• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Đường chân trời đã mất
  3. Trang 11

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 10
  • 11
  • 12
  • More pages
  • 16
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 10
  • 11
  • 12
  • More pages
  • 16
  • Sau

Chương bảy

C

onuê rất điềm tĩnh, nhưng trong lúc anh đi theo tu sĩ Tưởng bước qua những khu sân trống trải, cử chỉ của anh tỏ ra háo hức, mỗi lúc một tăng. Nếu những lời tu sĩ mang một ý nghĩa gì đó thì anh đã đặt chân đến ngưỡng cửa của sự phát hiện; chỉ lát nữa anh sẽ biết cái thuyết của anh, thuyết này vẫn còn chưa hoàn chỉnh, có thực là không đến nỗi không thể có được không.

Ngoài điều đó ra, đây hẳn là một cuộc tiếp kiến rất hay. Hồi đang làm việc, anh đã từng gặp nhiều những quan chức có uy quyền đặc biệt, trước mặt họ anh không hề tỏ ra khúm núm và những nhận xét đánh giá của anh thường là sắc sảo. Không hề ngượng ngùng, anh có sở trường nói ra những lời lẽ lịch sự bằng thứ ngôn ngữ mà quả tình anh biết rất ít. Tuy nhiên, có lẽ trong những trường hợp như vậy, anh đóng vai người nghe là chủ yếu. Anh để ý thấy tu sĩ Tưởng đang đưa anh đi qua những căn phòng mà trước đây anh chưa được nhìn thấy, tất cả những căn phòng này có phần tối mờ mờ và rất đáng yêu dưới ánh sáng ngọn đèn lồng. Rồi một chiếc thang xoắn ốc đưa lên một khung cửa ra vào. Tu sĩ Tưởng gõ cửa, cửa được một người hầu Tây Tạng mở ngay, khiến Conuê nghĩ người này hẳn vẫn đứng ở ngay sau cửa. Phần trên lầu cao của tu viện cũng được bài trí tao nhã không kém những phần khác, nhưng điểm nổi bật nhất nhận thấy ngay ở đây là không khí ấm áp, khô ráo và làm náo nức lòng người, như thể tất cả các cửa sổ đều đóng kín và có một thứ máy sưởi bằng hơi nước đang làm việc với áp lực mạnh nhất. Càng đi, Conuê càng cảm thấy ở đây thiếu không khí, cho đến lúc tu sĩ dừng lại trước một khung cửa, mà nếu tin được ở cảm giác của cơ thể, thì có thể cho rằng sắp bước vào một buồng tắm Thổ Nhĩ Kỳ.

“Tu viện trưởng,” tu sĩ Tưởng khẽ nói “Sẽ chỉ tiếp một mình ông.” Sau khi mở cửa để Conuê bước vào, tu sĩ Tưởng liền đóng ngay cửa lại, lặng lẽ quá khiến không nhận ra ông đã đi ra từ lúc nào. Conuê đứng ngập ngừng, hít thở một thứ không khí không những chỉ ngột ngạt mà còn đầy bụi, khiến phải mấy giây sau anh mới nhìn quen trong ánh sáng lờ mờ. Rồi anh dần dần có ấn tượng đây là một căn phòng mái thấp, rèm che kín đồ đạc, trong phòng chỉ đơn giản có một cái bàn và mấy chiếc ghế. Ngồi trên một trong những chiếc ghế là một người nhỏ nhắn, da dẻ đã nhăn nheo, nước da tái mét, người ấy ngồi im không động đậy dưới tán che và toát ra dáng vẻ của một bức chân dung cổ đã phai nhạt vẽ phối hợp các mảng sáng, tối. Nếu có một vật gì mà sự hiện diện tách rời khỏi hiện tại thì bức ảnh con người đây là như vậy, nó được tô điểm một vẻ trang nghiêm cổ điển, vẻ trang nghiêm tỏa ra từ bức chân dung đúng hơn chỉ là một nét đặc thù của nó. Conuê lấy làm lạ khi thấy mình nhận thức được rõ ràng đến như vậy về tất cả những cái ở trước mắt và anh cứ ngỡ ngàng không hiểu những cái này có tin được không hay đây chỉ là sự phản ứng của anh trước không khí ấm áp, thơm tho trong ánh sáng như vào buổi hoàng hôn này; cặp mắt cổ kính của người kia nhìn Conuê chằm chằm khiến anh hoa mắt, anh bước lên phía trước mấy bước rồi dừng lại. Người ngồi trên ghế lúc này đường nét nom rõ hơn, nhưng cơ thể vẫn chưa lộ rõ mấy; một ông già nhỏ nhắn ăn vận quần áo Trung Quốc, nếp áo, những đường viền rộng lùng thùng trên một thân hình lép kẹp, gầy hốc hác.

“Ông là ông Conuê phải không?” Người ấy hỏi khẽ bằng một thứ tiếng Anh rất giỏi. Giọng nói khiến người nghe dịu lòng vui vẻ và đượm một chút buồn nhẹ nhàng khiến Conuê cảm thấy hạnh phúc lạ lùng, tuy lại một lần nữa tính hoài nghi trong anh có khuynh hướng cho đây là do nhiệt độ trong phòng gây nên.

“Thưa ông, vâng!” Anh đáp lại.

Giọng nói đó tiếp tục: “Ông Conuê, được gặp ông tôi rất vui lòng. Tôi cho mời ông vì tôi nghĩ tôi và ông chúng ta cần phải có một cuộc nói chuyện với nhau. Mời ông ngồi xuống bên cạnh tôi và đừng sợ. Tôi đã già rồi, tôi không làm gì được ông đâu.”

Conuê đáp lại: “Được ngài cho tiếp kiến, tôi coi đấy là một vinh dự lớn cho tôi.”

“Tôi xin cám ơn ông, ông Conuê thân mến. Tôi sẽ gọi ông như vậy, theo tục lệ ở bên Anh của các ông. Như tôi đã nói đây là những phút rất vui vẻ đối với tôi. Mắt tôi giờ đây kém, nhưng hãy tin ở tôi, tôi có thể nhìn thấy ông trong đầu óc, cũng như tự mắt tôi nhìn thấy được. Tôi tin rằng từ ngày tới ở Shangri-La, ông có đủ tiện nghi cho cuộc sống?”

“Quá đầy đủ ạ.”

“Vậy là tôi vui lòng. Tu sĩ Tưởng hẳn đã dốc sức vào việc phục vụ các ông. Ông ấy cũng lấy thế làm vui. Ông ấy có bảo với tôi là ông đã hỏi nhiều về cộng đồng của chúng tôi cùng những công việc của nó?”

“Vâng, tôi rất quan tâm muốn được biết rõ những chuyện ấy.”

“Vậy, nếu ông có thể dành cho tôi một chút thời gian, tôi sẽ vui vẻ kể ông nghe qua về cơ sở của chúng tôi.”

“Không có gì tôi thấy quý giá hơn.”

“Đó là điều tôi đã nghĩ đến và hy vọng… Nhưng trước hết, trước khi ta nói chuyện với nhau…”

Ông khẽ huơ tay và lập tức, do một kỹ thuật gọi nào đó mà Conuê chịu không phát hiện được, một người hầu bước ngay vào để chuẩn bị cuộc lễ nghi uống trà rất thanh nhã. Mấy cái bát màu vỏ trứng trong đựng một chất nước hầu như trong suốt được đặt trên cái khay bằng sơn mài. Conuê vốn biết rõ những nghi lễ ấy, nên không dám coi thường.

Ông già nói: “Vậy ra ông đã quen các lề lối của chúng tôi?”

Nghe theo thôi thúc bản năng mà anh không thể phân tích cũng như không thấy có ý muốn kiềm chế, Conuê đáp lại:

“Vâng, tôi đã từng sống mấy năm ở Trung Quốc.” “Sao ông đã không nói điều đó cho ông Tưởng biết?”

“Vâng.”

“Vậy sao tôi lại được hân hạnh ông cho biết?” Conuê rất ít tỏ ra lúng túng khi phải giải thích những động cơ của việc mình làm; vậy mà lúc này anh không nghĩ ra được một lý do nào. Sau một lúc lâu, anh đáp:

“Xin thú thực, tôi không có một chút ý nghĩ nào khi làm điều này, chỉ biết rằng tôi thấy cần và muốn nói để ngài rõ.”

“Tôi tin chắc đấy là lý do đúng nhất giữa những người sắp sửa trở thành bạn của nhau… Giờ đây, xin ông cho biết trà này có mùi thơm dịu không? Trà của Trung Quốc thì có nhiều loại và thơm, nhưng thứ trà này là sản phẩm đặc biệt của thung lũng chúng tôi, và theo ý tôi thì mùi thơm của nó không kém.”

Conuê nâng bát trà lên môi và nếm thử. Hương vị của nó thoang thoảng, khó nắm được và khó hiểu, một hương vị ma quái luẩn quất quanh lưỡi chứ không chỉ có trên đầu lưỡi. Anh nói: “Mùi hương trà này rất thơm và rất mới lạ đối với tôi.”

“Phải, cũng giống như nhiều loại cỏ được trồng trong thung lũng của chúng tôi, trà này vừa độc đáo vừa quý. Tất nhiên, cần phải nếm nó một cách chậm rãi - không chỉ với lòng sùng kính và yêu mến, mà còn để thưởng thức được đầy đủ cái vị của nó. Đấy là một bài học nổi tiếng mà chúng ta có thể học được từ Kou Kai Tchou tiên sinh, ông sống cách đây khoảng mười lăm thế kỷ về trước. Ăn một đốt mía ông cũng phân vân không dám vắt hết cái phần tủy ngon bổ của nó, vì theo như ông giải thích: ‘Tôi đưa mình dần dần vào thế giới của khoái cảm’. Ông đã có nghiên cứu về một nhà cổ điển nào của Trung Quốc chưa?”

Conuê đáp mình chỉ biết sơ qua về một vài vị.

Anh biết câu chuyện tượng trưng này, theo đúng phép xã giao, sẽ tiếp tục cho đến khi các bát trà được dọn đi; nhưng anh không thấy khó chịu, mặc dầu anh rất sốt ruột muốn được nghe nói về lịch sử của Shangri-La. Chắc hẳn trong anh cũng có một chút nào cái nhạy cảm miễn cưỡng của Kou Kai Tchou.

Cuối cùng dấu hiệu được đưa ra, cũng vẫn một cách bí mật, người hầu vào dọn bàn rồi đi ra. Không cần màn đầu, tu viện trưởng bắt đầu nói:

“Ông Conuê thân mến, chắc ông đã biết rõ những nét chính của lịch sử Tây Tạng. Ông Tưởng đã cho tôi biết là ông đọc rất nhiều trong thư viện ở đây, và tôi tin chắc ông đã nghiên cứu những cuốn sử tuy hiếm hoi nhưng cực kỳ thú vị viết về vùng này. Dù sao chăng nữa thì ông cũng biết rằng Cơ đốc giáo dòng Nextorian1 đã được truyền bá rộng khắp châu Á vào thời Trung Cổ, và dư âm của nó còn rơi rớt lại rất lâu sau thời kỳ nó bị tàn lụi. Vào thế kỷ thứ mười bảy, việc khôi phục Cơ đốc giáo được thúc đẩy trực tiếp từ Tòa thánh La Mã qua những đoàn truyền giáo dòng Jen. Đọc những câu chuyện về các chuyến đi của họ, nếu tôi mạn phép cho mình được nói lên nhận xét, thì có thể nói nó thú vị hơn nhiều những chuyện về thánh Pon. Dần dần, nhà thờ đặt được nền móng trên một vùng rộng mông mênh, và có sự kiện đáng chú ý mà ngay ngày nay nhiều đoàn truyền giáo châu Âu chưa làm được là, suốt trong ba mươi tám năm, ngay tại Laxa đã tồn tại một đoàn truyền giáo Cơ đốc. Tuy nhiên, không phải từ Laxa, mà từ Bắc Kinh, vào năm 1719, có bốn thầy tu dòng Capuysanh xuất phát đi tìm những gì của dòng đạo Nextorian còn sống sót lại trong vùng sâu nội địa này.”

1 Dị giáo mà lãnh tụ là Nestorius, sinh ở Xyri (Vào khoảng năm 380 đến 451). Giáo lý này phân biệt hai người ở chúa Giêsu.

“Họ đi về phía Tây Nam suốt mấy tháng, qua Lan Châu và KoKo-Nor, trải qua bao gian khổ khó khăn, hẳn ông có thể hình dung thấy rõ. Ba người bị chết ở dọc đường, người thứ tư cũng suýt chết khi bị tai nạn rơi xuống cái hẻm núi mà ngày nay là con đường duy nhất để đi vào thung lũng Trăng Xanh. Đến đây, người ấy vui mừng và ngạc nhiên thấy dân ở đây đông đúc, phồn thịnh, tỏ vẻ thân mật và có một đức tính mà tôi vẫn coi là truyền thống lâu đời nhất của chúng tôi, truyền thống mến khách lạ. Vị tu sĩ đó nhanh chóng hồi phục sức khỏe và bắt đầu thuyết giáo. Dân ở đây đều theo đạo Phật, nhưng họ cũng vui vẻ nghe ông ta thuyết giáo, và vị tu sĩ đó đã thành công rất lớn. Hồi ấy, ở đây có tu viện Lama cũ xây dựng trên thềm ngọn núi này, nhưng đang bị đổ nát cả về vật chất lẫn tinh thần và khi vụ thu hoạch của dòng Capuysanh tăng trưởng thì tu sĩ nọ nảy ra ý nghĩ xây dựng trên cùng một vùng đẹp tuyệt vời này một nhà thờ Cơ đốc giáo. Dưới sự trông coi của vị tu sĩ, những nhà cửa cũ được sửa chữa, xây dựng rộng lớn, và chính vị tu sĩ bắt đầu sống ở đây vào năm 1734, lúc đó ông năm mươi ba tuổi.”

“Giờ đây tôi xin nói thêm về vị tu sĩ ấy. Ông tên là Perôn (Perrault), sinh tại Luxembourg. Trước khi hiến mình xung vào đoàn truyền giáo Viễn đông, ông đã từng theo học ở Pari, Bolonho và nhiều trường đại học khác; có thể gọi ông là một nhà bác học. Hiện nay vẫn còn có rất ít những ghi chép về cuộc đời ban đầu của ông, nhưng với một người tuổi tác nghề nghiệp như ông ta, thì điều đó cũng chẳng có gì là khác thường. Ông ham thích âm nhạc, nghệ thuật, có khả năng đặc biệt về ngôn ngữ, và trước khi vững tin vào thiên hướng của mình, ông đã từng nếm trải đủ mọi thứ quen thuộc trên đời. Malplaquet1 đã chiến đấu hồi ông còn trẻ tuổi, và qua tiếp xúc của bản thân, ông đã hiểu rõ những nỗi ghê sợ của chiến tranh và xâm lăng. Về thể chất ông là một con người cường tráng; trong những năm đầu tiên ở đây, ông đã lao động với chính hai bàn tay của mình cũng như những người khác: Vun xới lấy thửa vườn, vừa học hỏi những người dân ở đây vừa dạy bảo họ. Ông tìm thấy những trữ lượng vàng dọc thung lũng, song cái đó đã không lôi cuốn được ông, ông quan tâm nhiều hơn đến những cây cỏ ở vùng này. Ông khiêm tốn và không hề cuồng tín. Ông phản đối chế độ đa thê, nhưng ông thấy không có lý do gì để công kích thói quen thích dùng quả tangatse2 mà người ta cho là có nhiều đặc tính chữa bệnh, thứ quả này thông dụng chủ yếu có tác dụng gây ngủ dịu dàng. Thực sự bản thân Perôn phần nào mắc nghiện, và đó là cách ông tiếp nhận tất cả những gì cuộc sống của người dân địa phương đem lại cho ông mà ông thấy không có hại và thích thú để đổi lấy cái kho báu tinh thần từ phương Tây ông mang tới. Ông không phải là một nhà tu khổ hạnh; ông biết hưởng những vật ngon của lạ trên đời, và rất cần cù cẩn thận trong việc bảo ban những tín đồ của ông cách nấu nướng cũng như cách đọc kinh. Tôi muốn ông có một ấn tượng về một con người đứng đắn, chăm chỉ làm việc, có học thức rộng, giản dị và nhiệt tình, một con người làm trọn chức vụ một thầy tu, nhưng cũng không nề hà khoác chiếc áo người thợ nề, giúp một tay thực sự vào việc xây cất chính những căn phòng này. Tất nhiên, công việc xây dựng nơi đây là một việc vô cùng khó khăn, một công việc chỉ nhờ vào lòng tự hào và chí kiên cường của ông ta mới có thể vượt qua được. Lòng tự hào, đúng vậy, vì chắc chắn đấy là động cơ chủ yếu lúc ban đầu - lòng tự hào về niềm tin của chính mình đã khiến ông quyết định, nếu Đức Phật tổ khiến được con người xây dựng nên ngôi chùa ở bên rìa Shangri-La, thì La Mã cũng có thể làm không kém.”

1 Tên một làng ở Pháp, nổi tiếng bởi cuộc chiến tranh giết hại nhiều sinh mạng giữa Macbơrô, ông hoàng Ơghen thắng thống chế Vila (1709).

2 Quả thuốc phiện.

“Nhưng thời gian trôi qua, cũng không phải là phi tự nhiên, cái động cơ ấy dần dần nhường chỗ cho những động cơ lặng lẽ hơn. Suy cho cùng, ganh đua là tinh thần của lớp trai trẻ, còn Perôn, khi khu tu viện của ông hoàn thành ông đã nhiều tuổi lắm rồi. Ông cần lưu ý rằng, theo một quan điểm nghiêm ngặt, thì ông ta đã không sống hết sức theo khuôn phép đâu; mặc dầu đối với một tu sĩ mà các bậc bề trên lại ở xa, đường xa tính bằng con số chứ không phải bằng số dặm, hẳn cũng phải rộng nới phần nào khuôn phép. Nhưng dân ở thung lũng và chính ngay những thầy tu cũng không giảm lòng tin vào ông, họ vẫn mến và vâng lời ông. Cứ một khoảng thời gian, ông đều đã gửi báo cáo về cho vị Giám mục ở Bắc Kinh; song những báo cáo ấy thường là không bao giờ về tới tay vị Giám mục, có thể do những người mang đã bị chết ở dọc đường vì những gian nguy thường có. Ông Perôn dần dần không muốn để có người bị thiệt mạng về việc ấy nữa nên vào khoảng giữa thế kỷ, ông thôi không gửi báo cáo nữa. Tuy nhiên, hẳn một vài bản báo cáo ban đầu đã có lọt về được, do vậy đã nổi lên chuyện nghi ngờ về những hoạt động của ông, vì vào năm 1769, có một người lạ mang đến một bức thư viết từ mười hai năm trước, nội dung thư yêu cầu Perôn trở về La Mã.”

“Nếu bức thư không bị chậm thì năm ấy ông chỉ mới ngoài bảy mươi, nhưng vì chậm nên lúc nhận được thư, ông đã tám mươi chín tuổi. Cuộc hành trình bằng xe cộ thô sơ vượt núi và cao nguyên là không thể nghĩ đến được, ông không còn chịu đựng được những trận cuồng phong gào thét cùng cái rét cóng xương ở vùng hoang dã ngoài kia. Do đó, ông đã viết một tờ phúc đáp, lời lẽ lễ phép nói rõ hoàn cảnh của ông, song không hề thấy ghi lá thư phúc đáp của ông đã lọt qua được bức tường chắn của những rặng núi cao.”

“Vậy là Perôn ở lại Shangri-La thực sự không phải kháng lệnh của bề trên, mà vì chính cơ thể ông không cho phép ông tuân lệnh được. Dù sao thì ông cũng đã già lắm rồi, chẳng mấy nữa cái chết chắc chắn sẽ chấm dứt ông cùng những sai trái của ông. Vào lúc đó, cái tu viện ông dựng lên, đã bắt đầu có một sự thay đổi tế nhị, nhưng điều ấy thực ra cũng chẳng đáng ngạc nhiên lắm, vì thực không thể mong chờ ở một người không có ai giúp đỡ xóa đi vĩnh viễn những thói quen và những truyền thống của cả một thời đại. Ông không có những đồng nghiệp Tây phương để nắm vững khi tay nắm của ông đã lơi ra, và có lẽ đây cũng là một sai lầm khi xây dựng tu viện trên một vùng từng có những kỷ niệm khác biệt và lâu đời hơn. Như vậy là đòi hỏi quá nhiểu; nhưng phải chăng thậm chí là đòi hỏi còn hơn thế khi đòi hỏi ông già kỳ cựu tóc bạc trắng vừa bước vào tuổi ngoài chín mươi, phải nhận ra điều sai lầm mình đã mắc phải? Dù sao thì khi ấy Perôn đã không nhận ra. Ông đã quá già và trong lòng sung sướng. Những người theo ông đối với ông rất tận tâm, ngay cả khi họ đã quên những lời ông giảng dạy, còn dân ở dưới thung lũng họ vẫn yêu mến tôn kính ông, nên ông ngày càng dễ dàng tha thứ cho việc họ quay trở lại với những thói quen cũ. Ông vẫn còn hoạt bát, đầu óc vẫn còn cực kỳ sáng suốt. Năm chín mươi tám tuổi, ông bắt đầu nghiên cứu những cuốn kinh Phật do những nhà sư trước đây để lại ở Shangri-La. Ý định của ông là dùng những năm tháng còn lại của cuộc đời mình vào việc soạn ra một cuốn sách, đứng trên vị trí của chính thống giáo để công kích đạo Phật.

Ông đã thực sự hoàn thành công trình ấy (chúng tôi hiện có toàn bộ bản thảo), nhưng lời lẽ công kích rất hòa nhã, vì lúc ấy tuổi ông đã tròn con số một thế kỷ - cái tuổi mà ngay cả những sự chua cay gay gắt nhất cũng dễ dàng phai nhạt đi.”

“Trong thời gian ấy, như ông cũng có thể đoán được, nhiều người trong số những đệ tử ban đầu của ông đã qua đời, và do người thay thế có ít, nên con số tín đồ theo dòng Capuysanh giảm đi mạnh mẽ. Từ con số một thời kỳ đã trên tám mươi, giảm xuống vài chục, rồi vẻn vẹn còn có mười hai mà hầu hết đều cũng đã già lắm rồi.

Thời gian này cuộc đời của Perôn ngày càng trở nên rất thanh thản, bình tĩnh đợi ngày vĩnh biệt. Ông đã quá già không còn biết đến bệnh tật và sự không vừa lòng, giờ đây chỉ có giấc ngủ ngàn thu là có quyền đòi hỏi ông mà thôi, nên ông không sợ gì hết. Dân dưới thung lũng đầy lòng nhân hậu cung cấp cho ông thức ăn và quần áo mặc; thư viện cho ông tư liệu để làm việc. Sức ông yếu dần, nhưng vẫn đủ nghị lực để hoàn tất mọi chi tiết buổi đại lễ; những ngày yên tĩnh còn lại, ông dùng vào việc đọc sách, viết hồi ký và phiêu diêu với khói thuốc phiện. Đầu óc ông vẫn sáng suốt cực kỳ, khiến ông thậm chí còn nghiên cứu một số pháp thuật huyền bí mà người Ấn Độ gọi là Yoga, cơ sở dựa trên một số phương pháp hít thở đặc biệt. Với một người già cả như vậy, làm công việc này xem ra có thể nguy hiểm, và thực tế, ít lâu ngay sau đó, trong cái năm đáng ghi nhớ 1789 ấy, có tin đồn xuống thung lũng là Perôn cuối cùng đã chết.”

“Ông Conuê ạ, ông ta nằm trong căn phòng này, từ đấy qua cửa sổ, ông nhìn thấy được khoảng mờ trắng mà cặp mắt yếu kém của ông chỉ nhìn thấy được thế về ngọn Karakan; song ông còn có thể nhìn bằng tâm trí nữa; ông có thể hình dung thấy những đường nét rõ ràng và không gì so sánh được mà lần đầu tiên ông đã nhìn thấy cách đây một nửa thế kỷ. Và ông cũng thấy diễu qua một cách kỳ lạ tất cả những sự kiện ông đã trải qua, những năm tháng rong ruổi qua sa mạc, cao nguyên, những đám đông người ở thành phố phương Tây, tiếng vó ngựa vang rền, binh khí lấp lánh của những đoàn quân của Macbơrơ. Ông tĩnh trí lại, đầu óc thanh thản như mặt tuyết trắng; ông sẵn sàng, mong muốn, vui vẻ chết. Ông ta đã tập hợp lại các bạn bè và người giúp việc quanh mình và ngỏ lời từ biệt họ; rồi ông xin họ lui ra để ông ở lại một mình một thời gian. Chính trong lúc nằm một mình ấy, thân thể thì chìm xuống và linh hồn bay bổng lên cõi Phúc, là lúc ông mong được trút linh hồn… Nhưng điều đó đã không xảy ra. Ông nằm như vậy liền suốt mấy tuần lễ không nói năng, cử động và rồi bắt đầu bình phục. Năm ấy ông một trăm linh tám tuổi.”

Tiếng thì thầm ngừng lại một lúc và Conuê khẽ nhúc nhích, anh thấy như vị Lama tu viện trưởng vừa kể lại một cách lưu loát một giấc mơ xa xôi của chính ông. Một lát sau ông tiếp tục:

“Cũng như nhiều người khác đã chờ đợi lâu trên thềm của thần chết, Perôn đã mơ thấy một quang cảnh rất quan trọng để rồi mang về hạ giới; về cảnh mơ này sẽ phải nói thêm về sau. Ở đây, tôi chỉ khuôn lại nói về những hành động và cách cư xử của ông ta, những điều thực sự đáng chú ý. Vì đáng lẽ nghỉ ngơi dưỡng bệnh không làm gì như thường tình thì ông lại lao vào một chế độ tự khuôn mình vào kỷ luật khắc khổ, phần nào kết hợp một cách kỳ lạ với sự lỏng lẻo được dùng thuốc phiện. Vừa hút thuốc vừa tập thở - một chế độ dưỡng sinh dường như không phải là phương thuốc có thể kéo dài cuộc sống; nhưng sự thực vẫn còn đó là năm 1794, khi vị tăng già nhất cuối cùng mất đi, thì bản thân Perôn vẫn còn sống.”

“Nếu ở Shangri-La có một nhà hài hước khéo xuyên tạc hẳn ông ta đã phải mỉm cười. Thầy dòng Capuysanh già nhăn nheo này không hom hem, lụ khụ như mười hai năm trước; giờ đây, ông đi sâu vào tu luyện một phép bí mật mà ông đã sáng tạo ra, trong lúc với người dân ở thung lũng, ông sống sau một màn huyền bí, một ẩn sĩ có pháp thuật sống một mình trên vách đá khủng khiếp này. Nhưng người dân ở đây vẫn còn truyền thống mến yêu ông, và rồi người ta coi việc leo lên Shangri-La dâng một chút lễ vật, hoặc làm hộ một việc gì cần đến ở đấy, là đáng khen và nó sẽ mang lại phúc cho người hành hương. Perôn người vẫn ban phúc cho họ - có thể ông đã quên đi rằng đấy là những con chiên đã lạc đường. Vì những bài kinh như Te Deum Landamuơ và Om Mane Padme Hum giờ đây vẫn nghe thấy tụng cả ở trong những đền chùa dưới thung lũng.”

“Khi thế kỷ mới lại gần thì câu chuyện truyền thuyết trở thành một câu chuyện dân gian kỳ lạ và phong phú - người ta nói Perôn đã hóa thánh, rằng ông có phép làm được điều kỳ lạ, và có nhiều đêm ông đã bay lên đỉnh ngọn Karakan để giơ một cây nến lên bầu trời. Vào những đêm trăng rằm bao giờ trên ngọn núi cũng có màu xanh nhạt, nhưng tôi chẳng cần khẳng định với ông rằng chẳng có Perôn hay một ai khác đã trèo lên đấy. Tôi nêu lên việc này, tuy xem ra có thể là không cần thiết, vì có rất nhiều chứng cớ không tin được đã nói rằng chính Perôn đã làm và Perôn có thể làm đủ mọi thứ việc không thể làm được. Chẳng hạn, người ta cho là ông đã có phép tự mình bay được; những chuyện này có rất nhiều trong kinh sách huyền bí của đạo Phật; song sự thật là, ông đã nhiều lần làm thí nghiệm về việc này nhưng hoàn toàn vô hiệu. Tuy nhiên, ông đã phát hiện ra là sự thiệt thòi về những giác quan thường của con người có thể phần nào được bù đắp bằng sự phát triển của những giác quan khác; ông có được khả năng về thần giao cách cảm khá điêu luyện; tuy ông không khoe mình có phép đặc biệt chữa bệnh, nhưng sự hiện diện của ông ở một số trường hợp đã khiến cho việc chữa bệnh được dễ dàng hơn.”

“Ông hẳn muốn biết ông ta đã sống ra sao trong những năm chưa từng có ấy. Thái độ của ông ta có thể tóm tắt là, vì ông ta đã không chết ở tuổi bình thường, nếu ông bắt đầu cảm thấy không có một lý do nào có thể phát hiện được cho biết tại sao ông sẽ phải hoặc sẽ không phải chết vào một thời điểm nhất định nào đấy trong tương lai. Vì đã tỏ ra là mình khác thường, nên cũng dễ dàng tin rằng, cái tính khác thường ấy có thể tiếp tục chờ nó kết thúc vào một lúc nào đó. Trong tình trạng như vậy, ông bắt đầu không đếm xỉa đến cái điều nhất định sẽ phải đến mà từ bao nhiêu năm trước đây ông vẫn hằng bận tâm; ông bắt đầu sống cuộc sống ông vẫn hằng mơ ước nhưng rất hiếm khi thấy có thể có được; vì suốt trong cuộc đời thăng trầm, ông luôn luôn tâm niệm mong muốn được làm một nhà học giả. Trí nhớ của ông thực kỳ lạ: Hình như nó đã thoát khỏi ràng buộc của vật chất để bay cao tới vùng sáng láng vô biên ở trên cao; cũng dường như giờ đây ông có thể học được tất cả còn dễ dàng hơn nhiều hồi học sinh ông có thể học được một điều gì. Tất nhiên, chẳng mấy ông ta đã không cần đến sách, song vẫn có mấy cuốn ông có ngay từ đầu mà ông có thể thích thú nghe, như một cuốn văn phạm và cuốn từ điển tiếng Anh, một bản dịch Montaigne của Florio. Làm việc với những cuốn sách đó, ông ta đã nắm được những khó khăn phức tạp trong ngôn ngữ nước ông đấy và hiện nay trong thư viện chúng tôi, vẫn còn giữ được một tập những bài tập về ngôn ngữ đầu tiên - bản thảo dịch thử phần nói về thói phù hoa của Montaigne ra tiếng Tây Tạng - chắc chắn đây là một công trình duy nhất.”

Conuê mỉm cười: “Nếu có thể tôi sẽ rất thích thú được xem cuốn sách đó.”

“Xin rất vui lòng mời ông xem. Ông có thể nghĩ đấy là một việc làm không thực tế một cách kỳ lạ, nhưng xin nhớ cho là Perôn lúc ấy cũng đã đạt tới cái tuổi phi thực tế một cách kỳ lạ. Nếu không làm một số những công việc ấy hẳn ông ta sẽ cảm thấy cô đơn hiu quạnh - dù sao thì cũng cho đến năm thứ tư của thế kỷ mười chín, cái năm đánh dấu một sự kiện quan trọng trong lịch sử tu viện của chúng tôi. Vì trong năm ấy có một người lạ thứ hai từ châu Âu đã đến được thung lũng Trăng Xanh này. Ông ta là một thanh niên người Áo, tên là Hăngsen, đã đi lính chống lại Napoleon ở Ý - một thanh niên dòng dõi quý tộc, có học thức cao, thái độ cư xử dễ cảm phục lòng người. Chiến tranh đã tàn phá tài sản của ông, và ông đã đi lang thang qua nước Nga vào châu Á, với ý định mơ hồ phục hồi lại gia sản. Nếu biết được đích xác ông ấy đã đến vùng cao nguyên ra sao thì thực là thú vị, nhưng chính ông ta cũng không còn biết rõ nữa. Thực vậy, khi tới đây, ông ta cũng đã hấp hối gần chết như Perôn trước kia. Tấm lòng mến khách của Shangri-La đã mở rộng và người lạ kia đã được bình phục - song đến đây là để cầu kinh và truyền giáo, còn Hăngsen lại quan tâm ngay đến những trữ lượng vàng. Niềm khao khát đầu tiên của ông ta là làm giàu rồi trở về châu Âu càng sớm càng hay.”

“Nhưng rồi ông ta đã không trở về. Một sự kiện kỳ lạ đã xảy ra - tuy vậy, đấy là sự kiện vẫn thường xảy ra, khiến có lẽ chúng tôi phải thừa nhận rằng, suy cho cùng, nó không thể là rất kỳ lạ. Khu thung lũng với cái không khí thanh bình của nó, với sự thanh thản không bận chút lo lắng của trần gian đã làm ông ta cứ lưu luyến lần chần chưa muốn ra đi, và một hôm, được nghe câu chuyện huyền thoại của địa phương, ông ta đã trèo lên Shangri-La và lần đầu tiên gặp Perôn.”

“Cuộc gặp gỡ này theo ý nghĩa đúng nhất là cuộc gặp gỡ lịch sử Perôn, ngoài những tình cảm thiết tha của con người như tình bạn và lòng yêu mến, lại còn có lòng nhân từ cao độ trong tâm hồn và ông đã cảm hóa được anh thanh niên như nước thấm vào đất khô nẻ. Tôi sẽ không tả lại sự kết giao nảy sinh giữa hai người; một người thì tỏ ra kính yêu tột bậc, còn người kia thì chia sẻ sự hiểu biết, niềm vui của mình cùng với giấc mơ kỳ lạ mà giờ đây trở thành cái thực tại duy nhất còn lại với ông ở trên đời này.”

Một phút ngừng lại và Conuê rất khẽ khàng nói: “Tôi xin ông cho phép ngắt lời, những điều ông vừa nói tôi chưa hiểu rõ lắm.”

“Tôi biết.” Tiếng thì thầm đáp lại đầy thông cảm. “Thực tế, đấy là một điều rất đáng chú ý. Đấy là một vấn đề mà tôi sẽ vui lòng nói rõ trước khi chúng ta kết thúc câu chuyện, còn bây giờ, nếu ông thứ lỗi, tôi sẽ chỉ nói về những sự việc đơn giản hơn. Một việc mà chắc ông sẽ lấy làm thú vị là Hăngsen bắt đầu làm công việc sưu tập những sản phẩm nghệ thuật Trung Quốc cho chúng tôi, cũng như tổ chức thành lập một thư viện cùng mua sắm những nhạc cụ cho tu viện. Ông đã đi một chuyến về Bắc Kinh và mang về một chuyến hàng đầu tiên vào năm 1809. Ông không rời thung lũng đi nữa, nhưng đã khéo léo tổ chức được một hệ thống phức tạp, nhờ đó tu viện Lama ở đây, từ đấy, có thể mua được những thứ cần thiết từ thế giới bên ngoài.”

“Tôi nghĩ rằng việc thanh toán bằng vàng của các ông sẽ dễ dàng?”

“Vâng, chúng tôi cũng may là có được một số nguồn kim loại mà những nơi khác trên thế giới rất ưa chuộng.”

“Cái rất ưa chuộng mà hẳn các ông đã may mắn thoát khỏi cuộc lao vào tìm vàng.”

Vị Lama tu viện trưởng khẽ gật đầu tỏ ý thừa nhận. “Ông Conuê, đấy chính là điều Hăngsen luôn luôn lo sợ. Ông ta đã tỏ ra rất cẩn thận, không để cho một người phu khuân vác sách và sản phẩm nghệ thuật được lại quá gần; ông ta bảo họ để hàng lại ở ngoài, cách đây một ngày đường, rồi sau đó chính người dân ở thung lũng chúng tôi ra lấy vào. Thậm chí ông còn bố trí người liên tục canh gác lối hẻm núi đường vào. Nhưng ít lâu sau, ông thấy có một cách bảo vệ dễ dàng và chắc chắn hơn nhiều.”

“Cách nào ạ?” Conuê hỏi giọng bồn chồn thận trọng.

“Ông biết đấy, không cần phải sợ bị một đạo quân tấn công xâm lược. Điều đó sẽ chẳng bao giờ có thể xảy ra được vì đường đất quá xa, núi non hiểm trở. Cái có thể xảy ra họa chăng nhất chỉ là một số người lang thang gần như lạc đường, dù cho họ có vũ khí thì đến đây cơ thể họ cũng đã yếu quá không còn gây được chuyện gì nguy hiểm. Do đó, chúng tôi quyết định từ nay trở đi người lạ có thể tự do đến đây nếu họ muốn - với chỉ có một điều kiện quan trọng.”

“Và trong nhiều năm đã có những người lạ như vậy đến. Những nhà buôn Trung Hoa, với ý muốn vượt qua khu cao nguyên, đã đôi khi ngẫu nhiên qua được lối đi tắt này trong số nhiều con đường khác họ có thể đi được. Những người Tây Tạng du mục, từ các bộ lạc của họ đi lang thang, đôi khi lạc đến đây như những con vật yếu đuối. Tất cả đều đã được đón chào, mặc dầu một số khi đến được khu thung lũng để trú ẩn, chưa kịp làm gì đã chết. Năm xảy ra trận đánh nhau Oateclo, có hai nhà truyền giáo Anh, đi bộ đến Bắc Kinh, vượt qua được những dãy núi cao bằng một hẻm núi không có tên và rất may mắn tới được đây một cách bình yên như thể họ đến thăm nơi này vậy. Năm 1820, có một nhà buôn Hy Lạp, với một đoàn gia nhân đầy tớ ốm yếu và đói lả đi theo; người ta đã thấy họ nằm chết trên chỏm thượng đỉnh của hẻm núi. Năm 1822, có ba người Tây Ban Nha, nghe lờ mờ câu chuyện về vàng, đã đến được đây sau bao nhiêu gian lao và thất vọng. Lại vào năm 1830, số người đến đây đông hơn: Hai người Đức, một người Nga, một người Anh và một người Thụy Điển. Họ đã vượt qua con đường Tian Shans đầy nguy hiểm, do một động cơ ngày càng trở nên phổ biến đó là thám hiểm khoa học.

Vào thời gian họ tới gần đây, đã có một chút sửa đổi về thái độ của Shangri-La đối với khách đến thăm - không những họ được chào đón nếu họ ngẫu nhiên tìm được đường vào thung lũng, mà chúng tôi còn có lệ quen ra đón khách khi họ đến được khu vực quanh gần đây. Tất cả những thay đổi này vì một lý do mà tôi sẽ bàn đến sau, nhưng điểm quan trọng tỏ rõ là tu viện vẫn luôn luôn mến khách; giờ đây, nó vừa cần lại vừa muốn có người mới đến. Và, thực vậy, trong những năm về sau, nhiều đoàn thám hiểm tự hào vì đã lần đầu tiên nhìn xa thấy ngọn núi Karakan, đã gặp người thân mật mời chào - và lời chào ít khi bị từ chối.”

“Trong khi đó, tu viện đã bắt đầu có được nhiều những đặc tính như hiện nay. Tôi phải nhấn mạnh vào sự việc Hăngsen là một người có khả năng tài cán vượt bậc và Shangri-La được như ngày nay là nhờ rất nhiều vào công lao của ông ta cũng như của người sáng lập ra nó. Phải, cũng nhiều như vậy, tôi vẫn thường nghĩ thế. Vì ông ta là một con người kiên cường lại tử tế, đầy thân ái nên cơ sở nào cũng cần đến vào giai đoạn phát triển nào đó của mình, và sự việc ông mất đi sẽ không gì có thể bù đắp được nếu ông đã không hoàn tất một số công việc của hơn cả một đời người trước khi ông chết.”

Conuê ngước mắt nhìn lên và như lặp lại mấy lời cuối hơn là đặt câu hỏi. “Ông chết?”

“Phải. Sự việc xảy ra đột ngột. Ông Hăngsen đã bị giết chết. Ấy là vào năm có cuộc bạo loạn ở Ấn Độ của các ông. Vừa chỉ ít lâu trước khi ông chết, một họa sĩ Trung Quốc đã phác họa chân dung ông, và tôi có thể đưa ông xem bức phác họa đó ngay bây giờ - nó đang được đặt ở trong phòng này.”

Một cử chỉ khoát tay nhẹ được nhắc lại, và lại một lần nữa người phục vụ bước vào. Conuê, như một khán giả trong trạng thái hôn mê, nhìn người phục vụ vén một chiếc mành nhỏ ở phía xa đàng cuối phòng, và để một ngọn đèn lồng lắc lư trong bóng tối. Rồi anh nghe có tiếng thì thào bảo anh bước lên, và thực kỳ lạ, anh thấy khó khăn biết mấy để làm việc này.

Anh vấp chân, rồi bước qua cái vòng ánh sáng rung rinh. Bức phác họa nhỏ bé, chỉ hơn bức tiểu họa vẽ bằng mực màu một chút, nhưng nhà họa sĩ đã vẽ được nước da màu sáp nặn rất mịn. Đường nét gương mặt rất đẹp, gần như vẻ mặt một cô gái làm mẫu vẽ. Conuê thấy trong những đường nét hấp dẫn ấy có sức quyến rũ trực tiếp kỳ lạ, bất chấp thời gian, cái chết và kỹ xảo. Nhưng điều lạ lùng nhất mà chỉ sau phút đầu tiên kinh ngạc và thán phục anh mới nhận ra đó là gương mặt phác họa, là gương mặt của một thanh niên.

Anh lầm bầm khi đi ra: “Nhưng ngài nói bức phác họa này được vẽ ngay trước khi ông ta chết?”

“Đúng thế. Bức chân dung rất giống.” “Vậy nếu ông ấy chết năm ngài nói…” “Phải.”

“Và ông ấy đến đây, như ngài cho biết, vào năm 1803, khi ông còn là một thanh niên.”

“Phải.”

Conuê không đáp ngay; lát sau, anh cố gắng trấn tĩnh lại nói: “Và ngài nói ông ấy đã bị giết?”

“Phải. Một người Anh đã bắn chết ông ta. Sự việc xảy ra sau mấy tuần người Anh nọ đến Shangri-La. Người này là một trong số những nhà thám hiểm.”

“Thưa ngài, nguyên nhân là do đâu?”

“Một cuộc cãi cọ đã xảy ra - về mấy người phu khuân vác. Hăngsen đã nói cho ông ta biết về điều kiện quan trọng cần tuân thủ trong việc tiếp khách của chúng tôi. Đấy là một nhiệm vụ khá khó khăn và kể từ đấy, mặc dầu bản thân tôi đã yếu rồi, tôi vẫn cảm thấy mình bắt buộc phải thực hiện công việc đó.”

Vị Lama tu viện trưởng lại nghỉ một chút nữa lâu hơn, trong yên lặng, như muốn hỏi điều gì; khi tiếp tục, ông nói thêm: “Ông Conuê thân mến, có lẽ ông băn khoăn muốn biết điều kiện ấy là gì?”

Conuê chậm rãi khe khẽ đáp: “Tôi nghĩ rằng tôi đã có thể đoán ra.”

“Ông đoán được? Thực thế ư? Và ông còn đoán được điều gì khác sau câu chuyện dài và kỳ cục mà tôi vừa kể?”

Đầu óc Conuê choáng váng khi anh tìm câu trả lời; lúc này căn phòng là một vòng xoắn những bóng tối; ở giữa là ông già nhân từ cổ kính này. Suốt câu chuyện, Conuê đã hết sức chăm chú lắng nghe, có lẽ điều đó đã khiến anh không hiểu hết mọi quan hệ mật thiết trong toàn bộ câu chuyện; giờ đây, tỉnh lại tìm câu trả lời có ý thức, anh thấy kinh ngạc quá, cái chắc chắn đang tụ tập trong đầu óc anh gần như bị nghẹt lại khi nó nảy tung lên thành lời nói. Anh lắp bắp nói:

“Dường như không thể có được. Nhưng tôi vẫn không thể không nghĩ đến nó - kỳ lạ thực, phi thường thực và cũng rất khó tin - vậy mà vẫn không tuyệt đối ngoài sự tin tưởng của tôi…”

“Điều gì vậy, con?”

Và Conuê đáp, người anh rung lên vì một mối xúc động mà anh không rõ nguyên do và anh cũng không tìm cách che giấu:

“Vậy là Cha vẫn còn sống, Cha Perôn?”