Pháp sư Tế Quần: Ở xứ khác, đối với Phật giáo Tây Tạng có hai thái độ khác nhau rõ ràng. Trong giới học thuật, đối với Phật giáo Tây Tạng, đặc biệt là Mật tông, cơ bản có thái độ phủ nhận, họ cho rằng đó là thứ Phật giáo không thuần chính. Như trong những tác phẩm của Pháp sư Ấn Thuận, Pháp sư Thánh Nghiêm đều có nội dung liên quan đến vấn đề này. Nhưng dân chúng bình thường theo sự ngưỡng vọng về vùng đất thần bí của xứ Tây Tạng, đối với Mật tông, họ vô cùng sùng bái, chỉ cần bất kỳ một vị Lạt ma nào đến từ Tây Tạng, họ đều xem như vị Bồ tát để được sùng bái. Trên thực tế, đối với hai thái độ như vậy tôi đều không tán thành. Điều tôi muốn thỉnh giáo Kham bố là Phật giáo Tây Tạng có phải như những gì mà giới học thuật nói hay không, bao gồm cả những tư tưởng của Ấn Độ giáo và đạo Bon? Hoặc nói phải chăng Phật giáo Tây Tạng là Phật giáo thuần chính? Phải chăng tất cả pháp môn, tất cả giáo nghĩa của nó đều có nguồn gốc truyền thừa từ Đức Phật và qua các đời đại đức tổ sư, và căn bản không bao hàm bất cứ tư tưởng nào khác?
Kham bố Sách Đạt Cát: Trước tiên cần nói một điều, một số người trong giới học thuật căn bản có thái độ phủ nhận đối với Phật giáo Tây Tạng, kể cả Pháp sư Ấn Thuận và Pháp sư Thánh Nghiêm, trong các tác phẩm liên quan đến Mật Tạng mà họ đã soạn, họ đã đưa ra những lời chê trách, hàng loạt những cách nghĩ, những luận điểm, và cả những hành vi như vậy đều xuất phát từ sự chưa hiểu biết đầy đủ về Mật pháp dẫn đến những nhận định phiến diện. Họ phủ nhận Mật tông một cách thiếu thận trọng, dù trên giáo chứng hay trên lý chứng họ đều không đứng vững. Ví như những gì Pháp sư Thánh Nghiêm viết trong Ấn Độ Phật Giáo Sử, có đoạn nói: “Kinh Đại Nhật là cơ sở xây dựng lý luận của Mật giáo, nhưng lại lấy ra từ Kinh Kim Cương Đỉnh, tức là đưa thứ lý luận này vào đời sống thực tế. Tất cả đều trở thành kết quả của ‘tức sự nhi chân’, ‘sự sự vô ngại’, các hiện tượng dâm, nộ, si thì cho là đạo Niết bàn rốt ráo. Điều này về mặt lý luận Mật giáo có thể thông qua, về Phật vị rốt ráo cũng chính xác, trong thế giới phàm phu hiện thực lại chưa chắc cái chân có thể ‘tức sự nhi chân’. Nguyên nhân sự lạm dụng của Mật giáo tà đạo đều do sự lẫn lộn phàm thánh mà dẫn đến nhân quả đảo ngược!”
Nếu Pháp sư Thánh Nghiêm lấy “hiện tượng dâm, nộ, si cho là đạo Niết bàn cứu cánh” làm nguyên do thì đó là lời chỉ trích rất nặng nề đối với Mật pháp. Vậy các kinh điển trong Hiển tông như Kinh Viên Giác cứu cánh e cũng bị Pháp sư phê phán là Hiển tông tà đạo chăng. Bởi vì câu nói thành công thức như “phiền não tức Bồ đề” hoàn toàn không phải là Mật tông độc chiếm, mà trong rất nhiều kinh luận Hiển tông cũng đã thể hiện tư tưởng tương tự như vậy, như Kinh Viên Giác nói: “Hỡi các thiện nam! Tất cả mọi chướng ngại tức là cứu cánh giác1; được niệm mất niệm cũng là giải thoát; đạt pháp phá pháp đều gọi là Niết bàn; trí tuệ ngu si xem là Bát nhã; Bồ tát ngoại đạo đều thành Phật pháp, cũng là Bồ đề; vô minh chân như không khác cảnh giới; các thứ giới định tuệ cùng với dâm nộ si đều là Phạm hạnh; chúng sinh mọi nơi cùng một pháp tính; địa ngục thiên đường đều là Tịnh độ; hữu tính vô tính cùng thành đạo Phật; tất cả phiền não cuối cùng giải thoát; biển tuệ pháp giới soi khắp mọi tướng, cũng như hư không, danh xưng Như Lai này tùy theo giác tính”.
1 Cứu cánh giác 究竟覺: Là một trong bốn Giác theo thuyết của Khởi Tín luận 起信 論, tức chỉ Bồ tát đạt đến giác ngộ rốt ráo, tức đạt đến ngôi vị Phật.
Ví như sự phê phán của Pháp sư Thánh Nghiêm và Pháp sư Ấn Thuận đối với Mật tông và kể cả đối với các giáo phái Hiển tông càng tỏ ra thái quá.
Pháp sư Ấn Thuận luôn chủ trương trở về với Đại thừa Ấn Độ, đối với các tông phái có tính chất Trung Quốc hóa như Thiên Thai tông, Hiền Thủ tông, Thiền tông… ông có quan điểm thiên lệch, cho là khẩu hiệu “chân thường duy tâm luận” tuy có nguồn gốc từ một thứ kinh điển Đại thừa, nhưng “phương tiện dung nhiếp thế tục vừa nhiều lại vừa gần với đạo Bà la môn”, Phật giáo là sản phẩm chịu ảnh hưởng “Phạm Ngã nhất như luận” của đạo Bà la môn, và không phải thuần chính Phật pháp. Ông còn lấy phương pháp nghiên cứu học thuật bằng lối khảo chứng hóa đối với tư tưởng chỉ đạo của các tông phái ấy để phê phán Mật pháp trong một văn bản có tựa đề là Mật giáo chi hưng dữ Phật giáo chi diệt (Sự hưng vượng của Mật giáo và sự diệt vong của Phật giáo). Ông gọi Mật pháp là “do sùng bái quỷ thần mà đạt đến cứu cánh”, chỉ thừa nhận phép tu song thân của Mật giáo, cực đoan tôn trọng thượng sư là có nguồn gốc từ đạo Bà la môn, đồng thời chế giễu phép tu tự quán là Phật của Mật giáo là “chẳng khác nào kẻ ăn xin mà nhận bừa là quốc vương”. Ông còn tiến một bước nữa mà “giận dữ bài xích” Mật giáo là “thực hành thì dâm ô mê tín, bỉ ổi tồi tệ quá mức, có thể nói là vô ích đối với thân tâm, vô ích đối với dân tộc, theo bản nghĩa giới luật của Phật giáo, hầu như không chỗ nào là không đi ngược lại với Phật giáo”…
Theo những điều trưng dẫn trên đây, hầu như tôi có cảm giác là Pháp sư Ấn Thuận tự cho mình là Phật giáo chính thống, mà đối với Mật pháp dường như muốn bác bỏ.
Mọi người đều biết, muốn hiểu Mật pháp, muốn đánh giá Mật pháp cần phải thật sự xâm nhập vào Mật pháp. Nếu ngay cả giáo nghĩa của bất cứ một giáo phái nào của Mật tông cũng không học tập nghiên cứu một cách hoàn chỉnh và có hệ thống, đồng thời cũng không được truyền thừa pháp thanh tịnh của bất cứ một giáo phái nào, lại không được dẫn dắt bằng những lý luận Mật pháp để tiến hành thực tu dưới sự chỉ đạo của thượng sư đầy đủ đức hạnh, thì với tiền đề như vậy lại đi tìm hiểu nghiên cứu, thậm chí còn đưa ra nghi vấn, sẽ dẫn đến nhiều hiểu lầm đối với Mật giáo. Ví như có người muốn nghiên cứu những đặc trưng cơ bản của Phật giáo xứ khác, nhưng bản thân anh ta không biết qua lấy một chữ Hán, lại chưa từng tiếp xúc với giới nhân sĩ trí thức của Phật giáo xứ khác, không thâm nhập vào các pháp môn của Hiển tông để đích thân tu học một lần nào; trong khi đó anh ta chỉ căn cứ vào một số tài liệu trong sách vở hoặc những thứ gọi là nguyên lý khảo chứng học, rồi cộng thêm với cái niệm phân biệt của cá nhân, sau mấy ngày nghiên cứu trên cơ sở như vậy, người ấy quả quyết tuyên bố, Phật pháp của Hiển tông là bàng môn tả đạo, không phù hợp với giáo nghĩa của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, hoàn toàn xa rời giáo lý do đích thân Đức Phật truyền dạy. Vậy khi đối mặt với luận điệu ấy, một tín đồ Phật giáo bình thường nhưng có đầy đủ chính tín nên đối phó như thế nào? Xem đó như là một thứ thành quả nghiên cứu Phật học khoa học hóa, hay là hiểu nó như một một người không đủ chính kiến nói trong mơ mà buông lời cười cợt chăng? Tôi nghĩ lời giải đáp nên là không nói mà chỉ hiểu ngầm thôi, cho nên ở đây tôi không muốn dùng bút mực đả phá mọi luận điểm của những người không hiểu rõ về Mật giáo, bởi vì họ quả là chưa hiểu rõ giáo nghĩa cơ bản của Phật giáo Tây Tạng, cũng như những bí quyết thực tu và lịch sử truyền thừa. Nếu Mật pháp có thể công khai như một tài liệu học thuật, để cho mọi người nắm vững toàn bộ thì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã không dùng ba hình thức chuyển pháp luân - Tam chuyển pháp luân1, và cũng không dùng sự phân biệt Hiển - Mật, Tiểu thừa - Đại thừa.
1 Tam chuyển pháp luân 三轉法輪: Ba lần chuyển pháp luân. Trong lần giảng cho hàng Thanh văn về Tứ đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo, Đức Phật giảng ba lần chuyển pháp luân. 1. Thị chuyển 示轉: Chuyển pháp luân bằng cách nêu rõ tứ đế, tức chỉ ra đây là khổ, là tập, là diệt, là đạo, tức là bốn tướng của tứ đế (bốn chân lý). 2. Khuyến chuyển 勸轉: Chuyển pháp luân bằng cách khuyên tu tứ đế, tức khổ nên biết, tập nên đoạn, diệt nên chứng, đạo nên tu. 3. Chứng chuyển 證轉: Chuyển pháp luân bằng cách nêu lên chứng nghiệm thực tế, tức là khổ ta đã biết, tập ta đã đoạn, diệt ta đã chứng, đạo ta đã tu, tức là Phật tự nêu mình ra để làm chứng. Trong ba lần chuyển này những bậc thượng căn ngộ đạo ngay trong lần Thị chuyển, những bậc trung căn đến lần Khuyến chuyển, còn những bậc hạ căn thì nhờ đến lần Chứng chuyển. Vì cả ba hạng đều được ngộ đạo.
Còn có một điểm nữa là khi đối xử với một thứ luận thuyết “Mật pháp tà đạo” nào cũng cần phải nắm thật chắc các luận thuyết ấy, tức là khi chúng ta phê phán một sự việc thật giả, tốt xấu, chỗ dựa cuối cùng không phải là khảo chứng, cũng không phải là tài liệu lịch sử mà là giáo chứng và lý chứng về Phật giáo. Những lời chân thực của Phật, Bồ tát có sẵn sức mạnh của chân lý đích thực, và những giáo chứng, lý chứng đầy đủ lý lẽ hợp lý chặt chẽ, đó mới là căn cứ duy nhất để đưa ra quyết định cuối cùng. Nếu lấy tiêu chuẩn ấy để đánh giá những lời nghị luận của hai vị pháp sư, tôi nghĩ chắc chắn mọi người sẽ thất vọng vô cùng. Trong lối hành văn của họ, khuyết điểm đâu đâu cũng có, nay xin đưa ra một ví dụ để quý vị thấy. Hai người họ hầu như đều cho rằng giữa sự hưng thịnh của Mật pháp và sự suy vong của Phật giáo có tồn tại mối quan hệ nhân quả tất yếu, đã như vậy thì người ta có thể hỏi trong lịch sử Ấn Độ đã trải qua ba cuộc vận động diệt Phật giáo, trong lịch sử Phật giáo Tây Tạng, ở xứ Tạng trước và sau thời kỳ hoằng dương cũng đã có một thời kỳ đen tối, còn ở xứ khác Phật giáo cũng không tránh khỏi kiếp nạn hủy Phật diệt giáo, điều mà lịch sử gọi là Tam Vũ nhất Tông1. Trong những hành động có ý đồ hủy diệt Phật giáo ấy có lần nào vì sự hưng thịnh của Mật pháp đưa đến không? Nếu nói mấy vị pháp sư này rất sành về khảo chứng, vậy thật sự mong rằng những vị ấy có thể tìm ra một kết luận không tự mâu thuẫn với quan điểm của chính mình!
1 Tam Vũ nhất Tông 三武一宗: Tức chỉ bốn lần pháp nạn nghiêm trọng nhất trong lịch sử Phật giáo Trung Hoa. Nạn tam Vũ gồm: 1. Thái Vũ Đế nhà Bắc Ngụy: Vua nghe theo bọn Thôi Hạo và Đạo sĩ Khấu Khiêm Chi áp bức Phật giáo. Năm Thái Bình Chân Quân thứ 7 (446), các sa môn ở thành Trường An bị giết sạch, tất cả kinh sách và tranh tượng Phật đều bị phá hủy, Phật giáo ở Bắc Ngụy lúc đó bị hủy diệt hoàn toàn. Đến khi vua Văn Thành Đế lên ngôi, Phật giáo mới phục hưng. 2. Vũ Đế nhà Bắc Chu: Vua nghe lời của các đạo sĩ Trương Tân và Vệ Nguyên Tung, có ý phế bỏ Phật giáo. Đến năm Kiến Đức thứ 2 (573), vua ra lệnh phế bỏ Phật giáo và Đạo giáo, hủy hoại kinh điển và tượng Phật, đồng thời, bắt sa môn, đạo sĩ phải hoàn tục. Năm Kiến Đức thứ 6 (577), Bắc Chu diệt Bắc Tề, lúc ấy tuy có Ngài Tuệ Viễn nhiều lần biện hộ, nhưng Vũ Đế vẫn thi hành chính sách bài Phật ở Bắc Tề. Năm sau, vua băng, Phật giáo và Đạo giáo mới được phục hưng. 3. Vũ Tông nhà Đường: Vua nghe theo nhóm người chủ trương chính sách bài Phật, đứng đầu là Tể tướng Lý Đức Dụ, vào năm Hội Xương thứ 5 (845), vua ban lệnh chỉ giữ lại một số chùa và 30 vị tăng, còn lại bao nhiêu chùa viện đều bị phá bỏ và tăng ni phải hoàn tục, các tượng Phật và chuông, khánh bằng đồng được dùng vào việc đúc thành tiền và công cụ... lịch sử gọi biến cố này là Hội Xương Pháp nạn. 4. Thế Tông nhà Hậu Đường: Năm Hiển Đức thứ 2 (955), vua thi hành chính sách bài Phật, hạ lệnh phá bỏ các chùa viện trong nước, tịch thu các tượng Phật, chuông, khánh và tất cả pháp khí bằng đồng để đúc tiền, còn bằng các chất liệu khác thì đập phá hết! Trong bốn lần pháp nạn nói trên, nguyên nhân của hai lần trước chủ yếu là về tư tưởng, còn hai lần sau là vì lý do kinh tế. Phật Tổ thống kỷ quyển 42 của Ngài Chí Bàn đời Tống gọi đó là “Tứ Đại Pháp nạn”, hoặc “Tam Vũ nhất Tông chi nạn”.
Sự khác biệt lớn nhất giữa việc nghiên cứu Phật pháp mang tính học thuật với chính tín văn tư tu là ở chỗ đó, một bên thì xem Phật pháp như là học thuật thuần túy, còn một bên thì thực hiện việc tu hành đạt được Phật quả trên cơ sở tín ngưỡng kiên định, không thay đổi. Xưa nay nếu đối với Phật pháp mà không xem đó như là sinh mệnh của mình, không nguyện đem sinh mệnh ấy để bảo chứng cho lòng tin, lòng kiên định thì tiêu chuẩn quyết định của độ tin tưởng Phật pháp e chỉ còn là tài liệu và khảo chứng cộng thêm với ý thức tư duy của bản thân mà thôi. Nhưng vì nguyên nhân lịch sử, những kinh điển Phật pháp bằng tiếng Tạng được dịch ra tiếng Hán vốn còn quá ít ỏi, những phần liên quan đến Mật pháp, đặc biệt là pháp tu Vô thượng Du già lại càng quá xa lạ đối với tuyệt đại đa số người Hán. Trong tình hình này, những ai muốn tìm tòi khảo cứu đều không thể có được tư liệu hoàn chỉnh và có thẩm quyền. Như vậy, nếu còn muốn kết luận khinh nhờn đối với Mật pháp thì sẽ có sự oán hiềm về việc tùy tiện báng bổ. Muốn để mọi người hiểu rõ, trong tất cả mọi tội lỗi, tội báng bổ, tội xa lìa pháp là nghiêm trọng nhất, và cũng là đáng sợ nhất. Trong Bát Nhã Bát Thiên Tụng có nói: “Tu Bồ Đề! Nghiệp báng bổ chính pháp nhiều lần bị đọa vào nẻo ác chuyển sinh thành chúng sinh có tà kiến và phải ở trong vô gián đại địa ngục chịu khổ, mãi đến thời hỏa hoại kiếp xuất hiện mới chuyển sinh vào các đại địa ngục của thế gian, đến thời hỏa hoại kiếp cũng còn tiếp tục…”. Kinh Tịch Diệt Huyễn Hóa nói: “Dù trải qua vô số kiếp, thân dài đến 500 do tuần, đầu cũng dài đến 500 do tuần, trên mỗi đầu có ít nhất cũng 500 cái lưỡi, trên mỗi cái lưỡi người ta cày bừa không dưới 500 người, mà canh tác dưới sức nóng bừng bừng, đó là tội nghiệt của sự báng bổ Phật pháp”. Trong Kinh Bảo Tích thì tuyên bố rõ ràng chính xác là tư duy ý thức của phàm phu không đáng tin, chính vì trong kinh có nói rõ bằng giấy trắng mực đen rằng những niệm phân biệt của phàm phu không thể làm chỗ dựa được, cho nên khi nói năng, hành động, chúng ta phải nghiêm túc bảo vệ bản môn, nhằm đề phòng thân, khẩu, ý, hoặc do vô ý, hoặc do thiện ý thôi thúc mà khi thể hiện ra lại có thể dẫn đến hàng loạt những hành vi ác quả. Điều này hoàn toàn không phải Đức Phật không có lòng từ bi, hoặc Phật pháp đe dọa chúng ta mà là bản thân nhân quả vốn vừa nghiêm khắc vừa công bằng. Đức Phật vì quá giàu lòng từ bi thương cảm nên mới chỉ rõ cho chúng ta: “Này Ca Diếp! Ta và những đồng đạo của ta có thể biết rõ các pháp và các nẻo luân hồi, phàm phu không hiểu rõ các pháp và các nẻo luân hồi”. Chính vì vậy, nên ngoài việc dựa vào giáo chứng và lý chứng ra, tốt nhất là chúng ta không nên bình luận xằng bậy gì thêm nữa. Nhưng nếu muốn thấu suốt giáo chứng, lý chứng, thì tín tâm không thể thiếu khuyết hoặc không thể không có. Đúng là ở điểm này, chúng ta cần vạch ra giới hạn cho chính mình và cho các học giả. Ngay cả giáo chứng có thể cũng không dễ dàng tán đồng, cho rằng điều gọi là giáo chứng cũng không như suy nghĩ của chính họ để được chính xác, đáng tin; nhưng bản lĩnh giáo chứng của những người này lại càng không dễ khiến người ta cung kính, ngay cả cơ sở lý luận Phật học họ cũng không có, cho nên mọi lập luận lý chứng của họ đều ở trong tình trạng không hợp nguyên tắc và chỉ tùy tiện triển khai. Nhưng có thể họ cảm thấy đắc ý do họ có một số tư liệu khổng lồ, do họ đã đưa ra được nhiều dẫn chứng, đã phát hiện điểm lóe sáng của khối giấy cổ xưa. Tiến hành nghiên cứu Phật giáo mà lại không hành sự theo nguyên tắc của Phật giáo, không theo luận chứng logic của Phật giáo, không theo phép diễn dịch giáo chứng của Phật giáo, không theo lối thực tu thứ tự từ thấp đến cao, không dựa vào hạnh diệt dục của các cao tăng đại đức thuộc tông phái mà mình nghiên cứu, tác phong nghiên cứu như vậy quả là không giống những gì phải làm của tín đồ Phật giáo.
Tiện đây lại xin nêu lên một câu, Pháp sư Ấn Thuận cho rằng tự mình tu theo Mật pháp Trung Quán là phép tu của Đức Phật “không khác gì kẻ ăn xin mà nhận bừa là quốc vương”, đối với việc này, chúng tôi chỉ có thể nói một lời với Pháp sư Ấn Thuận là quá đỗi kinh ngạc. Bởi vì khi Đức Phật chuyển pháp luân lần thứ ba, điều tuyên giảng chính yếu là Như Lai tạng và quan điểm liễu nghĩa Phật tính vốn sẵn của chúng sinh. Nếu không dám gánh vác Như Lai tạng vạn đức trang nghiêm có sẵn của chính mình, mà trái lại cho rằng đó là vọng tưởng, vọng niệm của chúng sinh, vậy há đó chẳng phải là ngay cả việc chuyển pháp luân lần thứ ba cũng bị phủ nhận toàn bộ sao? Huống hồ trong pháp tu Cứu cánh quán của Mật tông, tất cả mọi quán tưởng hữu tướng thực ra đều cùng một thể không hai với Không tính kiến, điều này cùng với quan điểm xem kẻ ăn mày và quốc vương là hai cá thể thực tại tồn tại tuyệt đối, há có thể so sánh được với nhau chăng?
Ở Đại lục, nhiều người đều cho rằng Pháp sư Ấn Thuận và Pháp sư Thánh Nghiêm có nhiều cống hiến cho Phật giáo, như viết soạn nhiều tác phẩm, là Thái Sơn, Bắc Đẩu của giới Phật giáo, nhiều tín đồ Phật giáo khắp nơi trong và ngoài nước thường đọc tập san, báo chí đều có lời ca ngợi. Đối với vấn đề này, tôi hoàn toàn không loại trừ họ có thể làm được nhiều việc cống hiến cho Phật pháp, nhưng đồng thời tôi cũng muốn chỉ ra một sự thật cơ bản: Từ những tác phẩm của họ có thể nhận thấy, kiến thức thông thường về nền tảng Mật pháp của họ không được đầy đủ, đã vậy làm sao có thể luận bàn được những mật ý rất thâm áo của Mật pháp? Trái lại rõ ràng và dễ thấy nhất là họ đều nói xấu pháp môn thù thắng của Mật tông vốn cùng thuộc hệ Đại thừa với họ. Ở thời điểm quan trọng giữa sinh và tử, bạn có dễ dàng vượt qua nó (tức vượt qua dòng sông sinh tử) bằng tờ giấy thông hành với số chữ tám vạn chữ hay tám trăm vạn chữ được sao?
Rất nhiều Phật học viện ở xứ khác đều dùng những tác phẩm của họ như Ấn Độ Phật Giáo Sử làm tài liệu giảng dạy, có cùng tên với môn học, rất nhiều người tu học đối với những quan điểm được trình bày trong đó lại không “tìm tòi nghiên cứu” qua một điểm nào cả, chỉ đơn thuần theo đó mà tiếp thu, điều này quả là khiến người ta có một thứ cảm giác vô cùng đáng tiếc. Vốn muốn cầu mong người đời đến với chân lý, ai ngờ vì tuệ căn chưa đủ, không biện biệt đúng sai, để dẫn đến trường hợp người ta nói gì cũng nói theo như thế, và trong mơ mơ hồ hồ ấy sẽ tạo ra hàng loạt tội nghiệp báng bổ đạo pháp, quả đúng là đáng than đáng xót. Chính vì thanh danh của các vị Pháp sư như Ấn Thuận quá lớn trong giới Phật học, nên một số người trong giới học thuật cứ việc tiếp nạp tất cả các quan điểm của họ một cách không phải tốn công thẩm định, phân biện, kể cả những ý kiến sai lầm của họ đối với Mật pháp cũng được các đồng nghiệp của giới học thuật nể trọng. Về điểm này, chúng ta phải luôn luôn giữ đầu óc sáng suốt, vì phân biệt một quan điểm, một ý kiến có giá trị hay không, không nên nghe theo sự đề xuất của người có danh vọng đánh giá, thẩm định về điều đó mà phải dùng giáo chứng, lý chứng và thái độ tu học hợp nhất, phương pháp chứng nghiệm tự thân.
Chính vì danh vọng của họ đưa đẩy, nên trong một quyển sách có tên là Nhị thập thế kỷ Trung Quốc Phật giáo, mà Trần Binh và Đặng Tử Mỹ đã chịu ảnh hưởng mà viết những câu văn dưới đây tỏ rõ quan điểm của hai người đối với những lời bình giá của Pháp sư Ấn Thuận và đưa ra ý kiến của mình đối với Mật tông: “Cách dùng từ tuy không cực đoan, nhưng hoàn toàn không có căn cứ. Về nguồn mạch của pháp, Mật giáo, đặc biệt là tu pháp Vô thượng Du già của Mật tông Tây Tạng, nhiều chỗ nói là không phải Đức Phật Thích Ca Mâu Ni truyền dạy, về pháp hệ Đại Viên mãn thì nói là nguồn mạch của nó xuất phát từ Nguyên thủy Pháp thân Phổ Hiền Vương Như Lai (Phật A Đạt Nhĩ Mã), pháp hệ Đại Thủ ấn thì lấy Bản sơ Phật Kim Cương Đại trì làm Pháp chủ, Phật nguyên thủy, Phật bản sơ không những không trưng dẫn từ trong lịch sử, tức có gốc gác ở các điển tịch Phật giáo Đại thừa, cũng lại không có xuất xứ. Xa rời sự truyền thừa của nhân vật lịch sử Thích Ca Mâu Ni Phật - nguồn gốc của Phật giáo, như vậy khó tránh khỏi làm hạ thấp tính quyền uy, tính đáng tin của Mật pháp, và trở thành chướng ngại cho việc truyền bá rộng rãi”.
Dù chỉ có mấy câu ngắn gọn, nhưng điều xuyên suốt trong đó vẫn là khuynh hướng tư tưởng khảo chứng học và học thuật hóa Phật học của Pháp sư Ấn Thuận truyền cùng một mạch lộ rõ rành rành. Trong suy đoán của hai tác giả thực sự còn có nhiều chỗ sai lầm, nhưng vì tuân thủ nguyên tắc bảo mật của Mật pháp, nên ở đây chỉ chọn những điều có thể công khai trình bày sơ lược các sai lầm ấy mà thôi.
Trên thực tế, trong tám vạn bốn ngàn pháp môn của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra, có hai vạn một ngàn pháp môn là kinh điển của Thế Tôn tuyên giảng nhằm dứt trừ tâm tham lam của chúng sinh; hai vạn một ngàn pháp môn là điển luật của Thế Tôn tuyên giảng nhằm dứt trừ tâm sân hận của chúng sinh; hai vạn một ngàn pháp môn là luận điển của Thế Tôn tuyên giảng nhằm dứt trừ tâm ngu si của chúng sinh; còn hai vạn một ngàn pháp môn là kinh luận Mật tông nhằm dứt trừ vô số tập khí của chúng sinh mà Thế Tôn tuyên giảng. Tám vạn bốn ngàn pháp môn như là sự tổng hợp tất cả thành một chuỗi đan xen mà mạch lạc, thứ tự tương tiếp, tầng tầng thôi thúc một cách có hệ thống, nếu đưa tất cả hai vạn một ngàn pháp môn của Mật pháp ra ngoài hệ thống chỉnh thể của Phật pháp thì tính hoàn chỉnh của Phật pháp sẽ bị phá hoại tận gốc rễ, Phật giáo sẽ bị người ta chia cắt thành muôn mảnh. Thực ra, trong các kinh điển Tục bộ như Thời Luân Kim Cương, Văn Thù Chân Thực Danh Kinh, Mật Tập Kim Cương, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã đích thân tuyên giảng đó đều là Mật pháp, và một bộ phận có nội dung Mật pháp khác nữa thì căn cứ vào những ghi chép trong các Kinh Giáo Vương Kinh, Mật Ý Hội Tập Kinh, hai mươi tám năm sau, khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập Niết bàn, từ đó Mật pháp sẽ được hoằng dương rộng rãi. Kinh Đông Ba Long Đan Bi nói: “Tất cả ba thừa đều cứu độ chúng sinh, Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói, nhân quả nhậm vận đặc biệt thừa, không nên trở lại cầu ở chỗ khác”. Tại sao không nói đến Thắng nghĩa thừa? Trước đây từng có người đã thỉnh thị Thế Tôn, Phật đáp rằng: “Nhân thừa Bát nhã tất cả pháp, hoằng dương cần chuyển pháp luân, Kim cương thừa đi liền với đạo, thời vận nhân duyên sắp đến gần”. Đức Phật đã dùng bài kệ ấy để trả lời, cho nên sau hai mươi tám năm Phật diệt độ có năm vị là Thiên Chi Trì Minh Tra Đỉnh Sơ Trung, Long Vương Trì Minh Tả Ba, Dược Thoa Trì Minh Tinh Tiễn Diện, La Sát Trì Minh La Tước Tha Đinh, và Nhân Chi Trì Minh Lại Tra Bi Thánh giả đều hiển hiện. Còn trong Kinh Hà Thủy Du Vũ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn đích thân nói rằng sau tám năm Ngài nhập Niết bàn, có Đại sư Liên Hoa Sinh xuất thế hoằng dương Mật pháp; trong Văn Thù Căn Bản Tục thì ghi có sự xuất thế của luận sư Tĩnh Mệnh; ngoài ra còn có các vị đại sư như Tông Khách Ba đều được ghi chép trong hầu hết các kinh điển Phật giáo. Vì vậy về Mật pháp, về các đại sư Mật tông, chúng ta làm sao có thể chỉ dùng mấy chữ “hư cấu bịa đặt” đơn giản mà tùy tiện phủ nhận tất cả được.
Ngoài ra, chúng tôi cần làm rõ một điểm, Đức Phật đối với chúng sinh cần giáo hóa có căn cơ khác nhau thì phương thức truyền pháp cũng khác nhau, trong kinh điển Tiểu thừa, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni không thể tuyên giảng pháp tu Đại thừa một cách rộng rãi, công khai; trong Hiển tông Đại thừa cũng không thể xiển dương Mật tông một cách công khai, rõ ràng được. Rất nhiều người tu hành Tiểu thừa thì đứng ở vị trí của mình tỏ ra khư khư một mực chê trách kinh điển Đại thừa là không phải những gì Đức Phật thuyết giảng, nếu những người tu hành Hiển tông Đại thừa cũng nhân vì chưa có duyên tiếp xúc với những chúng sinh có một thứ căn cơ khác được Đức Phật tuyên giảng Mật pháp, rồi cũng đi đến việc phỉ báng Mật pháp là không phải những gì Đức Phật truyền dạy thì hành vi ấy và người tu hành Tiểu thừa kia có gì sai khác về bản chất đâu? Vả lại, là tín đồ Phật giáo, lẽ ra chúng ta nên hiểu rõ chư Phật mười phương không những bản thể vô nhị mà tất cả đều đầy đủ cả tam thân gồm ứng thân, pháp thân, báo thân; chính sự tồn tại của tam thân mới làm cho phương thức thuyết pháp của Đức Phật thiên biến vạn hóa. Đại sư Liên Hoa Sinh trong Văn Giải Thuyết Tục từng nói: “Đức Phật dùng tướng hóa thân để tuyên giảng Hiển tông Tam tạng, dùng phương thức báo thân để tuyên giảng tam thừa của Mật pháp là Sự bộ, Hành bộ và Du già bộ, ví như Phật Thích Ca Mâu Ni hiện ra tướng báo thân khác nhau tuyên giảng mỗi điển tịch Tục bộ khác nhau như Mật tập Kim cương, Thời luân Kim cương…; còn như Đại pháp tam thừa Du già bộ Ma ha, A nô, A để thì Đức Phật dùng phương thức pháp thân tự hiện tại thanh tịnh sát độ để tuyên giảng đối với ngũ phương Phật”.
Đồng thời chúng ta cũng cần biết kinh Phật không nhất thiết phải được chính miệng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tuyên giảng mới có thể thành kinh, có một số kinh Phật do các vị Bồ tát truyền bá dưới sự gia hộ của Phật Thích Ca Mâu Ni, ví như Tâm Kinh là của Bồ tát Quán Thế Âm được sự gia hộ của Đức Phật mà về sau được chúng sinh tụng đọc. Trong rất nhiều kinh Phật đều có phần mở đầu là “Như thị ngã văn - Tôi đã nghe như vầy”, điều này chỉ rõ bộ kinh ấy là đệ tử của Phật sau khi nghe giảng rồi nhớ và ghi lại. Đối với các kinh điển loại này chúng ta phải dùng tư liệu lịch sử nào để khảo chứng độ đáng tin của chúng? Phải chăng lúc đó chúng ta có thể bê ngay cả những thiết bị khảo cổ hiện đại nhất để dùng tạm? Nhưng con người dù mở rộng hết đôi cánh tưởng tượng thì cũng không thể xúc chạm đến được kiến thức sơ đẳng của Phật pháp, huống hồ là những thủ pháp thực nghiệm thực tế cùng với công cụ kiểm định của các nhà khảo chứng. Trong tình hình này, Phật pháp phải dừng bước, phải gọt chân cho vừa với giày để đợi sự kiểm nghiệm của khảo cứ học lịch sử và thực nghiệm khoa học, hay nên tiếp tục tiến bước trên con đường của mình, hướng dẫn nhân loại và mọi chúng sinh mạnh dạn tiến lên cùng đi đến mục tiêu của cảnh giới tự do nhất, tự tại nhất?
Cuối cùng xin bàn đến vấn đề tính quyền uy và tính đáng tin của Đại viên mãn pháp.
Những người hiểu rõ đúng đắn đặc trưng của Đại viên mãn đều biết rằng Đại viên mãn có mười hai vị Đại bản sư, Phật Thích Ca Mâu Ni là một trong số những vị ấy, vì thế chúng tôi e ngại không thể nói pháp Đại viên mãn “xa rời sự truyền thừa của nhân vật lịch sử Thích Ca Mâu Ni Phật là nguồn gốc của Phật giáo”. Nguyên tắc này người nào đã xem qua các luận điển như Đại Viên Mãn Truyền Thừa Nguyên Lưu, Thắng Thừa Bảo Tạng Luận nên hiểu rõ hơn về điều đó.
Hệ thống truyền thừa Đại viên mãn có thể hoằng dương rộng rãi theo ba phương thức, đó là Như Lai mật ý truyền, Trì minh biểu thị truyền, Bổ đặc ca la nhĩ truyền. Đối với tình trạng truyền thừa rộng rãi ở nhân gian, những lời thuyết pháp trong Tạng Mật Phật Giáo Sử có tính chất điển hình: “Con của Thiên vương Đức Hoa Tang Trung trong cõi trời thứ ba mươi ba đã từng tạo ra bốn cõi mộng tối thù thắng, sau được sức thần Phật thêm vào và cùng giống với cảnh mộng. Tất cả chư Phật mười phương, chư Phật năm phương gia hộ độ trì cho Bồ tát Kim Cương Tâm, do đó Kim Cương Tâm được tất cả sự quán đỉnh của Đại viên mãn và tất cả giáo hải của chư Phật, rồi hiểu rõ và truyền ra, nhân đó trong thiên cung bèn đem pháp Đại viên mãn truyền dương, và cứ như vậy lần lượt truyền đến nhân gian”. Về sau, Ga Nhiêu Đa Cát tức Cực Hỷ Kim Cương giáng sinh, vị này “ở cõi trời cứu cánh1, là người hoằng dương pháp Đại viên mãn, là Kim Cương Tát Đỏa hóa thân, là Tối Thắng Tâm Vương Tử xuất thế... Về sau, tất cả Kinh Tục của các thừa Nội Ngoại cùng với sáu trăm linh bốn vạn câu kệ tụng về Tự tính Đại viên mãn do từ tâm của Vương tử, đều là Kim Cương Tát Đỏa, hiển hiện ra trước mắt, ban cho các vị cao tăng đại đức khai thị quán đỉnh mà được thị hiện đạo trí tuệ tối cứu cánh. Kim Cương Tát Đỏa đều cho thụ ký, cho đem tất cả ngữ lục ghi chép lại. Chỉ mất ba năm, giáo chủ đem tất cả ngữ tục tàng trữ trên đỉnh núi cao của dãy Hy Mã Lạp Sơn biên thành mục lục”. Từ đó pháp Đại viên mãn bắt đầu có gốc rễ tại nhân gian. Về lịch sử truyền thừa của Đại viên mãn, trong các sách sử khác nhau của Mật tông Tây Tạng đều có giới thiệu đầy đủ, rõ ràng, ở đây chỉ đề cập sơ lược như vậy mà thôi.
1 Cõi trời cứu cánh: Tiếng Hán là “Sắc cứu cánh thiên” 色究竟天 (tiếng Phạn Akanisthadeva, Aghanistha), là một trong 18 cõi trời của Sắc giới, là cõi trời cao nhất của Sắc giới, nên gọi là Sắc cứu cánh thiên.
Những điều trình bày trên đây chỉ giới thiệu một cách cơ bản nhất về Đại viên mãn, với mục đích khai thông dòng tư duy của mọi người, khiến cho mọi người ít nhiều đều có thể có một chút ấn tượng cơ bản đối với sự tinh thâm quảng đại, quán thông dung hợp của Mật pháp, đồng thời từ đó dẹp bỏ thói quen và phong khí học thuật khinh suất chỉ muốn đem sở kiến của mình ra để đo biển pháp nông sâu. Đức Phật thuyết giảng tám vạn bốn ngàn pháp môn chỉ vì muốn cứu độ chúng sinh có căn tính không giống nhau, chúng sinh thì vô cùng, pháp môn cũng vô tận. Vả lại, dù Tiểu thừa, Đại thừa hay Kim cương thừa, về thực chất mà nói, đó cũng chỉ là vì những phương tiện thích hợp cho việc truyền giáo của Đức Phật mà thôi, há có thể cố chấp đè cái này nâng cái kia, đoán định hơn thua, tốt xấu sao? Tam thừa Phật pháp làm sao có thể lấy căn cứ của khảo chứng học lịch sử đúng sai, có không để luận bàn được, điều này ít nhiều có sự ngờ vực của việc chấp trước cho những thứ ấy là thực. Về điểm này, cách làm của Đại sư Thái Hư rất đáng được noi gương, lúc đó Ngài đã từng nói rằng: “Hương Bát Lạp Quốc và Nam Thiên Thiết Tháp là nơi Mật pháp xuất phát và lưu hành, quyết không thể dùng cái không có của sự thật lịch sử để tra cứu mà bài xích nó được!” Cũng chính như Kinh Bạch Liên viết: “Tuy nói là pháp môn điều giải cái tâm mê vọng của chúng sinh, tổng cộng có đến tám vạn bốn ngàn loại, nhưng chân ý của Đức Phật hướng tới thì chỉ một bản thể không sai khác. Ta tuy khai thị pháp Tam thừa, nhưng cũng tùy vào ý thỏa thích và vui vẻ (ý lạc) của lực khí chúng sinh mà thuyết giảng”. Kinh Lăng Già thì nói: “Thậm chí có chúng sinh là có vô tận các thừa, nhưng ngày nào tâm diệt tận, thì không có thừa cũng không có tình nữa”. Tức là muốn nói, trước khi chưa diệt hết tâm thức của chúng sinh, thì có bao nhiêu chúng sinh có căn cơ khác nhau sẽ có bấy nhiêu pháp môn tương ứng. Trong tình hình thiên biến vạn hóa ấy, muốn dùng món khảo chứng, món tư liệu, cộng với lập trường, ý thích cơ bản của mình, và xuất phát từ các niệm phân biệt tự bản thân để phán đoán, nhận định thì có lẽ không thể đưa ra kết luận một cách chính xác được. Mục đích của một tín đồ Phật giáo tồn tại trong thế gian này hoàn toàn không ở chỗ bạn đưa ra một thứ quan điểm kinh thiên động địa như vậy, muốn nói quan điểm kinh thiên động địa nhất phải là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã đưa ra từ rất sớm rồi. Bằng tín tâm, dưới sự hướng dẫn của thượng sư, theo sự chỉ dạy của Đức Phật mà tu hành chân chính mới là việc quan trọng nhất.
Tôi rất muốn đưa ra một ý kiến, tức là đối với những vị học giả lòng đầy nghi hoặc về Mật pháp có thể đích thân đến xứ Tạng được chăng, một phen khảo sát thực địa tình hình tín ngưỡng ở đất nước này, đích thân làm một chuyến công tác “khảo chứng” đi sâu vào dân chúng của xứ Tạng. Tôi nghĩ, trong tình huống trọn vẹn, họ có thể phát hiện, dân tộc Tạng đối với sự thuần chính tín ngưỡng Phật pháp; dân tộc Tạng tán đồng sâu sắc đối với sự tin tưởng thực sự về luật nhân quả, dân tộc Tạng xem trọng đối với việc tích lũy tư lương phước báo; dân tộc Tạng tôn kính, ca ngợi tuyệt đối đối với tất cả các giáo phái Phật giáo như Tiểu thừa, Hiển tông, Mật tông; dân tộc Tạng đối với việc theo đuổi từ bi và trí tuệ, trong tất cả dân tộc trên thế giới có thể nói chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay. Vả lại, dân tộc Tạng đối với ngoại đạo, kể cả đối với một số môn phái thần tiên ca ngợi hết lời với đủ công năng đặc dị, cũng tỏ ra thờ ơ, có vẻ khác xa với các dân tộc khác. Một khi họ đã quy y Phật giáo, thì sẽ không bị một thứ ngoại đạo nào dẫn dụ. Tình trạng tu trì thực tế của dân tộc này nên nhìn theo một khía cạnh khác mới phản ánh rõ vấn đề độ tin cậy và tính hợp lý của Mật pháp.
Nói tổng quát, thể hội và chứng ngộ Phật pháp tức là cần phải lấy toàn thể thân tâm để đánh giá, còn việc nghiên cứu học tập thường chỉ do sự ưa thích của cá nhân.
Thực ra, điều Pháp sư Tế Quần muốn hỏi chủ yếu là mối quan hệ giữa Mật pháp và ngoại đạo, việc đề cập đến thái độ của giới học thuật đối với Mật pháp chỉ là do thuận tiện thôi, nhưng chính tôi đối với vấn đề này lại không thể coi là bình thường được, nên mới đi lệch chủ đề, không ngại nói dài dòng như vậy, mục đích chỉ vì muốn nói rõ chân tướng sự thật. Dưới đây xin nói về vấn đề chính, trả lời một cách ngắn gọn những vấn đề Pháp sư đưa ra.
Trong Phật giáo quả có những câu từ rất gần hoặc rất giống với những câu từ mà ngoại đạo sử dụng, trong Mật pháp Tây Tạng cũng có những từ ngữ rất giống với ngoại đạo đạo Bon1, nhưng nếu bàn về thực chất tư tưởng của chúng thì không thể xem là có cùng giá trị được. Ví như rất nhiều thứ ngoại đạo có bàn đến pháp môn bố thí, nhưng mục đích, phương pháp, đối tượng, tư tưởng chỉ đạo của việc bố thí lại khác nhau một trời một vực, đặc biệt là pháp bố thí Tam luân thể không2 trong Phật giáo càng không thấy trong tư tưởng của ngoại đạo. Ví như rất nhiều tôn giáo đều đưa ra và có phương pháp cụ thể chỉ dẫn tín đồ diệt khổ được lạc, nhưng phân tích bản chất của khổ và lạc như là một thì chỉ có thể tìm thấy trong giáo nghĩa cứu cánh của Phật pháp. Tiêu chí quan trọng nhất để phân biệt Phật giáo và ngoại đạo không phải ở câu từ mà là ở các mặt kiến, tu, hạnh, quả, ở các điểm chính kiến Bát nhã, tâm hạnh Bồ đề, Phật tính cụ thể, Phật quả cuối cùng. Nhưng tôi có thể bảo đảm nói rằng, theo tôi biết, tư tưởng Mật pháp chưa từng bị ô nhiễm bởi bất cứ tư tưởng không thanh tịnh nào của ngoại đạo. Ở đây, người nào nảy sinh sự hoài nghi tự mình có thể lật tra các kinh luận liên quan đến Mật tông.
1 Bổn giáo 苯教: Người phương Tây dịch là “đạo Bon” là đạo giáo cổ truyền của người Tượng Hùng thời xưa trên cao nguyên Thanh Tạng. Tượng Hùng theo phiên âm tiếng Tây Tạng là “Xang Xung”, là một vương quốc và có nền văn hóa cổ đại ở miền Tây và Tây Bắc Tây Tạng, là nền văn hóa tiền Phật giáo Tây Tạng. Văn hóa Tượng Hùng có liên hệ với “đạo Bon” (tức Bổn giáo), nó có ảnh hưởng đến triết học và việc tu luyện của Phật giáo Tây Tạng.
2 Tam luân thể không 三輪體空: Thể của ba luân là Không. Tức là khi thực hành pháp bố thí, Bồ tát phải biết rõ thể của người bố thí, người nhận sự bố thí và vật bố thí đều là không để phá trừ tướng chấp trước. 1. Thí không: Người bố thí hiểu rõ thân mình vốn không, đã biết thân ta là không thì không có tâm mong cầu phúc báo. 2. Thụ không: Đã hiểu rõ vốn không có người bố thí thì cũng chẳng có người nhận sự bố thí, vì thế không sinh ý tưởng kiêu mạn. 3. Thí vật không: Đã hiểu rõ tất cả đều không thì tài vật dùng để bố thí cũng là không, do đó không sinh tâm tham lam hối tiếc.
Pháp vương Đốn Chu đã tập hợp kinh luận thành Tiền Dịch Mật Tông Hội Tập được hơn năm mươi bảy bộ, gần đây, trên cơ sở đó, các chư tăng đại đức Ấn Độ đã tập hợp thêm hơn một trăm bộ nữa, những vị nhân sĩ trí thức có chí, có tâm có thể nghiên cứu một cách nghiêm túc. Không chỉ trong các điển tịch tiền dịch Mật tông mà trong các điển tịch của tất cả các giáo phái Mật tông cũng không tìm thấy tư tưởng tương đồng với ngoại đạo. Người đời trước đã như vậy, tôi nghĩ người đời nay cũng như vậy, nghĩa là trong đó không thể tìm thấy chỗ giống nhau giữa Mật pháp và ngoại đạo.
Do không gian địa lý cách trở và văn hóa khác biệt giữa xứ khác và xứ Tạng, lại thêm thời cận hiện đại việc dịch thuật kinh luận của hai bên còn ít ỏi, việc giao lưu về các mặt chưa được đầy đủ, dẫn đến vấn đề hiểu biết lẫn nhau giữa giới Phật giáo Hán - Tạng còn xa cách, cho nên xuất hiện một số hiểu lầm cũng bởi những lý do đó.
Ngày nay, ở nước ngoài có nhiều cao tăng đại đức và nhiều nhân sĩ trí thức nhiệt tình với văn hóa xứ Tạng đang phiên dịch và giới thiệu hàng loạt những điển tịch Phật giáo Tây Tạng ra nhiều thứ ngôn ngữ, trong số những người Hán cũng có một số vị cố gắng tăng tốc việc dịch thuật các kinh điển Phật giáo bằng tiếng Tạng ra tiếng Hán, và còn trong số những người Tạng cũng có nhiều người dấn thân vào công tác giao lưu văn hóa nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai dân tộc. Tôi tin rằng tùy vào sự giao lưu sâu sát, trở ngại về ngôn ngữ bị phá vỡ thì thành lũy tư tưởng nhất định sẽ bị quét sạch.
Nếu muốn đánh giá đặc trưng bản chất của Phật giáo Hán - Tạng, luận bàn một cách thoải mái thì giữa chúng vừa có điểm liên hệ vừa có điểm khác biệt, thế thì phải tinh thông nội hàm của Phật giáo Tây Tạng và Phật giáo xứ khác, nếu không, mọi lời bình luận đều có thể rơi vào tình trạng phiến diện, võ đoán. Trong quá trình như vậy, chúng ta cần cố gắng đừng để bị giới hạn ở góc độ giống như kiểu ếch ngồi đáy giếng.
Ngày xưa, rất nhiều người tu hành Tiểu thừa đều vu khống Bồ tát Long Thọ là hóa thân của ma quỷ, ngày nay rất nhiều học giả thuộc giới trí thức và nhiều tăng nhân, nhiều người tu hành thuộc giới Phật giáo đều nhao nhao bàn luận về Mật pháp, tấm gương của năm trước đáng để chúng ta duy trì đầu óc sáng suốt. Thực ra, giải quyết vấn đề này hoàn toàn không khó khăn gì cả, một mặt chúng ta cần đi sâu nghiên cứu lịch sử, mặt khác lại cần phải đích thân tu chứng thực tế. Chỉ cần có được cái tâm tín ngưỡng chân thành, cái tâm dung thông Hiển Mật thì không thể trở thành một thứ mộng tưởng vô kỳ hạn được. Vì Hiển Mật viên dung vốn là chân ý của Phật pháp, hãy cởi bỏ ánh mắt thù địch, hãy thoát khỏi sự trói buộc của việc theo đuổi duy khảo chứng, hãy nắm vững lý tính đích thực và công phu tu hành thực tế, bấy giờ chúng ta nhất định sẽ tìm ra điểm kết nối của Mật tông và Hiển tông.
Trong thời buổi hiện nay khắp thiên hạ đầy dẫy những tà tri tà kiến, nếu các tín đồ Phật giáo còn đưa ra những thành kiến cá nhân để đến nỗi huynh đệ tương tàn, thì chỉ có thể khiến cho Phật pháp càng nhanh chóng đi đến chỗ diệt vong. Những lời tranh biện nêu trên hoàn toàn không phải là sự biểu hiện hưng vượng của tình trạng trăm hoa đua nở, trăm nhà tranh tiếng, trái lại rất có khả năng đem Phật pháp đi theo hướng lấy niệm phân biệt của cá nhân để làm tiền đề cho việc tiêu diệt chính kiến Phật pháp. Mỗi một Phật tử có tinh thần trách nhiệm đều phải trăn trở suy đi nghĩ lại.