S
áng ra anh phân vân không biết tất cả những gì anh có thể nhớ lại có phải là một phần của giấc mơ trong lúc anh thức hoặc lúc anh ngủ không.
Nhưng rồi anh được nhắc nhở ngay. Lúc anh ra ăn điểm tâm thì mọi người xô lại cùng hỏi anh.
“Đêm qua chắc anh đã nói chuyện lâu với ngài chủ ở đây?” Anh người Mỹ bắt đầu, “chúng tôi định đợi anh nhưng sau mệt quá. Ông ta là người thế nào?”
“Ông ta có nói gì về vấn đề phu khuân vác không?” Malinxơn háo hức hỏi.
“Tôi hi vọng anh đã cho ông ta biết là có một nhà truyền giáo đang ở đây.” Cô Brinklô nói.
Những câu hỏi dồn dập đã khiến Conuê phải dùng đến thứ vũ khí tự vệ quen thuộc: “Tôi e rằng có thể tôi sẽ làm tất cả các bạn thất vọng.” Anh đáp. “Tôi không có bàn với ông ta về vấn đề truyền giáo, ông ta cũng không nói gì về vấn đề người khuân vác; còn về vẻ người ông ta tôi chỉ có thể nói ông ta là một ông cụ rất già, nói tiếng Anh rất thạo và thực là thông minh.”
Malinxơn cắt ngang, vẻ bực tức: “Điều chủ yếu với chúng ta là ông ta có đáng tin hay không. Anh có nghĩ ông ta có chịu để chúng ta trở về không?”
“Tôi không thấy gì ở ông ta tỏ ra là một con người không biết trọng danh dự.”
“Trời ơi, thế tại sao anh lại không nói với ông ta về vấn đề phu khuân vác?”
“Tôi cũng quên khuấy đi.”
Malinxơn trố mắt nhìn anh, vẻ không tin.” Anh Conuê, thực tôi không thể hiểu anh. Trong công việc ở Baxkun, anh cực kỳ tháo vát, còn bây giờ ở đây, tôi khó có thể tin anh vẫn là con người ấy. Anh dường như đã tan ra từng mảnh rồi!”
“Tôi thực lấy làm buồn.”
“Vấn đề không phải là buồn, anh phải quẫy lên mà nhìn, như thể anh quan tâm đến những gì đang xảy ra chứ.”
“Chú hiểu lầm anh. Anh muốn nói anh lấy làm buồn vì đã làm chú thất vọng.”
Giọng Conuê cộc lốc, chủ tâm để giấu kín tình cảm của mình, tình cảm lúc này pha trộn quá, khiến người khác khó có thể đoán được. Bản thân anh cũng hơi ngạc nhiên khi thấy mình nói lảng một cách dễ dàng như vậy; rõ ràng là anh đã nghe theo, lời vị Lama tu viện trưởng dặn dò giữ kín.
Anh bối rối khi thấy mình chấp nhận cái thế đứng này một cách tự nhiên, cái thế đứng mà những người cùng đi với anh chắc chắn, và có phần nào đúng, sẽ coi anh là kẻ phản bội như Malinxơn đã nói, đó không phải là điều mong chờ ở một con người anh hùng. Conuê thốt nhiên cảm thấy nửa trìu mến nửa thương hại anh thanh niên; nhưng rồi anh cứng rắn lại với ý nghĩ là những ai tôn thờ anh hùng phải được chuẩn bị để gặp cảnh vỡ mộng. Ở Baxkun, Malinxơn là một chú bé thán phục sát đất anh thủ quân xinh trai, thế mà giờ đây anh thủ quân đang chao đảo, nếu không phải là đã ngã nhào từ trên tượng đài xuống. Bao giờ cũng vẫn có chút ít cảm động khi nhìn một lý tưởng tan vỡ, dù cho lý tưởng ấy có giả dối đến đâu; và sự thán phục của Malinxơn có thể ít ra cũng xoa dịu được phần nào sự căng thẳng tinh thần khi anh phải giả vờ sống không đúng con người thực của mình. Song, dù sao thì cũng không thể giả vờ được. Không khí ở Shangri-La đây - có thể do nó ở độ cao nên không cho phép người ta cố gắng giả vờ trong cảm xúc.
Anh nói: “Này chú Malinxơn, chú đừng có nhắc mãi về Baxkun. Tất nhiên, hồi ấy khác - hoàn cảnh ở đấy hoàn toàn khác hẳn.”
“Và theo tôi khỏe khoắn hơn nhiều. Ít nhất thì chúng ta cũng biết mình đang đương đầu với cái gì.”
“Nói cho chính xác: Với những chuyện chết chóc và hãm hiếp. Chú có thể gọi những cái đó là khỏe khoắn hơn nếu chú thích.”
Anh thanh niên to tiếng khi đáp lại: “Ồ, tôi cứ gọi thế là khỏe khoắn hơn - theo một ý nghĩa. Đấy là một cái gì mà tôi muốn đối mặt còn hơn là tất cả câu chuyện bí hiểm này.” Rồi, thốt nhiên, anh ta nói thêm: “Chẳng hạn cái cô gái Trung Quốc nọ - cô ta đến đây bằng cách nào? Ông ta có nói cho anh biết không?
“Không. Mà việc gì ông ta phải nói?”
“Ồ, tại sao ông ta không nói? Và tại sao anh lại không hỏi? Nếu anh có quan tâm một chút đến vấn đề ấy? Một cô gái sống với một lô những thầy tu, điều ấy có bình thường không?”
Lối nhìn sự việc như vậy là điều trước đây Conuê không nghĩ đến. Sau một lúc suy nghĩ anh mới đưa ra được câu trả lời tốt nhất: “Đây không phải là một tu viện như mọi tu viện khác.”
Im lặng, vì câu chuyện tranh cãi rõ ràng đã đi đến ngõ cụt. Với Conuê, câu chuyện về Lo-Tsen dường như không có gì là quan trọng; cô bé Mãn Châu nằm quá im lặng trong đầu óc anh, khiến anh không biết có cô ta ở đấy. Nhưng vừa có người khác nhắc đến cô bé, thốt nhiên cô Brinklô đang đọc cuốn văn phạm Tây Tạng ngước mắt lên, cuốn văn phạm mà cô đặt ngay trên bàn ăn điểm tâm để đọc (như thể, Conuê nghĩ thầm trong bụng, cả đời cô cũng không đủ thì giờ để đọc). Chuyện về các cô gái và các thầy tu khiến cô nhớ đến những câu chuyện về các đền chùa Ấn Độ mà các nhà truyền giáo đàn ông đã kể lại cho các bà vợ nghe, rồi các bà lại truyền tai cho các bạn đồng nghiệp chưa chồng. “Tất nhiên,” cô mắm môi lại, nói: “đạo đức ở nơi này thật tệ hại - chúng ta đã biết trước mà.” Cô quay lại phía Bacna nhưng muốn anh tán đồng, nhưng anh chàng người Mỹ chỉ nhe răng cười.
“Tôi nghĩ các người chẳng thèm để ý đến ý kiến của tôi về vấn đề đạo đức,” anh ta nói tỉnh khô. “Nhưng tôi cũng tự bảo mình cãi cọ chẳng ích gì. Vì chúng ta buộc phải ở lại đây một thời gian, vậy ta hãy cứ bình tĩnh, yên tâm mà sống.”
Conuê cho ý kiến anh ta là đúng, song Malinxơn vẫn chưa nguôi cơn nóng: “Tôi có thể tin là anh ấy ở đây thích thú hơn ở Đacmua nhiều,” câu nói khóe cạnh đầy ý nghĩa.
“Đacmua ư? Ở cái nhà lao khổng lồ của các anh chứ gì! Tôi hiểu ý anh rồi. Ồ phải, tôi chắc chắn chẳng bao giờ thèm khát làm những con người ở đấy. Và cũng còn điều khác này nữa - tôi chẳng hề phật lòng khi anh chế giễu tôi về việc đó. Da dày nhưng trái tim hiền dịu, con người pha trộn của tôi là vậy đấy.”
Conuê đưa mắt nhìn anh ta, vẻ khen ngợi, còn anh nhìn Malinxơn với chút ít trách móc, nhưng rồi đột nhiên, anh có cảm giác là tất cả họ đều đang đóng vai trên một sân khấu rộng lớn mà cái nền sân khấu, chỉ có anh biết rõ, và sự hiểu biết ấy, không thể truyền đạt cho ai được hết, điều đó khiến anh thốt nhiên muốn được ở lại một mình. Anh chào họ và đi ra ngoài sân nhìn ngọn Karakan, mọi lo âu trong anh đều phai mờ và những băn khoăn dằn vặt về ba người cùng đi đã biến mất trong sự chấp nhận một cách huyền bí kỳ lạ cái thế giới mà họ không thể đoán ra được. Rồi đến một ngày, anh hiểu vậy khi sự lạ lùng của mọi vật làm cho sự lạ lùng của bất kỳ một cái gì ngày càng khó hiểu hơn; khi người ta chấp nhận sự vật cho là đúng chỉ vì sự kinh ngạc sẽ buồn tẻ cho chính mình cũng như cho những người khác. Liệu cho đến bây giờ anh có tiến bộ ở Shangri-La không và anh nhớ là anh đã đạt tới một trạng thái bình thản tương tự, tuy còn kém thích thú rất xa trong những năm anh trải qua chiến tranh.
Anh cần phải bình tĩnh, dù chỉ để thích nghi bản thân với hai cuộc sống mà anh buộc phải khoác vào người. Từ đó trở đi, cùng với những người cùng bị đi đày, anh sống trong một thế giới tùy thuộc vào thời gian những người khuân phu vác đến và sự quay về Ấn Độ, còn vào những lúc khác, chân trời vén lên như một bức màn, thời gian rộng ra, không gian co hẹp lại, và cái tên Trăng Xanh mang một ý nghĩa tượng trưng như thể tương lai có vẻ quá mong manh, là một thứ mà chỉ có thể có được một lần ở trên vầng Trăng Xanh mà thôi. Đôi khi anh phân vân không rõ trong hai cuộc sống anh sống, cái nào thực hơn, nhưng vấn đề là không cấp bách và anh nhớ đến cuộc chiến tranh, vì trong những trận bị oanh tạc nặng nề anh cũng đã từng có cùng một cảm giác an ủi rằng anh đang sống nhiều cuộc sống mà thần chết chỉ có thể yêu sách đòi lấy đi được một mà thôi.
Tu sĩ Tưởng, tất nhiên, giờ đây nói chuyện với anh không chút dè dặt, và hai người đã có nhiều lần nói với nhau về những luật lệ cùng những thói quen của tu viện. Conuê được biết rằng, trong năm đầu, anh sẽ sống cuộc sống bình thường, không phải theo một chế độ đặc biệt nào; tu sĩ Tưởng bao giờ cũng nói vậy, “Để cơ thể quen dần với cuộc sống ở độ cao, và cũng để có thời gian xua tan đi những luyến tiếc về tinh thần và cảm xúc.”
Conuê mỉm cười đáp: “Vậy, tôi cho là ông tin chắc tình cảm con người không thể tồn tại sau năm năm vắng mặt?”
“Nó có thể còn, tu sĩ đáp lại “Nhưng chỉ còn như một thứ hương thơm mà chúng ta có thể hưởng cái chất buồn của nó.”
Sau năm năm tập sự, tu sĩ Tưởng tiếp tục giải thích, quá trình già bắt đầu chậm lại và nếu thành công, nó sẽ khiến cho Conuê vào tuổi năm mươi vẫn coi như mới bốn mươi tuổi - ngưng lại ở tuổi ấy không phải là tồi.
“Thế bản thân ông thì sao?” Conuê hỏi. “Ở trường hợp ông, quá trình ấy diễn biến ra sao?” “À, thưa ông, tôi rất may là đến đây lúc tôi còn rất trẻ - chỉ mới hai mươi hai. Trước đây tôi đi lính - ông có thể không nghĩ đến điều này, tôi chỉ huy một đội quân đi chống phỉ vào năm 1855. Tôi nhận nhiệm vụ trinh sát nếu tôi trở về được để báo cáo lại với các sĩ quan cấp trên, song thực ra, tôi đã lạc đường trên vùng núi, mà trong số hơn một trăm người chỉ có bảy người sống sót, thoát khỏi sự khắc nghiệt của khí hậu. Cuối cùng khi tôi được cứu, mang đến Shangri-La thì tôi ốm yếu quá, sống được chỉ nhờ tuổi còn trẻ và vóc người cường tráng.”
“Hai mươi hai,” Conuê lặp lại vừa nhẩm tính. “Vậy năm nay ông chín mươi bảy tuổi.”
“Vậy, chẳng mấy nữa, nếu được các Lama chấp thuận, tôi sẽ được chính thức thụ pháp.”
“Tôi biết. Ông phải đợi cho đến khi đạt con số tròn?”
“Không, chúng tôi không bị bó hẹp trong một giới hạn tuổi nhất định nào đó, nhưng một trăm tuổi thường được coi là tuổi từ đó trở đi mọi nỗi khát khao và tâm trạng về cuộc sống thường chắc không còn nữa.”
“Tôi cũng nghĩ như vậy. Và về sau thì sao? Ông còn phải tiếp tục chờ đợi bao lâu nữa?”
“Có lý do để tôi hy vọng là tôi sẽ thụ pháp với những viễn cảnh mà Shangri-La đã tạo nên. Trong nhiều năm, có thể là một thế kỷ hoặc hơn nữa.”
Conuê gật đầu. “Tôi không biết có cần chúc mừng ông không - dường như ông có được phần tốt đẹp nhất của hai quãng đời, một thời thanh niên dài và vui vẻ ở phía sau và một thời gian già nhiều tuổi cũng dài và vui vẻ ở trước mắt. Ông bắt đầu già ở dáng vẻ bề ngoài vào bao giờ?”
“Khi tôi quá bảy mươi. Thường thường là như vậy, tuy tôi nghĩ mình vẫn có thể nói là nom trẻ hơn tuổi.”
“Nhất định rồi. Thế giả dụ giờ đây ông phải rời thung lũng này để đi nơi khác thì sẽ ra sao?”
“Thì chết, nếu tôi ở lại nơi xa đây nhiều ngày.” “Vậy, cái không khí là quan trọng chủ yếu?” “Chỉ có một thung lũng Trăng Xanh mà thôi, nhưng ai mong tìm thấy một thung lũng khác cũng như vậy là đòi hỏi quá nhiều ở Thiên nhiên đấy.” “Ồ, cái gì sẽ xảy ra nếu chẳng hạn ông đã rời nơi đây ba mươi năm trước trong thời gian tuổi trẻ của ông đang được kéo dài?”
Tu sĩ Tưởng đáp lại: “Có thể tôi đã chết ngay hồi đó. Dù sao thì tôi nhanh chóng có dáng vóc đầy đủ của một người ở tuổi tôi lúc ấy. Chúng tôi đã có một thí dụ khá kỳ lạ cách đây mấy năm, tuy trước đó đã có nhiều trường hợp. Một người trong chúng tôi đã rời thung lũng để đi tìm một đoàn người nghe nói đang tiến đến. Người ấy là một người Nga đến đây ngay từ thời còn ít tuổi. Anh ta thích nghi lối sống ở đây rất tốt, khiến năm tám mươi tuổi mà nom chỉ như ngoài bốn mươi một chút. Dự tính ông ta không vắng mặt lâu hơn một tuần (một tuần thì không sao cả), nhưng chẳng may ông ta đã bị những người dân bộ tộc du mục bắt cầm tù mang đi khá xa. Chúng tôi cho là ông ta đã gặp tai nạn và đã chết. Tuy nhiên, ba tháng sau, ông ta đã trốn trở về được đây. Song nom ông ta khác hẳn. Tuổi già đã rõ nét trên khuôn mặt cũng như trong từng cử chỉ, cách cư xử của ông ta, và chỉ sau đó ít lâu ông chết, cũng như một ông già qua đời.
Conuê nín lặng không nói gì trong một lúc. Hai người đang nói chuyện trong thư viện, và hầu hết trong suốt lúc nói chuyện, anh cứ nhìn qua cửa sổ về phía hẻm núi, con đường đi ra thế giới bên ngoài; một mảng mây nhỏ trôi qua đỉnh núi. “Ông Tưởng, một câu chuyện có phần ác nghiệt.” Một lúc lâu sau, anh nói tiếp: “Nghe chuyện tôi có cảm giác Thời gian như con quái vật đang chờ ở bên ngoài thung lũng để chồm vào những kẻ phất phơ làm thế nào đó ra khỏi thung lũng một thời gian lâu hơn thời gian cần thiết.”
“Phất phơ?” Tu sĩ Tưởng hỏi lại. Ông rất giỏi tiếng Anh, nhưng đôi khi có những từ dân giã ông không quen.
“Phất phơ,” Conuê giải thích, “là một từ nóng, có nghĩa là anh chàng lười biếng, vô tích sự. Tất nhiên, đấy là tôi dùng từ không nghiêm chỉnh.”
Tu sĩ Tưởng cúi đầu cảm ơn sự giải thích. Ông say mê học ngoại ngữ và thích cân nhắc về mặt triết lý mỗi từ mới. Một lúc sau, ông nói: “Thật đầy ý nghĩa; người Anh coi phất phơ là một thói xấu. Chúng tôi, mặt khác lại thích phất phơ hơn căng thẳng rất nhiều. Thế giới hiện nay chẳng đã có quá nhiều sự căng thẳng, và chẳng đã có thể tốt hơn nếu có nhiều người phất phơ hơn?”
“Tôi muốn đồng ý với ông.” Conuê đáp lại, vẻ trang trọng và thích thú.
Trong vòng độ một tuần sau buổi gặp gỡ và nói chuyện với vị Lama tu viện trưởng Conuê gặp nhiều người khác trong đám những đồng nghiệp sau này của anh. Tu sĩ Tưởng không tỏ ra hăm hở hoặc miễn cưỡng khi giới thiệu anh với những người này, còn Conuê cảm thấy một không khí mới đối với anh, có phần hấp dẫn, trong đó sự vội vã không đòi hỏi ồn ào, mà sự trì hoãn không làm thất vọng. “Thực tế,” tu sĩ Tưởng giải thích, “Một số Lama có thể trong một thời gian dài không gặp anh - có khi hàng nhiều năm - nhưng cái đó anh không được lấy làm ngạc nhiên. Họ được chuẩn bị để làm quen với anh khi có thể được, việc họ tránh không vội vã không có nghĩa phần nào là không muốn gặp.” Conuê thường đã có những cảm giác như vậy khi anh đến gặp những người mới đến ở lãnh sự quán nước ngoài, nên coi đấy là một thái độ rất thông minh.
Tuy nhiên, những cuộc gặp gỡ giữa anh và họ rất có kết quả, và những buổi chuyện trò với những người gấp ba tuổi anh, anh thấy không có những bối rối xã giao như thường có tại London hoặc Đenli. Lần đầu tiên anh gặp một thiên tài người Đức tên là Meister; ông này đã đến tu viện đây vào thập kỷ tám mươi, và là người sống sót trong một đoàn thám hiểm. Ông nói rất thạo tiếng Anh, tuy giọng nói hơi nặng. Một hai ngày sau, anh được giới thiệu với một người thứ hai. Conuê rất thích thú khi lần đầu tiên nói chuyện với người mà vị tu viện trưởng đặc biệt nêu ra, tên là Anphôngxơ Briac, một người Pháp với vóc người bé nhỏ nhưng rắn đanh, nom ông không có gì là già lắm, mặc dầu ông nói mình là học trò của Sopanh. Conuê nghĩ ông này với ông người Đức tỏ ra là những người bạn rất dễ chịu. Trong tiềm thức, anh đã phân tích và sau vài lần gặp nữa anh đã đi đến một vài kết luận chung; anh nhận thấy những Lama anh đã gặp tuy có những cá tính khác nhau, nhưng tất cả đều có một đức tính chung coi sự trẻ mãi lâu già không phải là điểm nổi bật, song đó lại là đức tính duy nhất anh có thể nghĩ đến. Ngoài ra, tất cả họ đều có một đầu óc thông minh, bình tĩnh, biểu hiện ở những ý kiến đưa ra phong phú, thú vị, thận trọng và đúng mức. Conuê tỏ ra tương xứng với họ và biết rằng các vị cũng hiểu điều đó, và lấy làm hài lòng về anh. Anh thấy tiếp xúc với họ hoàn toàn dễ dàng như với những người có văn hóa mà có thể anh đã từng gặp, tuy ở đây thường có một cảm giác kỳ quặc khi nghe các vị nói về hồi ức quá xa xôi với vẻ rất hững hờ. Chẳng hạn, có một vị tóc bạc phơ, nom vẻ nhân từ, sau một lát chuyện trò, đã hỏi Conuê có thích đọc tác phẩm của chị em Bronte không. Conuê nói anh có phần nào thích, ông già liền nói: “Hồi tôi là cha phó xứ ở West Riding, trong những năm bốn mươi, đã có lần tôi đến thăm Haworth và nghỉ lại tại nhà Cha xứ ở đấy. Từ ngày lên đây tôi bắt đầu nghiên cứu toàn bộ vấn đề Bronte - thật vậy, tôi đang viết một cuốn sách về đề tài ấy. Hay là anh thỉnh thoảng đến với tôi, ta cùng bàn soạn việc đó được không?”
Conuê vui vẻ nhận lời, và sau đấy, khi chỉ có anh và tu sĩ Tưởng, anh nói các Lama xem ra nhớ rất rõ cuộc đời của các vị trước khi lên Tây Tạng. Tu sĩ đáp: “Đấy là do tập luyện. Thưa ông, ông biết đấy, một trong những bước đầu tiên luyện làm sáng suốt tinh thần là có được một bức toàn cảnh về quá khứ của mình và cái ấy cũng như mọi cách nhìn khác, càng chính xác hơn trong cảnh trông xa. Khi ông đã ở với chúng tôi một thời gian khá lâu, ông sẽ thấy cuộc đời cũ của ông dần dần thu vào một tiêu cự như một viễn vọng kính khi thấu kính đã được điều chỉnh. Mọi cái sẽ lộ ra rõ ràng và yên lặng, cân xứng một cách thích đáng với ý nghĩa đúng đắn của nó. Vị Lama mà ông vừa mới làm quen, chẳng hạn, thấy rằng cái phút thật sự quan trọng trong toàn bộ cuộc đời của ông là lúc vào tuổi thanh niên ông đến thăm một ngôi nhà trong đó có một cha xứ1 và ba cô con gái của ông.”
1 ở Anh cha xứ có gia đình như người bình thường.
“Vậy, có nghĩa là rồi tôi cũng sẽ phải nghĩ lại những phút quan trọng trong đời tôi?”
“Cái đó sẽ diễn ra không khó khăn. Những phút đó sẽ đến với ông.”
“Tôi không biết rồi tôi có đón mừng những phút ấy không,” Conuê đáp lại, vẻ buồn rầu.
Nhưng dù nghĩ lại quá khứ ra sao, anh vẫn thấy hạnh phúc trong hiện tại. Những lúc anh ngồi đọc sách trong thư viện hoặc chơi nhạc Mozart trong phòng nhạc, anh thường cảm thấy một mối xúc cảm sâu sắc tràn vào anh như thể Shangri-La là một thực thể sống, được chắt lọc bằng pháp thuật của nhiều thời đại và được bảo tồn một cách kỳ lạ chống lại thời gian và Thần Chết. Vào những lúc này, cuộc nói chuyện với tu viện trưởng, anh nhớ lại rõ rệt, anh thấy như có một trí thông minh bình tĩnh gạt đi mọi cái gây lảng trí, và như có muôn nghìn lời thì thào rót vào tai, vào mắt anh những lời, những sự việc khiến anh an tâm. Tâm trạng anh là như vậy, khi anh ta lắng nghe Lo-Tsen dẫn dắt mấy điệu Fuga phức tạp, và anh phân vân không biết có cái gì ở phía sau nụ cười nhẹ nhàng hồn nhiên, khiến đôi môi cô lay động chẳng khác gì một bông hoa đang hé nở. Cô gái rất ít nói, tuy giờ đây cô biết Conuê nói được ngôn ngữ của cô. Với Malinxơn, đôi khi anh ta thích vào đây nghe nhạc, cô như câm lặng.
Nhưng Conuê thấy sự yên lặng của cô vẫn có một sức hấp dẫn biểu hiện rõ rệt.
Có một lần, anh hỏi tu sĩ Tưởng về lai lịch của cô và được biết, cô vốn dòng dõi hoàng gia Mãn Châu. “Cô đính hôn với một hoàng tử xứ Turkestan, và đang trên đường đi Kashgar để gặp chồng thì đám người khiêng kiệu bị lạc đường trong núi. Toàn đoàn chắc chắn sẽ bị chết nếu không gặp được những người như chúng tôi vẫn thường phái đi tìm đón.”
“Sự việc ấy xảy ra vào hồi nào?”
“Năm 1884. Lúc ấy Lo-Tsen mười tám tuổi.” “Mười tám tuổi năm ấy?”
Tu sĩ Tưởng cúi đầu gật: “Vâng, chúng tôi đã thành công rất tốt với cô, như ông có thể thấy. Sự tiến bộ của cô ấy đều đặn tuyệt vời.”
“Hồi mới đến, thái độ cô ấy ra sao?”
“Có lẽ cô ấy cũng khó khăn mới chấp nhận hoàn cảnh - cô ấy không phản đối, nhưng chúng tôi biết cô ấy cũng bị bối rối mất một thời gian. Tất nhiên, đây là một sự cố bất thường - chặn đón một cô gái trên đường đi về nhà chồng - tất cả chúng tôi đặc biệt lo lắng làm sao cho cô được sung sướng ở đây. Tu sĩ Tưởng mỉm cười dịu dàng. “Tôi e rằng nỗi xúc động của tình yêu không dễ chịu đầu hàng, mặc dầu năm năm đầu tiên thừa để làm việc đó.”
“Liệu cô ta có gắn bó tha thiết với người đàn ông mà cô ta sắp làm vợ không?”
“Thưa ông, không đâu, vì cô ta đã biết mặt người đàn ông ấy đâu. Ông biết đấy, người ta cưới theo lối cổ mà. Tình cảm của cô ta hoàn toàn hồn nhiên.”
Conuê gật đầu, hơi xúc động khi nghĩ đến Lo-Tsen. Anh hình dung cô gái ra sao trước đây nửa thế kỷ, đẹp như pho tượng ngồi trên kiệu sơn son thếp vàng, trong lúc mấy người phu khiêng vất vả đi trên cao nguyên. Cặp mắt cô đưa tìm phương trời xa bạt gió, những chân trời hẳn phải gian khổ so với những khu vườn, những ao sen ở phương Đông. “Cô bé đáng thương. “Cô bé đáng thương!” Anh nói khi nghĩ đến một con người thanh tú như vậy đã bị giam chân tại chỗ suốt bao nhiêu năm. Biết rõ quá khứ của cô, anh càng hài lòng chứ không hề giảm đi với thái độ lặng lẽ im lìm của cô. Cô như một cái bình đáng yêu lạnh lẽo, không chút tô điểm ngoài một tia sáng lọt thoát ra.
Anh cũng hài lòng, tuy không say đắm bằng khi nghe Briac nói cho nghe về Sopanh, và dạo cho anh nghe những giai điệu quen thuộc với kỹ xảo tài tình. Xem ra người Pháp này biết rất nhiều bản nhạc của Sopanh chưa hề được xuất bản. Được Briac chép lại tổng phổ, Conuê ra sức luyện hàng giờ để nhớ. Anh thấy mình có chút duyên may khi nghĩ ngay cả Cortot và Pachmann cũng không được may mắn như anh. Và trí nhớ của Briac về nhạc chưa phải đã cạn, ông luôn luôn làm cho Conuê thích thú với những giai điệu mà nhạc sĩ thiên tài trước kia đã ngẫu hứng sáng tác trong một dịp nào đó; ông ghi tất cả những giai điệu ấy mỗi khi ông nhớ lại, một số là những đoạn rất hay.
“Briac,” tu sĩ Tưởng giải thích, “mới chỉ được thụ pháp gần đây, nên ông cũng nên bỏ qua nếu ông ta nói rất nhiều về Sopanh. Các Lama trẻ tất nhiên hay nghĩ về quá khứ của mình, đấy là một bước đi cần thiết để hình dung ra tương lai.”
“Theo tôi hiểu thì đấy là công việc của các Lama già hơn phải không?”
“Vâng. Chẳng hạn Lama tu viện trưởng, hầu như toàn bộ cuộc đời của ngài được dùng vào sự suy ngẫm sáng suốt.”
Conuê ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “À, thế ông tính bao giờ tôi sẽ lại được gặp ngài lần thứ hai?”
“Thưa ông, chắc là vào cuối thời gian năm năm thứ nhất.”
Nhưng trong việc đoán trước tin cậy ấy, tu sĩ Tưởng đã lầm, vì chưa đầy một tháng sau ngày đến đây, Conuê nhận được lần thứ hai lời mời anh đến cái phòng nóng bức ở gác trên. Tu sĩ Tưởng nói với anh rằng tu viện trưởng không bao giờ ra khỏi phòng của ngài, không khí căn phòng ấy được đốt nóng là cần thiết để cơ thể ngài tồn tại. Conuê được chuẩn bị trước như vậy nên thấy sự thay đổi đó không gây ngạc nhiên như bận trước. Thực tế, sau khi cúi đầu chào, anh thở thấy dễ dàng và được vẻ sinh động từ cặp mắt sâu hoắm trước mặt anh nhẹ nhàng đáp lại. Anh cảm thấy thân tình với tâm hồn ở phía sau cặp mắt ấy. Và tuy biết được cuộc tiếp kiến lần thứ hai chỉ sau lần thứ nhất có mấy ngày là một vinh dự chưa ai có, anh vẫn bình tĩnh và không tỏ ra coi đấy là quá quan trọng. Với anh, giờ đây tuổi tác không còn là một nhân tố có sức ám ảnh hơn địa vị và màu sắc, anh xưa nay chưa bao giờ bị ngăn cản không yêu thích người nào vì người đó quá trẻ hay quá già. Anh kính trọng tu viện trưởng một cách thân mật, nhưng vẫn không thấy tại sao mối quan hệ xã hội giữa anh và Lama phải là một cái gì kém hòa nhã hơn.
Hai bên trao đổi những câu chào hỏi lịch sự thông thường, và Conuê đáp lại nhiều câu hỏi rất lễ phép. Anh nói anh thấy cuộc sống ở đây rất dễ chịu và anh đã làm bạn được với một số người.
“Thế anh vẫn giữ kín những điều bí mật của chúng ta không cho ba người kia biết đấy chứ?”
“Vâng, cho đến bây giờ. Nhiều khi vì thế mà con thấy ngượng ngập, mà có lẽ ít ngượng hơn nếu con nói cho họ biết.”
“Đúng như ta dự đoán, con đã hành động theo cách mà con cho là tốt nhất. Còn ngượng ngập, suy cho cùng chỉ là tạm thời. Tu sĩ Tưởng nói với ta là hai trong số ba người ấy tỏ ra không phản đối lắm.”
“Con dám nói rằng đúng vậy.” “Thế người thứ ba?”
Conuê đáp: “Malinxơn là một thanh niên dễ bị kích động - anh ta rất tha thiết được trở về.” “Con có ưa thích anh ta không?”
“Thưa có, con rất yêu mến anh ấy.”
Đến lúc này, những bát nước trà được đưa vào và câu chuyện bớt phần nghiêm trang giữa những hớp trà thơm. Đấy là một quy ước thích hợp giúp cho câu chuyện có chút hương vị lông bông và Conuê đáp lại. Khi vị Lama tu viện trưởng hỏi anh có thấy Shangri-La độc đáo và ở thế giới Phương Tây có nơi nào giống thế không, anh mỉm cười đáp: “Thưa có, không chút giấu giếm, con xin nói ở đây khiến cho con thấy hơi giống Oxford, nơi con trước kia đã từng giảng dạy. Phong cảnh ở Oxford thì không bằng, những đề tài nghiên cứu thì thường cũng không thực tế như ở đây và tuy ngay người già nhất trong số các cán bộ giảng dạy cũng không nhiều tuổi như các vị ở đây, nhưng xem ra đối với tuổi tác thì có phần nào giống nhau.”
“Conuê, con thân yêu, con khá hóm hỉnh đấy,” vị Lama tu viện trưởng đáp, “cái tính đó sẽ giúp tất cả chúng ta rất nhiều trong những năm tới.”