Từ khi còn nhỏ, ngài đã thường làm thơ. Tuy có ý chí kiên quyết xuất gia, cố dẹp trừ các tập khí, nhưng ngài vẫn còn khí chất thi nhân, nên mỗi khi đi qua các danh lam thắng cảnh, ngài vẫn còn hoài cảm động lòng, nên gặp cảnh nào ngài cũng viết thi kệ. Lúc đến nơi năm xưa Bá Di, Thúc Tề1 đem quân chặn đánh Vũ Vương, ngài lại làm kệ:
1 Bá Di, Thúc Tề: là hai người con của vua nước Cô Trúc, là nước chư hầu của nhà Thương. Bá Di và Thúc Tề cùng nhường ngôi lại cho người em thứ ba là Á Bằng và rủ nhau ở ẩn trên núi Thủ Dương. Lúc nhà Chu đánh nhà Thương, hai ông Di, Tề ra ngăn chặn binh mã của Vũ Vương mà không được nên đã quay về núi Thủ, không chịu dùng thóc gạo nhà Chu, nhịn đói mà chết. Người Trung Hoa thời xưa cho hai ông là bậc hiền sĩ có khí phách.
“Bỏ nước về Sở, ý thâm sâu
Không dư chùa cũ, cây rậm rạp
Thủ Dương xanh sắc, màu như thế
Tựa như xưa kia, điều tâm ngựa.”
Sau đó, ngài tới chùa Thiếu Lâm, lễ bái tháp thờ Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma và đến tham bái nơi ngài Huệ Khả chặt tay cầu pháp. Hồi tưởng đến công hạnh của các vị Tổ sư, ngài quyết chí sẽ hoàn thành sứ mạng xiển hưng Phật pháp, dẫu gặp gian nan khổ nhọc. Xuống núi Thiếu Lâm, ngài đến cổ thành Lạc Dương, thăm đài Phấn Kinh (nơi hai tôn giả Ca Diếp Ma Thắng và Trúc Pháp Lan cùng đốt kinh và tỷ thí thần thông với các đạo sĩ) và đến lễ chùa Bạch Mã. Không khí trong lành, khung cảnh thiên nhiên khiến tâm ngài sảng khoái. Ngài cùng thầy Diệu Phong tiếp tục đồng hành đến Hà Nam, rồi tới châu Tây Bồ. Trên đường, hai ngài đồng tham thiền, cùng viết thi kệ, tiêu diêu tự tại.
Tháng Chín năm đó, hai ngài chuyển vận Đại Tạng kinh đến Hà Đông, tức vương phủ của Hoàng tử Sơn Ấm. Nghe tin, Hoàng tử tự thân dẫn thuộc hạ ra nghinh tiếp, cùng khải trống nhạc vang rền và rải hoa đầy khắp đất. Gặp thầy Diệu Phong, Hoàng tử Sơn Ấm thưa:
- Phiền sư phụ khổ nhọc vận chuyển Đại Tạng kinh về đây, tiểu vương xin cảm tạ tri ân.
Thầy Diệu Phong bảo:
- Điện hạ chớ quá làm khách, lần này khi trở về, tôi có mời một vị khách tăng cùng đi.
Hoàng tử Sơn Ấm ngạc nhiên:
- Vị đó là ai? Sư phụ đã thỉnh thì cũng như tiểu vương mời vậy.
Thầy Diệu Phong bảo:
- Đó là sư đệ Trừng Ấn, người mà tôi thường nhắc đến. Hoàng tử Sơn Ấm mừng rỡ, vội thỉnh ngài ở lại vương phủ giảng kinh thuyết pháp. Ông sai người chuẩn bị nơi ăn chốn ở cho hai ngài nghỉ ngơi, rồi ra lệnh làm lễ nghênh đón Đại Tạng kinh vào dinh phủ. Vì là Phật tử thuần thành nên hằng ngày Hoàng tử thường đến nơi ngài ở để hỏi đạo. Ngài vui vẻ nhận lời và ở lại đó trong ba tháng để hoằng pháp cho dân chúng trong vùng.
Trong lúc an nhàn thư thái, ngài cùng thầy Diệu Phong đồng khắc bản gỗ quyển Triệu Luận Trung Ngô tập giải của Đại sư Tăng Triệu (đệ tử của Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập). Xưa kia, ngài chưa hiểu rõ và vẫn hoài nghi về lý thường trụ bất biến của vạn vật, nay đọc quyển luận này đến phần Vật không đổi dời, trong đó mô tả một vị Phạm Chí2, xuất gia từ thuở nhỏ, trở về nhà lúc tóc bạc phơ, dân làng thấy thế bảo: “Người này thường ở đây, nay vẫn còn sống”, vị Phạm Chí đáp: “Tôi giống người đó, nhưng không phải người đó”.
2 Phạm Chí (Brahmana) là một vị đạo sĩ đã thành công trong sự nghiệp tâm linh, ra khỏi vòng trần lụy.
Đọc đến đoạn này, ngài thấy tâm thân rung động như người mê chợt tỉnh và hốt nhiên liễu ngộ lý Trung đạo3 nên tự bảo: “Hôm nay mình mới tin tưởng rằng muôn vật vốn không đến không đi”. Ngài liền bước xuống giường, thắp hương lễ Phật để tạ ơn, rồi mở cửa đứng nơi thềm cấp, nhìn ngắm cảnh vật bên ngoài. Lúc đó, gió thổi khiến lá vàng rơi rụng đầy mặt đất, ngài tự nhủ: “Người hiện tại tức là kẻ hôm xưa. Tịnh tức là động. Động tức là tịnh. Sinh tức là tử. Tử tức là sinh. Một làn gió lốc thổi nát núi Tu Di mà vẫn trường tĩnh”. Ngay khi đó, tất cả nghi ngờ về sự đến đi của sinh tử đều tan biến cả. Trở vào phòng thất, ngài liền viết kệ:
“Tử sinh trú dạ
Thủy lưu hoa tạ
Kim nhật phân chi
Tỷ không hướng hạ.”
3 Trung đạo: là khái niệm quan trọng trong đạo Phật, là từ được dùng chỉ chung phương pháp tu của Phật Thích Ca là tránh cả hai thái cực – một cực đoan là buông thả theo dục lạc dẫn đến tham ái và trói buộc; một cực đoan khác là sống khổ hạnh tuyệt đối dẫn đến tâm thức bị trói buộc vào sự tham chấp – cả hai cực đoan đều dẫn đến sự trói buộc, hay bất như ý. Trung đạo cũng được dùng để chỉ giáo pháp Trung quán của Thiền sư Long Thọ, dựa trên thuyết Duyên khởi tánh Không nên không chấp ngã. Các khái niệm biểu thị hai mặt của sự vật hiện tượng như thân và tâm, sinh và tử, động và tịnh, đều không còn là vấn đề của tâm thức khi tâm thức đã vượt ra khỏi khái niệm nhị nguyên. Như vậy, Trung đạo là không trụ vào pháp nào, tức là tự làm chủ chính mình, vượt ra khỏi mọi pháp, không dính chấp, trói buộc vào pháp nào, kể cả pháp chân thật.
Tạm dịch:
“Sinh tử ngày đêm
Nước chảy hoa tàn
Ngày nay đã biết
Lỗ mũi hướng xuống”.
Hôm sau, thầy Diệu Phong thấy sắc thái ngài vui vẻ nên hỏi:
- Sư đệ đã ngộ được gì mà thần thái ung dung vậy? Ngài đáp:
- Đêm qua, đệ mơ thấy hai con trâu sắt bên bờ sông, húc nhau rồi nhảy xuống nước, lặn mất. Từ đó, không còn thấy gì nữa.
Nghe thế, thầy Diệu Phong vui mừng bảo:
- Sư đệ đã có chút vốn liếng trụ núi rồi đó4. Ngài khiêm tốn nói:
4 Chú thích của Pháp sư Phước Chân: Hai con trâu sắt húc nhau, nhảy xuống nước, biến mất, tượng trưng cho thân và tâm, sinh và tử, động và tịnh, đều tan biến, tức không còn chấp vào khái niệm nhị nguyên.
- Nếu được như thế thì rất hay. Chỉ sợ đệ chưa ngộ thấu đến cảnh giới đó thôi.
Thầy Diệu Phong cười bảo:
- Nếu sư đệ muốn trụ núi tham thiền thì huynh xin đề nghị một chỗ rất tốt, một nơi mà mùa hè rất mát, còn mùa đông thì tuyết rơi rất lạnh, chắc sư đệ thích lắm.
Ngài mừng rỡ hỏi:
- Vậy có phải là núi Ngũ Đài không? Nếu sư huynh cùng đi, thật là điều may mắn cho đệ.
Thầy Diệu Phong gật đầu đáp:
- Huynh cũng có ý định trở lại nơi đó.
Hai ngài đang bàn luận thì nghe bên ngoài có người của Hoàng tử Sơn Ấm đến cho biết Hoàng tử vừa thỉnh Thiền sư Ngưu Sơn Pháp Quang đến dinh phủ giảng về thiền nên mời hai thầy đến tham kiến. Hai ngài liền đến sảnh đường. Chưa bước vào mà ngài đã nghe tiếng giảng kinh của Thiền sư Pháp Quang vang rền như trống vỗ. Mỗi lời của Thiền sư đều đập vào tâm thức ngài, khiến ngài tự nhủ: “Vị thiền sư này quả nhiên là một vị cao tăng đã minh tâm kiến tánh nên âm thanh, lời nói chẳng đồng với phàm phu. Nếu không được tâm đắc nơi thiền, thì làm sao có dạng trạng như thế được?”.
Sau khi làm lễ ra mắt, ngài cầu thỉnh Thiền sư Pháp Quang ban cho pháp yếu. Thiền sư nói ngay:
- Phải rời tâm thức. Vượt đường sở học của phàm thánh. Ít hôm sau, Thiền sư Pháp Quang vô tình đọc được những bài kệ của ngài viết, ông liền bảo:
- Sao thầy viết được những câu bóng bẩy như thế này. Văn tuy hay nhưng có đoạn chưa thông.
Ngài hỏi:
- Cửa khiếu nào của Thiền sư đã thông. Thiền sư Pháp Quang bảo:
- Ba mươi năm trời chờ đợi bắt rồng chụp hổ, nhưng nay lại để cho con thỏ chạy thoát.
Ngài liền nói:
- Ta xem thấy Thiền sư chẳng phải là tay bắt rồng chụp hổ.
Thiền sư Pháp Quang lập tức vung tích trượng định đánh nhưng ngài nhanh tay chụp lại:
- Lời tuy là thỏ, nhưng thực ra chỉ là tôm tép.
Thiền sư Pháp Quang nghe thế lắc đầu cười rộ rồi bỏ đi, nhưng hôm sau, ông tìm đến ngài và nói:
- Thầy không cần đi đâu xa cho mệt. Hãy cùng tôi đến núi Phục Niên tu hành.
Ngài bèn nói:
- Tôi thấy tài biện luận và tri giải về Phật pháp của Thiền sư không thua ngài Đại Huệ bao nhiêu, nhưng sao phong thái lại điên điên rồ rồ, có lúc lại lải nhải, múa may tay chân cả ngày?
Thiền sư đáp ngay:
- Đó là thiền bệnh đấy (do không tu đúng cách, hoặc vì nghiệp chướng và ma chướng gây nên). Khi xưa ta quá say mê văn chương thơ phú, nên sau khi tu vừa phát ngộ, bao ngôn từ, kệ cú cứ tuôn chảy ào ào ngày đêm chẳng dừng, không thể kiềm chế được, nên thành thiền bệnh.
Nghe thế ngài Hám Sơn giật mình hỏi ngay:
- Khi thiền bệnh này mới phát khởi thì phải đối trị làm sao?
Thiền sư đáp:
- Lúc vừa bộc phát, nếu không tự nhận biết, cần phải có một vị đại cao thủ trong làng Thiền đập cho một gậy, khiến ngủ mê thiếp đi. Khi thức dậy, bệnh sẽ tự hết, nhưng tôi hận cho mình, tu hành mãi chẳng tìm được tay đại cao thủ nào có thể giúp cho tôi.
Ít lâu sau, biết ngài sắp khởi hành đi Ngũ Đài Sơn, Thiền sư Pháp Quang bèn viết tặng ngài một bài kệ:
“Tiết trung sư tử kỳ lai khang
Động lý tiềm long phóng khứ hưu.”
Tạm dịch:
“Thấy sư tử tuyết cỡi mây đến,
Rồng nghỉ trong hang thả đi thôi.”
Sau đó, Thiền sư hỏi:
- Thầy có hiểu không? Ngài đáp:
- Tri thức cạn cợt, xin Thiền sư chỉ điểm cho. Thiền sư Pháp Quang bảo:
- Lúc thầy đến Ngũ Đài, chớ động đến con rắn chết. Nghe vậy, thầy Diệu Phong đứng cạnh liền nói:
- Lời của Thiền sư dạy thật thâm sâu. Xin hãy giải thích cho sư đệ Hám Sơn nghe rõ.
Thiền sư bảo:
- Tuy trời đông tuyết lạnh, chớ tưởng rằng rắn đã chết, nhưng thật ra nó vẫn còn sống. Nếu động đến, nó sẽ cắn ngay.
Ngài hiểu Thiền sư Pháp Quang muốn ám chỉ trên đường tu hành phải cẩn thận, chớ khinh xuất khi chưa giác ngộ. Lâu nay, ngài vẫn buồn vì tưởng Thiền tông chẳng còn các bậc thiện tri thức. Cho đến khi gặp được Thiền sư Pháp Quang, ngài mới biết là vẫn còn có những thiền sư lỗi lạc.
Khi biết ngài cùng thầy Diệu Phong muốn đến núi Ngũ Đài, và biết khó mà lưu giữ hai ngài lại, nên Hoàng tử Sơn Ấm không dám cản trở. Tuy nhiên, ông biết cha mẹ ngài còn tại thế, nên định sai người đem hai trăm lạng vàng đến tặng cho họ để dưỡng già. Ngài bảo:
- Bần đạo chỉ mới bắt đầu du phương hành cước, chưa tự cứu mình, chẳng đủ phước đức, sao lại dám làm lụy đến song thân.
Vì Hoàng tử Sơn Ấm nài nỉ, đưa tặng ba lần, nên cuối cùng ngài thọ nhận và đem số vàng đó cúng lại cho Thiền sư Pháp Quang để xây chùa đắp tượng Phật.
Tháng Giêng năm 1575, ngài cùng thầy Diệu Phong từ Hà Đông đi đến núi Ngũ Đài. Lúc đi ngang tỉnh Bình Dương, thầy Diệu Phong đột nhiên thay đổi sắc mặt, lạnh lùng trầm ngâm. Ngài hỏi han ba câu, thầy Diệu Phong chỉ nói nửa câu. Ngài biết chắc thầy có nỗi buồn riêng tư nên cố hỏi gặng. Cuối cùng, thầy đành thổ lộ nguyên do. Nguyên tỉnh Bình Dương là cố hương của thầy. Lúc thầy còn nhỏ, vùng này bị hạn hán và cha mẹ thầy bị chết vì đói khát, nên thầy mới vào chùa xuất gia.
Cha mẹ của thầy Diệu Phong chết đói như muôn ngàn người khác và vì nghèo đói nên sau khi chết, không có đất để chôn cất đàng hoàng. Nay trở về quê cũ, tuy chẳng mang y gấm, nhưng có ít tiền cúng dường của Hoàng tử Sơn Ấm, nên hai ngài dùng số tiền này để mua một khu đất cao ráo, xây lại mộ phần và khắc bia kệ cha mẹ thầy Diệu Phong. (Tên tục của thầy Diệu Phong là Tích). Lúc đó, quan Thái thú tỉnh Bình Dương là Hồ Thuận Yêm, nghe nói có hai vị danh tăng đến vùng mình nên vui mừng cho người đến thỉnh, nhưng lúc đó hai ngài đã rời khỏi Bình Dương. Thấy thế, ông bèn gởi theo bưu phù để hai ngài mướn xe ngựa, nhưng ngài đã nói ngay: “Đạo nhân hành cước bằng đôi dép rơm là quá đủ rồi, cần chi bưu phù này nữa”. Nghe thế, quan Hồ Thuận Yêm vô cùng ngưỡng mộ nên tìm theo lộ trình để gặp hai ngài. Sau khi đàm luận mãn ý, ông ta trở về dinh phủ, nhưng lại phái quân lính đi theo hộ tống hai ngài đến tận núi Ngũ Đài.
Mồng năm tháng Hai năm đó, hai ngài đến núi Ngũ Đài và tạm trú tại chùa Pháp Viện để chuẩn bị chuyên tâm nhất ý tu hành trong một thời gian. Trụ trì chùa Pháp Viện là Hòa thượng Đại Phương, hướng dẫn hai ngài đến vùng Long Môn ở Bắc Đài làm nơi cư trú tu hành. Địa thế vùng Long Môn rất cao. Tuy là mùa xuân, nhưng băng tuyết vẫn còn đóng y nguyên. Núi non u tịch, quả là nơi lý tưởng cho việc tham thiền, tịnh tâm. Nhìn xung quanh, núi non đất đai đều trắng xóa, giống như cảnh giới Thanh Lương mà ngài đã từng thấy khi xưa, khiến ngài không khỏi bàng hoàng sửng sốt, có cảm tưởng như đang đi vào thế giới lưu ly5. Một hôm, thầy Diệu Phong đi dạo Dạ Đài. Biết thói quen của thầy nên ngài không màng đến, một mình thiền quán trong am tranh, đơn độc đề khởi nhất niệm. Dù có khách vãng lai, ngài chỉ đưa mắt nhìn mà không nói một lời nào. Chẳng bao lâu, ngài thấy khách khứa chỉ lờ mờ giống như những gốc cây trơ trọi. Cảnh giới này tiếp tục cho đến khi một chữ ngài cũng không nhận ra, mà hoàn toàn trụ tâm trong cảnh giới của thiền. Tuy nhiên, đêm nọ, gió thổi ào ào, tuyết tan, nước chảy ầm ầm như sấm sét, khiến ngài ngồi mãi mà không thể nhập định. Đến nửa đêm, gió ngưng, muôn vật bên ngoài đều trở lại tịch tĩnh, nhưng không hiểu sao tâm ngài vẫn còn nghe tiếng động ầm ầm như muôn ngàn binh mã đang giao chiến. Ngài ngồi mỏi mệt suốt đêm mà không sao nhập định được. Hôm sau, thầy Diệu Phong trở về, thấy sắc mặt ngài trắng bạch, tâm thô khí nhược, nên ngạc nhiên hỏi han. Ngài thuật lại sự tình đêm qua. Nghe xong, thầy Diệu Phong khuyên:
5 Thế giới lưu ly: là khái niệm trong đạo Phật, được dùng để mô tả trạng thái mà trong ngoài đều sáng trong, tinh khiết.
- Này huynh đệ, cảnh từ tâm sinh, chẳng từ ngoài đến. Người xưa bảo rằng trong ba mươi năm, nếu nghe tiếng nước chảy mà không động chuyển ý căn thì sẽ chứng đắc cảnh giới Quán Âm viên thông6. Nếu đắc được cảnh giới đó, thì sẽ không còn bị ngoại cảnh chi phối hay gặp phiền muộn gì nữa. Huynh tin sư đệ sẽ đạt đến cảnh giới đó.
6 Quán Âm viên thông: chỉ mức độ tỉnh giác và thanh tịnh mà tất cả âm thanh nghe thấy đều là pháp vi diệu, nghĩa là không thấy là vấn đề hay chướng ngại. Quán Thế Âm Bồ Tát chứng ngộ điều này, nên ngài được gọi là Quán Thế Âm.
Nghe đến đó, ngài vui mừng bảo:
- Câu này đệ thường đọc qua nhiều lần, nhưng chẳng biết tại sao tối qua lại không nhớ đến. Thật nguy hiểm, nếu không có thầy hiền bạn tốt hướng dẫn nhắc nhở thì chắc sẽ bị mê mù, đọa lạc vào đường ma mất rồi.
Nói xong, ngài lập tức đi ra ngồi thiền trên cây cầu gỗ nơi khe suối. Lúc đầu, tâm vẫn còn bị động vì tiếng nước chảy róc rách. Dần dà, nếu tâm động thì nghe tiếng nước chảy, bằng ngược lại thì chẳng nghe gì hết. Ngài cố gắng tiếp tục thiền định cho đến một hôm, ngài chợt quên mất thân tâm, cho đến âm thanh cũng tịch nhiên lặng lẽ luôn. Từ đó, mọi âm thanh bên ngoài đều tịch tĩnh và không còn khuấy động tâm tư của ngài nữa. Trong những ngày tự rèn luyện thân tâm tu đạo, ngài sống trong cảnh gió rét tuyết sương, ăn uống khổ cực vô cùng. Món ăn hằng ngày chỉ có ít bột gạo cùng rau dại. Lúc đến núi Ngũ Đài, có người cúng dường mười đấu gạo mà cho đến nửa năm vẫn ăn chưa hết. Trong đói rét khổ cực, ngài tự tu tâm dưỡng tánh. Ngày nọ, ngài đi kinh hành rồi đột nhiên nhập định, không còn thấy thân tâm, duy chỉ có một luồng hào quang lớn chiếu sáng chói cả năm tạng, viên mãn thâm tịch, như một tấm kiếng tròn lớn. Núi sông đất đai đều hiển hiện trong đó. Khi tỉnh lại, tự tìm chẳng thấy thân tâm. Cảnh ngộ này không giống như lúc trước ở Bàn Sơn, ngài không còn thấy thân tâm mình ở đâu nữa. Có thể tính đây là lần khai ngộ đầu tiên. Việc khai ngộ tâm tánh này khiến ngài sung sướng, thấy rõ manh mối thiền cơ. Nhờ dụng công tu hành khổ hạnh mà ngài mới đạt đến cảnh giới này. Vì vậy, ngài viết kệ:
“Khoảnh khắc nhất niệm, tâm cuồng ngưng
Căn trần nội ngoại, đều thấu suốt
Thân bay độc phá, thái hư không
Vạn tượng xum la, từ đây diệt.”
Từ đó, trong ngoài thân tâm đều tịch nhiên lắng đọng; âm thanh sắc tướng không còn làm chướng ngại trong việc tu hành của ngài nữa. Những nghi hoặc trước đây, nay đều đốn trừ. Nhìn vào nồi cơm, chỉ thấy mốc meo. Vì đơn độc tu một mình không có pháp lữ, nên ngài tự chẳng biết đã nhập định bao lâu. Năm đó, ngài được ba mươi mốt tuổi. Tuy đã khai ngộ nhưng không được ai chứng minh, nên ngài mở kinh Lăng Nghiêm ra để cầu ấn chứng. Ngài nhận thấy sở ngộ của mình rất phù hợp với lời Phật giảng giải trong kinh. Trong vòng tám tháng, do dùng tâm chất trực7, không phân biệt hay vọng động, ngài hiểu rõ nghĩa lý ý chỉ thâm sâu vi diệu của kinh Lăng Nghiêm mà trước đây chưa từng biết đến.
7 Tâm chất trực, còn gọi là trực tâm, nghĩa là lòng ngay thẳng chân chất, không quanh co, không vọng động. Theo đạo Phật, “trực tâm là đạo tràng”, dùng tâm chất trực mà tu hành thì sẽ đạt được quả vị mà mình hằng mong muốn.
Trải qua năm năm chia cách, thầy Tuyết Lãng vẫn luôn nhớ đến ngài và thường hỏi han tin tức. Biết ngài đang tu ở núi Ngũ Đài nên thầy tìm đến thăm. Vì đã quen sống đơn độc, khổ hạnh nên khi gặp lại thầy Tuyết Lãng, ngài cảm thấy cả hai rất khác biệt về tư tưởng cùng cách thức tu hành.
Dĩ nhiên theo thời gian, mỗi người đều đã trưởng thành về một phương diện và tự chọn lựa con đường tu hành riêng cho mình, nhưng đạo tình huynh đệ vẫn nồng thắm. Vừa gặp mặt nhau, thầy Tuyết Lãng liền bảo:
- Lần này huynh muốn mời sư đệ trở vào Nam tu hành. Ngài lắc đầu từ chối:
- Sư huynh chắc đã biết tánh của đệ, một khi đã quyết định làm việc gì rồi thì khó mà thay đổi.
Thầy Tuyết Lãng nói:
- Nếu vậy thì sư đệ có cho phép huynh ở lại đây đồng tu chăng?
Ngài đáp:
- Núi Ngũ Đài là nơi giá hàn tuyết lạnh. Sư huynh là người miền Nam, chắc không thể chịu đựng nổi thời tiết lạnh lẽo này đâu. Năm xưa, sư huynh đã chẳng từng khuyên đệ chớ nên lên đây tu hành đó sao. Lần này đệ nhận thấy sức khỏe của sư huynh không được mạnh cho lắm, nên khó lòng ở lại nơi đây.
Thầy Tuyết Lãng bảo:
- Sư đệ đã ở được thì huynh cũng ở được. Huynh quyết cùng tu hành sống chết với sư đệ.
Ngài lắc đầu nói:
- Mỗi người chúng ta đều có trọng trách riêng. Nhân duyên tan hợp đều khác với người thế tục.
Thầy Tuyết Lãng bảo:
- Cơ duyên chúng ta gặp nhau hôm nay thật hiếm có. Ngài nói:
- Tùy theo nhân duyên mà mỗi chúng ta có chí hướng tu hành riêng biệt. Sư huynh có trọng trách lớn lo kế thừa y bát của Pháp sư Vô Cực, tương lai xiển hưng đạo pháp, chớ nên tu hành như đệ, chỉ ngồi thiền định suốt ngày nơi núi khô rừng vắng, cả đời đi du phương khắp giang hồ. Phật giáo vùng Giang Nam hiện nay rất suy vi, chỉ còn nương nhờ vào tài đức của sư huynh, giáo hóa thế nhân, khiến họ phát tâm tu đạo trở về với chánh pháp, thì mới không phụ công ơn dạy dỗ cùng niềm hy vọng của Pháp sư Vô Cực năm xưa.
Nghe thế, thầy Tuyết Lãng nói:
- Lời khuyên của sư đệ, huynh nguyện xin lãnh thọ. Thầy Tuyết Lãng biết từ lúc còn nhỏ, ngài đã có chí hướng cao cả muốn tu hành khổ hạnh nơi núi Ngũ Đài vì muốn cầu liễu giải đạo lý thâm sâu cao thượng, hầu mai sau đem ra xiển dương đạo pháp. Tối hôm đó, hai ngài đàm luận suốt đêm cho đến sáng, thầy Tuyết Lãng trở về miền Nam hoằng dương Phật pháp. Trong suốt ba mươi năm giảng kinh thuyết pháp và hoằng dương chánh giáo, thầy Tuyết Lãng trở thành vị giảng sư nổi tiếng nhất vùng Giang Nam, xứng đáng là người kế thừa sự nghiệp của Pháp sư Vô Cực.
Mùa xuân năm đó, có Đại sư Liên Trì đến thăm và lưu lại đó vài ngày. Ngài Hám Sơn và Đại sư Liên Trì rất tâm đầu ý hợp. Đại sư Liên Trì là vị có đạo hạnh và học vấn thâm sâu, khiến tăng chúng trong nước nói chung, cũng như tăng chúng tại núi Ngũ Đài nói riêng, rất kính phục. Chính nhờ Đại sư Liên Trì ảnh hưởng mà ngài từ Thiền nhập vào Tịnh Độ, tức thực hành Thiền - Tịnh song tu. Sau này khi Đại sư Liên Trì viên tịch, ngài có đến Vân Thê dự lễ an táng. Đệ tử của Đại sư Liên Trì thỉnh ngài viết kệ nói về cuộc đời tu hành của Đại sư, để khắc lên bia đá.
* * *
Phụ chú của Pháp sư Phước Chân
Đại sư Liên Trì là người Hàng Châu, họ Trầm, tự Phật Huệ, hiệu Chu Hoằng, danh Vân Thê. Thuở nhỏ, ngài học Nho giáo và nổi tiếng là người văn chương lỗi lạc siêu quần. Một hôm, nhân lúc đi ngang nhà bà góa phụ hàng xóm và nghe tiếng niệm Phật, ngài giật mình sửng sốt như vừa gặp lại điều gì đã mất. Hỏi ra mới biết chồng bà lúc còn sống thường niệm Phật, nên khi lâm chung đắc chánh niệm. Từ đó, ngài chuyên tâm niệm Phật, hướng về Tịnh Độ và tự viết bốn chữ “sinh tử đại sự” trên phiến đá ngồi. Năm hai mươi bảy tuổi, cha ngài qua đời. Năm hai mươi chín tuổi, vợ ngài mất. Năm ba mươi mốt tuổi, mẹ ngài qua đời. Năm ba mươi hai tuổi, đến đảnh Tiên Chi ở Chiết Giang, ngài lễ bái mộ phần cha mẹ rồi tự cảm thán: “Ân sâu nghĩa nặng của cha mẹ, nay chính là lúc phải nên báo đáp”. Ngài chân thành ngày đêm niệm Phật cho đến một ngày nọ, bà Thang Thị, người vợ kế, làm bể tách nước trong khi pha trà. Thấy vậy, ngài bảo: “Lý nhân duyên, không gì là không tan hoại”. Ngày khác, ngài bảo bà Thang Thị: “Ân ái chẳng thường hằng. Sinh tử chẳng đợi trông. Nay tôi muốn đi xuất gia. Bà hãy tự lo liệu lấy thân”. Năm ba mươi ba tuổi, Đại sư đến núi Ngũ Đài, xuất gia theo Hòa thượng Tánh Thiên, rồi đến chùa Chiêu Khánh thọ giới nơi Luật sư Vô Trần. Năm đó, vì tiên sư viên tịch, Đại sư đến núi Lô Sơn, tham bái Thiền sư Biến Dung8. Thiền sư Biến Dung bảo: “Chớ tham danh mến lợi mà ra vào cửa quyền quý. Hãy ra sức dụng công, nhất tâm tu đạo, vững trì giới”. Ít lâu sau, Đại sư đến tham vấn Pháp sư Tiếu Nham nhân ngày nọ đang đi ngang qua Sơn Đông, đột nhiên khai ngộ, liền viết kệ:
“Việc hai mươi năm trước đều nghi
Ngoài ba ngàn dặm, sao lạ kỳ
Đốt hương nấm giáo, đều như mộng
Ma Phật chẳng tranh, thị là phi.”
8 Biến Dung là một trong hai vị thiền sư lỗi lạc của Trung Hoa (người còn lại là Thiền sư Tiếu Nham Nguyệt Tâm). Ngài Biến Dung tu theo tông Hoa Nghiêm.
Lần nọ, tại chùa Ngõa Quan ở Giang Tô, Đại sư bị bệnh nặng, khí đoạn như đã chết. Tăng chúng bèn cho nhập quan. Lúc làm tang lễ, đại chúng nghe trong hòm có tiếng của Đại sư: “Tôi vẫn còn chút hơi thở đây!”. Mở hòm ra thấy Đại sư sống trở lại. Năm ba mươi bảy tuổi, nhân đi khất thực tại vùng Phạm Thôn, thấy non xanh nước biếc, thâm u tịch tĩnh, Đại sư quyết tâm vĩnh viễn cư trú tại chùa Vân Thê, trong núi Ngũ Vân. Chùa này vốn do một thiền sư phục hổ sáng lập vào những năm đầu đời Tống. Vùng Phạm Thôn có rất nhiều hổ dữ. Khi đến đó, Đại sư thường tụng kinh thí thực nên loài hổ dần dần bỏ đi. Năm nọ, trong vùng bị hạn hán, dân chúng đến thỉnh Đại sư cầu mưa. Đại sư bảo: “Tôi chỉ biết niệm Phật, chứ chẳng có pháp thuật gì!”. Nói xong, Đại sư vừa đi xung quanh các thửa ruộng vừa gõ mõ niệm Phật. Lát sau, trời đột nhiên đổ mưa. Từ đó, danh Đại sư vang rền khắp nơi. Đại sư hành trì giới luật tinh nghiêm, vì giới luật là một trong ba môn học vô lậu9 trọng yếu. Lý Thái hậu rất kính phục những bài văn phóng sanh của Đại sư, nên bà thường tham vấn Phật pháp và cúng dường y bát. Đại sư viết kệ cảm tạ:
9 Vô lậu: giải thoát, đoạn dứt phiền não.
“Người tôn vinh hào quý
Do xưa trồng nhân lành
Nhân thắng, quả tất quý
Nay thành tụ đại phước
Thâm đạt tướng tội phước
Trong quả đã có nhân
Ví như hoa trên gấm...”
Đọc bài kệ này, Lý Thái hậu lại càng thâm tín10 cung kính Đại sư. Lúc bốn mươi bảy tuổi, bà Thang Thị, người vợ kế thuở xưa, cảm kích hạnh tu trì của Đại sư, nên theo Hòa thượng Thiên Tánh xuất gia với pháp hiệu là Chu Cẩm. Năm năm mươi tám tuổi, bà đặt tên tịnh thất là Nữ Nghiệp Lâm, danh “Hiếu nghĩa vô ngại am”.
10 Thâm tín: tín tâm, niềm tin sâu sắc.
Đại sư Liên Trì chú trọng giới luật, cổ xướng thiền tịnh quy nhất, tức tâm thiền hạnh tịnh. Ngài dạy rằng: “Niệm Phật cũng là pháp đốn giáo11 như Thiền tông, chẳng phải là pháp tướng12, mà là trực tánh13. Một niệm không sanh tức là Phật. Thể tánh của một niệm, tức là Phật A Di Đà”. Có người hỏi: “Trì danh niệm Phật, có phải là còn niệm không? Một niệm không sanh của đốn giáo có phải là vô niệm không?”. Đại sư đáp: “Trì niệm tức nhất tâm bất loạn, cũng là vô niệm. Nhất tâm tức không còn niệm”. Đại sư dùng rất nhiều pháp môn phương tiện, lược thuyết có ba: pháp môn niệm Phật, pháp môn Chỉ Quán14, pháp môn tham thiền. Đại sư trước tác chú giải kinh Lăng Nghiêm, kinh A Di Đà Sớ Sao, kinh Di Giáo, kinh Phạm Võng, cùng những bài trước tác về tông Tịnh Độ, giới luật, tạp lục, và tùy bút. Tổng cộng khoảng ba mươi hai loại. Mục đích của Đại sư là muốn dung hợp tất cả pháp môn, tông phái. Môn hạ đệ tử của Đại sư có hơn cả ngàn người. Đến năm tám mươi mốt tuổi, Đại sư bảo đại chúng: “Tôi vẫn thường nhắc mà đại chúng không để ý. Thân tôi như ngọn đèn trước gió. Dầu cạn, đèn phải tắt... Ngày mai tôi sẽ đi”. Nói xong, Đại sư vào thất, mắt nhắm không nói lời nào. Các đệ tử kéo vào hầu, Đại sư bảo: “Đại chúng hãy chân thật niệm Phật”. Có vị tăng hỏi: “Bạch Đại sư! Ai có thể làm chủ được mình?”. Đại sư đáp: “Người có hạnh giải song toàn15”. Trả lời xong, Đại sư xoay mặt vào vách, niệm Phật, đoan tọa16 thị tịch.
11 Pháp đốn giáo: pháp môn tu giúp giác ngộ ngay tức thì.
12 Pháp tướng: nghĩa là tướng mạo, biểu hiện bằng hình tướng của tất cả pháp thông qua thức (nhận thức).
13 Trực tánh: là bản tánh thật, chân như hay chân tánh. Tôn chỉ của Thiền là “kiến tánh thành Phật”, có nghĩa là thấy được thật tánh, hay chân tánh.
14 Pháp môn Chỉ Quán: pháp môn tu lấy sự quán tâm để đạt đến thật tướng.
15 Hạnh giải song toàn: “hạnh” là đức hạnh hay hạnh nguyện, là sự chuyên tâm tu hành; “giải” chỉ sự thông hiểu giáo pháp. “Hạnh giải song toàn” hàm ý người tu phải kiện toàn cả hai. Nếu thông hiểu giáo pháp mà không chuyên tâm tu hành, hoặc ngược lại nếu chuyên tâm niệm Phật, giữ giới nhưng không thông hiểu giáo pháp, thì sự dứt đoạn phiền não sẽ khó triệt để.
16 Đoan tọa: ngồi thẳng lưng trang nghiêm.