Pháp sư Tế Quần: Từ rất lâu, trong kinh điển Áo nghĩa thư của Bà la môn có nói đến việc xây dựng một cái “Ngã” thường hằng bất biến, lấy đó làm căn nguyên thường hằng và căn cứ giải thoát, đồng thời đưa ra tư tưởng “Phạm Ngã nhất như - Đại ngã và Tiểu ngã là một”1.
1 Phạm Ngã nhất như 梵我一如. Tiếng Phạn Brahma-àtma-aikyam (Brahma, Atma là một). Đây là tư tưởng căn bản về thế giới quan của Bà la môn chính thống ở Ấn Độ mà tiêu biểu là Áo nghĩa thư (Upanishad). Áo nghĩa thư chủ trương nguyên lý căn bản của vũ trụ là Brahman và bản thể của cá nhân là Àtman là cùng một thể, không khác. Theo nguyên lý này thì tất cả muôn vật đi theo một trình tự nhất định, linh hồn của mọi chúng sinh tùy vào nghiệp lực mà có hình thức luân hồi khác nhau. Mục đích cao nhất của nhân sinh là làm thế nào thoát ra khỏi vòng luân hồi. Muốn vậy thì trước hết phải hiểu rõ chân lý căn bản: Phạm Ngã nhất như, đồng thời, tiêu diệt nghiệp lực, lập tức chấm dứt luân hồi đau khổ của kiếp nhân sinh.
Còn Phật giáo thì đề xướng “vô ngã” và lấy “vô ngã” làm nét đặc trưng quan trọng của Phật giáo. Nhưng trong một số kinh điển Đại thừa lại đưa ra tư tưởng Như Lai tạng và Phật tính, đồng thời lấy đó làm “ngã”, thế là giới học thuật lại cho rằng tư tưởng Như Lai tạng và Phật tính chịu ảnh hưởng của Áo nghĩa thư. Nhưng thuyết “Tức thân thành Phật” của Phật giáo Tây Tạng cũng xây dựng trên cơ sở tư tưởng của Như Lai tạng và Phật tính. Điều tôi muốn biết là về vấn đề này, ý kiến của Kham bố như thế nào đối với giới học thuật?
Kham bố Sách Đạt Cát: Trước việc giáo hóa chúng sinh có căn cơ khác nhau, Đức Vô đẳng Đại sư Thích Ca Mâu Ni Phật đã thị hiện lịch trình hoằng pháp bằng ba lần chuyển pháp luân: Những người thụ nhận chuyển Pháp luân lần đầu tiên chủ yếu là chúng sinh có căn cơ Tiểu thừa, trọng điểm Đức Phật tuyên giảng cho họ pháp môn Tứ diệu đế; đối tượng chủ yếu của lần chuyển Pháp luân thứ hai và thứ ba là những hạng người có lợi căn Đại thừa. Trong quá trình chuyển pháp luân lần thứ hai, trọng điểm tuyên giảng của Đức Phật là Chân như Bát nhã. Bồ tát Long Thọ dựa vào mật ý của Đức Phật viết ra Trung Quán Lục Luận nhằm xiển dương lý niệm vạn pháp vi không; Bồ tát Nguyệt Xứng là người kế tục sau đó lại dùng luận điển Nhập Trung Luận để phát huy tiến thêm một bước nữa. Còn về quan điểm Như Lai tạng thì khi Đức Phật chuyển pháp luân lần thứ ba, về nội dung chú trọng tuyên giảng, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đối mặt với những chúng sinh có lợi căn nhất, đã giảng thuyết rộng rãi pháp môn liên quan đến Thanh tịnh Hiển hiện, còn Tán Thán Giới Luận của Bồ tát Long Thọ và Bảo Tính Luận của Bồ tát Di Lặc thì đó là những lời giải thích toàn diện và có thẩm quyền nhất đối với quan điểm Như Lai tạng.
Về những gì cần chú trọng lựa chọn cho việc chuyển pháp luân hai lần sau, điều mọi người đều nhất trí công nhận là vấn đề Không tính và Hiển hiện. Nhưng khi giải thích mối quan hệ của hai việc này thì quan điểm của rất nhiều người lại không rõ ràng, không nhất trí cho lắm. Thực ra có một sức ảnh hưởng của những quan điểm sai lầm rất sâu xa, đó là xem Không tính và Hiển hiện như hai sợi dây hai màu đen trắng, nếu muốn bàn về mối quan hệ của chúng thì đương nhiên những người này xoắn hai sợi dây ấy lại với nhau tức là lối giải thích rõ ràng nhất của quan hệ Hiển Không. Điều này sợ không phù hợp với bản ý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, và cũng không thể lý giải đầy đủ ý nghĩa của “sắc bất dị không, không bất dị sắc - sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc” được nói trong Tâm kinh. Thực ra, quan hệ của Không tính và Hiển hiện là quan hệ của “sắc tức thị không, không tức thị sắc - sắc tức là không, không tức là sắc”, bất kể phái Hiển Mật, phái Hoa Nghiêm hay Thiền tông, hay phái Pháp Hoa, tất cả các pháp môn Đại thừa không tông phái nào là không lấy đó để quyết định chuẩn mực duy nhất của quan hệ Hiển Không. Cần hiểu rõ điều này, đối với việc giúp mọi người hiểu rõ đặc trưng bản chất của Như Lai tạng, hiểu rõ điều gọi là sự khác biệt cơ bản giữa Như Lai tạng Phật pháp với cái “ngã” của ngoại đạo, hiểu rõ giới hạn hoàn toàn khác nhau giữa tư tưởng Phật giáo và tư tưởng mà kinh điển Áo nghĩa thư truyền giảng của Bà la môn, tất cả đều có giá trị quan trọng để tham khảo và học hỏi. Vì “sắc tức thị không” tức là nói cho chúng ta biết rõ rằng bản chất của Như Lai tạng là Không tính; còn “không bất dị sắc” cũng nói cho chúng ta biết rõ rằng Không tính hoàn toàn không có nghĩa là không có một vật gì cả, tựa như bị đoạn diệt hết, mà trong đó đương nhiên bao hàm có sự hiển hiện của Như Lai và những thứ công đức.
Thực ra trong Kinh Lăng Già, Đức Phật đã từng trả lời một vấn đề, tức là trong bộ kinh ấy, Ngài đã giảng giải minh bạch tường tận sự khác biệt nghiêm mật giữa điều Phật pháp gọi là Như Lai tạng và điều ngoại đạo gọi là “ngã”, đồng thời từ đó làm cho mọi người có được một sự hiểu biết càng rõ ràng và càng rốt ráo hơn đối với Phật tính và Như Lai tạng. Trong bộ kinh ấy, Bồ tát Đại Huệ đặt câu hỏi đầu tiên: “Bạch Thế Tôn, trong Tu đa la nói Như Lai tạng bản tính thanh tịnh, thường hằng, không gián đoạn, không thay đổi, có đủ ba mươi hai tướng ở trong thân thể của tất cả chúng sinh. Vì bị chiếc áo bẩn trong uẩn giới xứ1 trói buộc, bị tham sân si và các vọng niệm phân biệt làm ô nhiễm, nên như những chiếc áo không có giá trị trong số những chiếc áo bẩn. Ngoại đạo nói “ngã” là thường hằng, xa rời chỗ nương tựa của tự tại vô diệt. Thế Tôn vốn đã thuyết giảng Như Lai tạng, há chẳng giống với cái “ngã” của ngoại đạo chăng?”
1 Uẩn giới xứ: Tức chỉ năm uẩn (ngũ uẩn) mười tám giới (thập bát giới) và mười hai xứ (thập nhị xứ), gọi chung là ba khoa (tam khoa). Năm uẩn tức là sắc, thụ, tưởng, hành, thức, đó là sự sai biệt của tâm; sau đó sắc chia ra làm mười, gộp tâm lại làm hai, tạo ra mười hai xứ, mười xứ là năm căn, năm cảnh, đó là sắc và hai xứ nữa là ý căn và pháp cảnh, đó là tâm; tiếp theo, vì sắc tâm cùng mê, nên chia sắc làm mười, chia tâm làm tám và tạo ra mười tám giới, trong đó mười giới gồm năm căn, năm cảnh, đó là sắc và tám giới khác gồm ý căn pháp cảnh và sáu thức, đó là tâm.
Đối với việc này, Đức Phật trả lời: “Này Đại Huệ! Ta đã nói Như Lai tạng không giống với cái “ngã” mà ngoại đạo từng nói. Đại Huệ, Như Lai Chính đẳng Chính giác lấy các câu chữ với nghĩa thực tế Niết bàn Tính không, không sinh, không tướng, không nguyện để nói đến Như Lai tạng, là để khiến cho người ngu si dẹp bỏ sự sợ hãi khi nghe nói đến vô ngã và để cho họ chứng được trạng thái vô phân biệt, vô ảnh tượng mà trở về chốn Như Lai tạng. Các vị Bồ tát Ma ha tát trong hiện tại và tương lai sẽ không chấp trước vào cái ngã. Đại Huệ, ví như người thợ đồ gốm tạo ra nhiều vật dụng từ khối đất sét, dùng các phương tiện như sức người và sự khéo tay, cùng với cái cần nước và dây chỉ. Như Lai cũng thế, trong việc xa rời tất cả các tướng phân biệt vô ngã pháp, cần dùng các dạng phương tiện thiện xảo của trí tuệ, chư vị có khi dùng lý thuyết Như Lai tạng, hoặc có khi dùng lý thuyết vô ngã, và cũng giống như người thợ đồ gốm, chư vị dùng nhiều tên gọi, nhiều biểu từ khác nhau để thuyết giảng. Đại Huệ, ta nói Như Lai tạng là để nhiếp thụ cái ngã của bọn người ngoại đạo, khiến cho mọi người xa rời vọng kiến mà đi vào ba cửa giải thoát1 để nhanh chóng chứng được quả A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề2. Cho nên chư Phật nói Như Lai tạng không giống với ngoại đạo nói về “ngã”. Nếu muốn xa rời sở kiến của ngoại đạo cần phải biết nghĩa của vô ngã là Như Lai tạng”. Ở đây, Đức Phật đã nói rất là rõ ràng, nếu muốn phân biệt “ngã” của ngoại đạo thì người tu hành phải nắm vững bản thể Không tính của Như Lai tạng, cũng tức là không thể chấp trước Như Lai tạng là có thực.
1 Tam giải thoát 三解脫: Ba cửa giải thoát. Tam giải thoát còn gọi là Tam không hoặc Tam muội. Tên gọi đầy đủ là “Tam giải thoát môn” 三解脫門, gồm: 1. Không giải thoát môn: Cửa giải thoát Không, 2. Vô tướng giải thoát môn: Cửa giải thoát vô tướng, 3. Vô tác giải thoát môn: Cửa giải thoát vô tác.
2 A nậu đa tam miệu tam Bồ đề 阿耨多羅三藐三菩提 (Tiếng Phạn Anuttara- samyak-sambodhi): Nghĩa là trí tuệ Phật, có thể dịch Vô thượng chính biến trí, hay Vô thượng chính biến đạo, hay Vô thượng chính đẳng chính giác.
Còn như trong giới học thuật có người cho rằng tư tưởng Như Lai tạng và Phật tính chịu ảnh hưởng của Áo nghĩa thư, những quan điểm loại này quả là những lời nói vô căn cứ. Nếu chúng ta khi đánh giá mối quan hệ giữa bất cứ hai hệ thống tư tưởng nào, mà chỉ căn cứ vào nguồn tư liệu chữ nghĩa hời hợt bên ngoài, một lần nào đó thấy hai hệ tư tưởng ấy có chỗ tương tựa hoặc có chỗ giống nhau về mặt chữ nghĩa, thì lập tức đưa ra kết luận cuối cùng cho rằng mối quan hệ của hai tư tưởng ấy có cùng nguồn gốc, hoặc tư tưởng này chịu ảnh hưởng của tư tưởng kia, thì lối nghiên cứu học thuật ấy há chẳng nghiêm túc chút nào chăng? Nghiên cứu như vậy sợ rằng mọi người đều phải cầm bút vào cuộc, vì quả thực nó đòi hỏi khả năng ở nơi mỗi người quá đơn giản, chỉ cần so sánh thời gian ra đời trước sau của hai tư tưởng, và xem chỗ giống nhau về mặt văn tự chữ nghĩa một chút là có thể đưa ra kết luận cuối cùng cho vấn đề, còn nội hàm thực sự khác nhau như thế nào đều bỏ mặc không để ý đến. Phương thức nghiên cứu phỉnh nịnh để lấy lòng và thái độ học vấn như vậy không những không thể thành công trong pháp thế gian mà càng không thể ứng dụng trong việc nghiên cứu Phật học và trong vấn đề văn tư (nghe hiểu và suy nghĩ). Chúng tôi có thể nói không ngoa rằng những vị gọi là học giả ấy hoàn toàn dựa vào các niệm phân biệt của chính mình, sau đó dưới sự chi phối quan niệm của người đi trước là chính và tự cho là đúng, rồi đi sưu tập tài liệu có lợi cho quan điểm của mình, kết hợp chỉnh sửa đôi chút thế là thành một áng văn chương để có thể cho ra lò. Vả lại, đối với số tài liệu ấy họ cũng chỉ cưỡi ngựa xem hoa, chỉ để mắt lướt qua, họ nhìn một lượt là hầu như có thể giúp cho các luận điểm trong văn bài của họ, họ bèn cắt câu lấy nghĩa1 trích sao đưa vào, căn bản không quan tâm đến ngữ cảnh trước sau và vị trí trên dưới trong chỉnh thể nguyên văn của tài liệu ấy. Thế là những kết luận khinh suất thay cho những luận chứng nghiêm túc, những dẫn chứng rườm rà bên ngoài che đậy sự nghèo nàn và rỗng tuếch bên trong. Điều càng đáng sợ hơn là thứ tự thống nhất của việc học Phật từ văn tư tu đến giới định tuệ dần dần bị đơn giản hóa thành Phật học khảo chứng về mặt chữ nghĩa văn tự, nhưng những người này đối với Phật pháp không có tính kiên định của người tu hành có tín tâm không thể phá vỡ cũng “rùng mình thoắt biến” để trở thành “học giả Phật giáo” với mũ miện chỉnh tề, lại có cái tên hay ho gọi là thái độ khoa học trong nghiên cứu Phật pháp. Những người này họ dùng toàn bộ thân tâm, bao gồm cả sinh mệnh để thể nghiệm và chứng minh Phật học ngày càng dung tục hóa thành thời đại của Phật học thế gian, không biết những người này có suy nghĩ hay không rằng Phật pháp vượt ra ngoài ngôn ngữ và tư duy thế gian, là một bộ phận của trí tuệ rốt ráo nhất, phàm phu tục tử căn bản không thể dùng cái gọi là trí thông minh của mình rồi dựa vào sự biện bác lanh lợi bằng sự hiểu biết thế gian, tương tựa như thái độ của những nhà học vấn trần tục để mong cầu chứng ngộ. Nếu nghiên cứu Phật pháp có thể hạ xuống thành nghiên cứu học thuật thế gian, thì Phật Thích Ca Mâu Ni cũng đã không nhiều lần nhấn mạnh tính chất quan trọng của tín tâm. Đương nhiên những người này rất có thể hiểu tín tâm của chúng tôi là lòng tin mù quáng, cũng giống như họ tin những niệm phân biệt của họ là chính tín vậy. Nhưng tôi nghĩ, đúng sai, cong thẳng hoàn toàn không thể giống cái bánh bao có thể do người ta cắt chia thế nào cũng được. Nếu những người này nghiêm chỉnh hiểu rõ mật ý ba lần chuyển pháp luân của Đức Phật, hoàn chỉnh hệ thống văn, tư qua việc tuyên giảng mười bộ đại kinh điển của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thì tôi tin rằng họ sẽ còn kiên trì giữ mãi quan điểm nhất quán về Như Lai tạng và cái “Thường ngã” của ngoại đạo.
1 Cắt câu lấy nghĩa: Nguyên văn là “Đoạn chương thủ nghĩa” 斷章取義 Vốn chỉ chọn lấy ra những câu, hoặc chương tiết nào đó trong Kinh Thi để diễn đạt ý tưởng của mình, sau dùng chỉ việc dẫn chứng thư tịch chỉ giữ một câu hay một số câu mà không để ý đến toàn văn và nghĩa gốc, việc này làm sai lạc tinh thần của bài viết.
Trong các kinh điển của Hiển tông, có một số lớn danh từ và câu chữ thường dùng không khác với các loại từ vựng của ngoại đạo, lẽ nào chúng ta cũng lại đưa ra kết luận rằng tư tưởng của Hiển tông chịu ảnh hưởng của ngoại đạo sao? Tuy sử dụng chung một số từ ngữ, nhưng chúng lại có nội dung hoàn toàn mới, đó vốn là một trong những biểu hiện đặc sắc của sự bao dung quảng đại của Phật pháp. Dùng từ ngữ giống nhau không nhất thiết phải có nghĩa là chịu ảnh hưởng, ví như Phật giáo đề xướng thập thiện, rất nhiều thứ ngoại đạo cũng nhấn mạnh đến việc bồi dưỡng tính cách, đạo đức cao thượng, nhiều tôn giáo như đạo Cơ Đốc, đạo Nho, đạo Lão… đều coi trọng sự hoàn thiện và thăng hoa của nhân cách con người, nhưng nếu nhân đó mà đánh đồng họ với nhau, hoặc nói người này chịu ảnh hưởng của người kia, cái kia có nguồn gốc từ cái này, sợ rằng tín đồ các tôn giáo đều không thể nhắm mắt đồng ý được.
Ngoài ra, bảo thuyết “Tức thân thành Phật” của Phật giáo Tây Tạng được xây dựng trên cơ sở Như Lai tạng và Phật tính cũng cần phải trải qua khảo sát. Dù là thuyết “Tức thân thành Phật” của Phật giáo Tây Tạng, hay thuyết “Minh tâm kiến tính” của Thiền tông, hay thuyết “Tức sinh vãng sinh” của Tịnh độ tông đều không nhấn mạnh là không phải dốc hết toàn bộ khả năng tính của sự thành tựu có được của cả đời này xây dựng trên cơ sở của Như Lai tạng. Muốn thông suốt thấu đáo hàm nghĩa đích thực của Như Lai tạng, những nhà học thuật phải đọc kỹ lưỡng các kinh điển sau: Kinh Thánh Giả Đà La Ni Tự Tại Vương Thỉnh Vấn, Kinh Cát Tường Man Sư Tử Hống Thỉnh Vấn, Kinh Trân Bảo Nữ Thỉnh Vấn, Kinh Vô Cấu Thiên Nữ Thỉnh Vấn, Kinh Chỉ Man Vương, Kinh Di Lặc Thỉnh Vấn, Kinh Như Lai Tạng… Đến lúc đó nên đi sâu tìm hiểu về việc Đức Phật tuyên thuyết Như Lai tạng, thì những giải thích sai lầm mới có thể tiêu tan.
Có một điểm khi lý giải Như Lai tạng, điều mọi người buộc phải nắm vững là nên thừa nhận Như Lai tạng là vô vi pháp, nhưng lại không thể lý giải nó là đoạn diệt không. Cho dù là vô vi pháp, nhưng tam thân ngũ trí có đủ công đức quang minh vẫn hoàn toàn sẵn sàng. Khi suy nghĩ mối quan hệ giữa chúng với nhau, bất cứ quan điểm hý luận chấp trước có hay không, chẳng có hay chẳng không nào đều không phải là cứu cánh (rốt ráo). Kinh Mật Nghiêm Trang Nghiêm nói: “Vầng trăng thanh tịnh, luôn luôn tròn đầy không ô nhiễm, do từng thời điểm của thế gian mà phân biệt trăng tròn trăng khuyết. Như là A lại da thường hằng đầy đủ Như Lai tạng, Phật nói Như Lai tạng tên gọi là A lại da. Kẻ ngu si không hiểu, dùng tập khí của mình rồi xem là khổ lạc khác nhau, sinh ra tướng phiền não nghiệp hoặc. Tự tính thanh tịnh không ô nhiễm, công đức như của quý ngọc trai, không di dời cũng không thay đổi, hiểu thấu đáo để mà giải thoát”. Bồ tát Di Lặc cũng nói: “Ở đây chẳng có phá mà cũng chẳng có xây, thực sự thấy chân tính, thấy chân tính tức giải thoát”.
Nhưng nếu đổi qua một góc độ khác để nói thì có một số nhà học thuật không hiểu Như Lai tạng cũng có chỗ cần được thông cảm, vì trong một số kinh Phật nói, có vị Bồ tát lên đến giai vị Thập địa mà đối với việc chứng ngộ Như Lai tạng cũng còn mù mù mờ mờ như đêm tối trông nhìn màu sắc. Muốn thấu suốt đích thực mật ý của Như Lai tạng thật là điều vô cùng khó khăn, vì căn bản nó không phải là cảnh giới đối đầu để suy nghĩ phân biệt, cho nên chúng ta không thể tùy tiện lấy các niệm phân biệt của mình để ước đoán suy lường lung tung. Không dựa vào các vị cao tăng đại đức, các vị đại thiện tri thức chân chính, không trải qua nhiều năm nghe giảng, suy tư và tu hành thật sự, thì dù bất cứ ai cũng không thể đạt được, càng không nên nói người khác tuyên giảng bản nghĩa của Như Lai tạng. Nếu nói ngoài Đức Phật ra, kể cả những vị Bồ tát đạt giai vị đều không thể thấy được Như Lai tạng hiện ra như thực, thì đối với những người này tuy chưa thấy thực tướng, nhưng đã bị những thiện tri thức nhiếp thụ, đối với những vị Thanh văn, Duyên giác và chư vị Bồ tát có tin hiểu Đại thừa thì họ có thể dựa vào thắng giải tín mà chứng ngộ tổng tướng của Phật tính. Ngoài điều đó ra, những người có ý định thoát ra khỏi sự nâng đỡ của tín ngưỡng mà chỉ muốn dùng “nghiên cứu học thuật” đơn thuần của mình để chứng ngộ Như Lai tạng, thì sợ rằng ngay cả phần ngoài cùng của Như Lai tạng cũng không thể nào sờ tới được. Chính như Bảo Tính Luận từng nói: “Thắng nghĩa của tự nhiên phải lấy tín tâm để chứng ngộ, ánh sáng mặt trời chói lọi, người không có mắt không thấy được”. Cũng như Kinh Phật Tạng nói rằng: “Quốc vương tụ tập nhiều người mù, sau đó sai đưa ra một con voi và bảo những người mù ấy nói ra những đặc trưng của con voi. Một người mù sờ đến cái vòi voi, nói ‘con voi như cái móc sắt’; một người mù sờ đến mắt voi, nói ‘con voi giống như cái chén’; một người mù khác sờ đến tai voi, nói ‘con voi như cái quạt’, một người mù sờ đến lưng voi, nói ‘con voi giống như tấm phản’, một người mù nữa sờ đến đuôi voi, nói ‘con voi như chùm dây’. Những người mù chưa miêu tả hết được trọn vẹn con voi mà chỉ nói lên được các bộ phận họ tiếp xúc, do bọn họ chưa hiểu hết toàn cục. Cũng cùng cái lý đó, đối với Phật pháp, tuy có cách nói khác nhau như không tính, như ảo, quang minh, nhưng đều không phải chứng ngộ toàn diện”.
Một điều cần nói, làm thế nào chúng sinh có đủ Như Lai tạng, có đủ nguyên lý Phật tính, đối với mỗi một người tu hành mà nói thì đều có liên quan chính yếu, nếu người ấy thật sự muốn chứng ngộ thành Phật mà không tự cho mình là người khảo chứng văn học Phật giáo, thì anh ta phải tìm hiểu thật thấu đáo vấn đề quan hệ giữa bản thể Như Lai tạng và Hiển hiện, giữa Như Lai tạng và Không tính. Về mặt này, Bảo Tính Luận đã dùng chín loại ý nghĩa, chín thứ ví dụ nhằm giảng giải vấn đề ấy vô cùng rõ ràng, minh bạch, người muốn thực tu nghiên cứu có thể nghiền ngẫm đọc đi đọc lại bộ luận điển ấy. Tóm lại, Phật giáo Hiển tông và Mật tông cùng công nhận Không tính và Như Lai tạng, muốn lĩnh hội mối quan hệ và biện biệt giữa chúng với nhau cần phải kết hợp Trung Quán Lục Luận của Bồ tát Long Thọ và Di Lặc Ngũ Luận để tham khảo, nghiên cứu, như vậy mới có thể hiểu biết thấu đáo ý nghĩa của lần chuyển pháp luân thứ hai và thứ ba của Đức Phật, nếu không thì chỉ có thể tách rời chúng ra mà thôi, hoặc giống như đã trình bày ở trên, tức là lý giải mối quan hệ của hai thứ đó giống như mối quan hệ kết hợp của hai sợi dây đen trắng xoắn lại với nhau. Đối với việc giải thích rõ ràng các nguyên lý ấy, chúng ta có thể tham khảo những tác phẩm của Toàn tri tôn giả Vô Cấu Quang và Toàn tri tôn giả Mạch Bành Nhân Ba Thiết. Ở đây chúng tôi sợ rườm rà không tiện trình bày.