì? Nếu cùng Chính kiến với Hiển giáo, làm thế nào thể hiện ra chỗ sai khác của nó trong tu hành?
Kham bố Sách Đạt Cát: Nói chung, gọi là Chính kiến trong Bát chính đạo hoàn toàn không phải chính là cái Chính kiến mà chúng ta cần phải có trước khi tu hành. Trước khi tu ắt phải có Chính kiến, nhưng Chính kiến ấy lại không phải thuộc cùng một phạm trù với Chính kiến trong Bát chính đạo. Trong ba mươi bảy đạo phẩm và năm nẻo đạo vẫn tồn tại mỗi một quan hệ đối ứng: Như tiểu tư lương đạo, trung tư lương đạo, đại tư lương đạo phân biệt đối ứng với tứ niệm trú, tứ chính đoạn, tứ thần túc; noãn vị, đỉnh vị, gia hạnh đạo thì đối ứng cùng với ngũ căn, ngũ lực; còn quán đạo thì đối ứng với thất giác chi; tu đạo thì đối ứng với Bát chính đạo. Do đó, có đủ Chính kiến trong Bát chính đạo ít nhất phải là Bồ tát Sơ địa trở lên mới có đủ công đức. Đối với vị Bồ tát đạt nhất địa trở lên, thì Chính kiến trong tu hành mới bắt đầu tác dụng, quan điểm của Hiển giáo hay Mật tông không có gì sai khác bao nhiêu.
Thanh văn thừa, Duy Thức tông, Trung Quán tông và Mật tông trong dòng mạch của Phật giáo, trong lối kiến giải của mỗi tông phái đều có rất nhiều điều không giống nhau, chính vì những kiến giải bất đồng đó, cho nên về phương pháp tu hành cụ thể của các tông phái mới xuất hiện những đặc trưng vô cùng khác biệt. Đối với Mật tông, nó không chỉ rất coi trọng Chính kiến mà còn có cả tính vượt trội và tính độc đáo, mà chỗ khiến người ta chú tâm nhất là ở bình đẳng kiến và thanh tịnh kiến. Bình đẳng kiến trong Mật pháp và các trọng điểm của không tính kiến mà tông Trung Quán đã chọn lựa hầu như không sai biệt là mấy, nhưng trong thanh tịnh kiến lại khác nhau rất xa. Nói cách khác, về việc chọn pháp giới ly hý (xa rời những điều vui đùa vô bổ), quan điểm giữa Mật tông và Hiển tông cơ bản giống nhau, nhưng về mặt hiện kiến pháp giới hữu cảnh thì có sự khác nhau rất lớn. Đối với khó khăn thực tế này, ba câu năm điều không thể nói hết được, chỉ có lấy nhân duyên đời trước hoặc do nghe pháp, suy tư trong thời gian dài của những người có đầy đủ tín tâm đối với Mật tông mới có thể thực sự lĩnh hội những kiến giải ưu việt của Mật pháp. Nếu nắm vững thanh tịnh kiến của Mật tông, thì những nghi hoặc của nhiều vấn đề khó khăn phức tạp không thể giải đáp được của những người tu hành thuộc phái Hiển tông đều có thể tiêu tan dưới ánh sáng chiếu tỏa của tuệ nhật tối thượng thừa.
Trong thanh tịnh kiến, giáo nghĩa của kinh điển có nói rõ là dựa vào sự quán sát rốt ráo danh - ngôn - lượng để trực tiếp hiểu ra cái lý của vạn pháp thanh tịnh, lý ấy trong kinh Phật của Hiển tông cũng được dùng phương thức không minh hiển để tuyên thuyết, ví như trong kinh Phật có ghi một công án như thế này: Xá Lợi Tử nhìn thấy là chùa không thanh tịnh, nhưng Cụ Kế Phạm Thiên lại nhìn thấy là chùa rất trang nghiêm thanh tịnh. Khi hai người đang tranh cãi không thôi thì Đức Phật nói với họ: Chùa của ta vốn thanh tịnh, chỉ là do Xá Lợi Tử chưa thể lượng tri hiện thực (hiện lượng) để đích thân nhìn thấy mà thôi. Do đó có thể thấy ngôi chùa mà chúng ta cư trú nếu lấy rốt ráo danh - ngôn - lượng để đánh giá thì tuyệt đối nó là thanh tịnh, vô nhiễm. Việc trình bày rõ ràng mà tinh tế có liên quan đến luận điểm này hầu như trong Hiển tông không thấy chỗ nào có, trái lại, “trong một hạt bụi có vô số chùa, mỗi một chùa đều có chư Phật nhiều không thể kể xiết”. Cảnh giới Hoa Nghiêm ấy có thể làm tư liệu tham khảo, noi gương, nhưng trong Mật tông lại lấy phần lớn giáo chứng, lý chứng, ví dụ trình bày rộng rãi những nguyên lý ấy. Lấy bát nước làm ví dụ, chúng sinh thuộc đạo ngạ quỷ nhìn thấy cho là máu, chúng sinh thuộc đạo nhân gian thì nói là nước, người ở Tịnh độ cho là cam lộ… Thế thì điều mà Phật nhìn thấy là gì? Đối với vấn đề gọi là tịnh kiến lượng như đã nêu trên, thì trong Hiển tông hoàn toàn không có phương pháp quán sát tinh tế đầy đủ, chỉ có trong Mật tông mới có thể có được những giải thích rốt ráo nhất liên quan đến đại thanh tịnh và đại quang minh.
Nói rộng hơn, trong Mật tông, những kiến giải có thể hiểu biết của cõi tình thế gian vốn thanh tịnh được gọi là chính kiến của kiến hữu pháp; những kiến giải có thể soi thấy tất cả vạn pháp vô nhị bình đẳng được gọi là chính kiến của kiến pháp tính; những kiến giải có thể biết tất cả các pháp trước khi đơn độc tự chứng đẳng tịnh vô nhị được gọi là chính kiến của kiến tự chứng. Chính kiến đại đẳng tịnh này trong những luận điểm của phái Ninh Mã Ba đều có tuyên giảng những phương pháp quan yếu, người có nhân duyên, nếu có thể đích thân trải nghiệm trong đó thì sẽ có chỗ ổn cố vượt trội khác thường đối với Mật pháp, từ đó sẽ phát sinh lòng tin không gì to lớn bằng, đồng thời cuối cùng sẽ thấu triệt pháp tính chân đế.
Chỗ những kiến giải của Mật pháp cụ thể vượt trội hơn Hiển tông biểu hiện ở bốn điểm, đúng như những gì đã nói trong Tam Tướng Đăng Luận: “Giáo nghĩa của Hiển giáo - Mật giáo là thống nhất như nhau, đồng thời cũng thấu tỏ rõ ràng giống nhau về pháp thế gian và xuất thế gian; về phương diện tu tập không khó khăn, song thiết lập nhiều phép tu phương tiện là vì những bậc nào có lợi căn cực kỳ siêu việt sẽ tu tập Mật chú thừa”. Rõ ràng đây chính là chỗ vượt trội của Mật pháp. Lời tuyên bố này hoàn toàn không phải do quan điểm tông phái hẹp hòi tự khen mình, đây chỉ muốn đưa ra một sự thật cơ bản mà thôi. Cũng như trong Hiển tông, nét đặc sắc của Thiền tông rất cao nhã, phóng khoáng khác xa với phàm tục, họ chỉ tiếp nhận truyền dạy trong số những người có lợi căn thượng trí, và một loạt những vị thượng căn ấy qua việc truyền dạy bằng giáo pháp nghiêm khắc, mãnh liệt, họ đã trổ hết tài năng, đạt đến tuyệt đỉnh vạn pháp. Chính như Lục Tổ Đàn Kinh đã nói: “Pháp môn này là tối thượng thừa, nói giảng cho những người đại trí, những người thượng căn”. Nếu như nói Đại sư Huệ Năng tuyên bố những kiến giải trong Thiền tông vượt trội hơn những đặc trưng cơ bản của các tông phái khác thì ở đây điều chúng tôi muốn nhấn mạnh cũng dựa trên cách lý giải tương đồng - theo Hiển tông thì núi này cao còn có núi khác cao hơn, vậy không còn nghi ngờ gì nữa, rõ ràng Mật tông ở trên điểm cao của các chế định Phật pháp.
Về những kiến giải bất đồng chỉ Mật pháp mới có thì còn rất nhiều, nhưng đẳng tịnh vô nhị là Chính kiến thù thắng chính yếu nhất; đối với vấn đề này, Mạch Bành Nhân Ba Thiết trong Đại Huyễn Hóa Võng Tổng Thuyết Quang Minh Tạng Luận đã trình bày một cách sâu sắc, thấu đáo. Dù Mật pháp có những kiến giải cao xa nhất, nhưng vẫn có thứ lớp phát khởi, thứ lớp viên mãn… rất là hiếm thấy, có thể khiến cho người tu hành nhanh chóng chứng ngộ, nhưng đối với nhân cách, hành vi hằng ngày của người tu hành, Mật pháp lại có những yêu cầu vô cùng nghiêm khắc. Chính như Đại sư Liên Hoa Sinh đã nói: “Thế nên tri kiến phải cao rộng như trời cao, việc nắm giữ hay xả bỏ nhân quả phải tính toán kỹ càng”. Mật tông tuyệt đối không thể ca tụng những người tu hành đem ngôi nhà đồ sộ của mình xây dựng trên một nền đất gãy nứt được, điều này cũng giống như quan điểm của những vị đại đức Thiền tông không bàn mà hợp. Thiền sư Dược Sơn đã nói: “Núi cao cao đỉnh dựng, biển sâu sâu đáy trời”. Thiền sư Quy Sơn cũng nói: “Cảnh giới chân như vô tướng, không dính hạt bụi; trong cửa vạn hạnh, không bỏ pháp nào”. Những điều này nói rõ rằng những vị tiên hiền cả Hán lẫn Tạng đời trước đều có tầm nhìn cao rộng, sâu sắc trong việc xử lý mối quan hệ giữa cao kiến và tu hành.
Nói một cách tổng quát, chính vì những kiến giải của Mật tông và Hiển tông không hoàn toàn giống nhau, nên trong Mật tông mới có nhiều những phép tu khác nhau mà trong Hiển tông còn thiếu sót. Dựa vào căn cơ không giống nhau của những người không giống nhau, mà Mật pháp khai thị ra nhiều tầng thứ như ngoại, nội, mật và cực mật. Đối với người có lợi căn thì vị ấy có thể trực tiếp tiến sâu vào cực mật; đối với người bình thường, họ chỉ tiếp cận những hàm nghĩa ngoại tại, như vậy cũng đã đạt được những lợi lạc tột cùng rồi. Nói ra những vấn đề có liên quan này, những ai có hứng thú đều có thể đi vào con đường của Mật tông, ở đấy có những phân tích vô cùng tinh tế chắc chắn sẽ khiến cho bạn cảm thấy có nhiều chủng loại, có nhiều cảnh trí thần tiên.
Đối với cá nhân tôi mà nói, tôi vẫn thích nghiên cứu những quan niệm của các tông phái khác như Duy Thức, Trung Quán, Thiền tông… Thực tiễn văn tu tư trong nhiều năm trở lại đây đã khiến tôi càng ngày càng nhận thấy đặc trưng của vạn pháp đều quy về một và tinh thần viên dung bất nhị. Nếu như nói trăm ngàn sông lớn sông nhỏ đều chảy về biển cả thì đương nhiên từ trong thâm tâm tôi mong muốn những nhân sĩ trí thức đã đi vào con đường Phật pháp đều có thể dùng các loại nhân duyên tối hậu cùng hướng về Vô thượng Kim cương thừa.
Đứng trên quan điểm của tông Trung Quán Đại thừa nhìn lại con đường tu pháp của Thanh văn thừa, chúng ta có thể nhận ra, thực sự tất cả những giáo pháp của Thanh văn thừa đều có thể quy về giáo nghĩa của Trung Quán Đại thừa, nhưng Trung Quán kiến lại tuyệt đối không thể được Thanh văn thừa kiến tiếp nạp. Cùng với cái lý ấy, thì tất cả kiến giải của Đại thừa Hiển tông đều có thể được Mật tông tiếp nhận, nhưng Mật tông lại không thể được Hiển tông bao dung. Nhưng chỗ liên quan đến kiến giải và tu pháp không giống nhau của Mật tông đối với Hiển tông vẫn còn rất nhiều, viết lên những tác phẩm về vấn đề này cũng không thể liệt kê ra hết được. Đã như vậy thì hãy để chúng ta lấy lòng thành ham hiểu biết và cái tâm thanh tịnh mà dần dần tiếp cận với cánh cổng rộng mở của Mật pháp vậy.