Lúc đó, tại Bắc Kinh, mặc dầu được phong làm Phúc vương và ban cho đất Lạc Dương nhưng Chu Thường Tuân vẫn nhất quyết ở lại kinh đô để củng cố quyền lực, nên nhiều chuyện rắc rối đã xảy ra trong triều. Các quan lại chia thành phe nhóm tranh chấp dữ dội nên sau cùng, chính Hoàng đế Vạn Lịch đành bảo Chu Thường Tuân phải rời khỏi kinh thành để giữ hòa khí gia đình và tránh cảnh chia rẽ trong triều. Trịnh Quý phi bèn tìm cách hoãn binh bằng cách xin Hoàng đế cho phép con bà ở lại kinh đô thêm ít hôm để dự lễ sinh nhật của Lý Thái hậu trước khi lên đường. Vì có tình cảm với Trịnh Quý phi, Hoàng đế Vạn Lịch đắn đo không biết phải giải quyết ra sao thì Lý Thái hậu biết tin. Bà liền ra lệnh cho Chu Thường Tuân phải rời kinh thành ngay lập tức. Trước lệnh của bà nội và vua cha, Chu Thường Tuân đành rời kinh đô đi nhậm chức, nhưng hoàn cảnh triều đình lúc đó vẫn chưa được yên ổn, các phe phái vẫn tiếp tục tranh chấp lẫn nhau. Vì triều đình chia rẽ, chẳng ai bảo được ai nên quan lại khắp nơi đua nhau cấu kết với cường hào ác bá để trục lợi. Họ khai thác tài nguyên quốc gia như phá rừng lấy gỗ quý, đào hầm mỏ lấy quặng bừa bãi, khiến những nơi bị khai thác đều bị hủy hoại vĩnh viễn. Ngoài ra còn có việc các bộ thông đồng với nhau để lấy đất đai của công chuyển thành của tư, nạn tham nhũng lan tràn, thuế má thất thu vì các quan thâu thuế đã vơ vét bỏ túi riêng. Trong lúc dân chúng đói khổ triền miên thì tại các dinh thự, quan quân lại tiệc tùng, người có tiền thì hưởng thụ tối đa, kẻ không có thì khổ sở khôn cùng.
Mùa xuân năm đó, tại am Trường Xuân, ngài Hám Sơn bắt đầu khai mở khóa giảng kinh Viên Giác, nhưng khi đang giảng khoảng nửa bộ kinh thì lưng ngài lại nổi một cái mụn nhọt to mà không thuốc nào có thể chữa trị được. Lúc đầu, ngài không để ý vì nghĩ rằng nó sẽ tan, nhưng lần này mụn nhọt tiếp tục sưng to đến nỗi ngài không thể giơ tay hay đứng thẳng lưng được. Nghĩ rằng duyên đời sắp hết, nên ngài ủy thác cho một đệ tử là tướng Vương Hán Sung lo việc hậu sự. May thay, lúc đó có một đại phu người Quảng Đông tên là Lương Hạnh Sơn, chuyên trị bệnh ung nhọt, có việc đi ngang qua am Trường Xuân. Sau khi xem xét bệnh tình, ông ta bảo:
- Ung nhọt này rất nguy hiểm. Chậm chút nữa chắc sẽ nguy đến tánh mạng nhưng Đại sư hãy an tâm, tôi có thể trị được bệnh này.
Ông ta dùng một thứ thuốc tán nhỏ rồi xoa quanh mụn nhọt. Vài hôm sau, như trò ảo thuật, mụn nhọt tan biến hoàn toàn. Qua mùa đông năm đó, bệnh tình của ngài dần dần hết hẳn nên ngài lại tiếp tục giảng kinh, dạy dỗ học trò. Nhớ lại năm xưa, lúc bắt đầu tập thiền tại chùa Thiên Giới với Thiền sư Vân Cốc, ngài cũng bị một mụn nhọt tương tự. Ngài tự biết rằng đó là do nghiệp chướng từ tiền kiếp, nên phát nguyện tụng kinh Hoa Nghiêm để giải trừ hoặc nghiệp. Thật lạ kỳ, mỗi lần đọc tụng, viết chú giải kinh Hoa Nghiêm, hay lần chuỗi niệm Phật, mụn nhọt này liền tan biến ngay. Lúc bị lưu đày ở Quảng Đông, mụn nhọt này lại nổi lên hai lần nhưng không nhức nhối cho lắm. Trong bốn mươi tám năm, mụn nhọt này vẫn thường hiện ra trên lưng một thời gian rồi lại tan. Lần này, ngài chẳng chú ý đến nó vì nghĩ nó cũng sẽ tan nhưng không ngờ việc lại trầm trọng như thế. May nhờ gặp đại phu mát tay mà bệnh được giảm bớt. Tuy tuổi đã cao và bệnh hoạn thường xuyên như thế, nhưng ngài vẫn cố gắng đi hoằng pháp ở rất nhiều nơi quanh vùng, tín chúng xin quy y thọ giới với ngài rất đông.
Một hôm, sau khi đại chúng thọ cơm chiều xong, đèn nến được đốt lên để dùng trà và buổi thiền tọa bắt đầu. Cửa thiền đường đóng chặt. Đột nhiên có một người tay cầm roi hung hăng đến trước cửa thiền đường la hét om sòm. Đại chúng nhận biết người đó là nhân viên sở thuế trong vùng, có lẽ vì uống rượu say nên nói năng lảm nhảm. Một vài vị tăng vội kéo gã đi nơi khác, nhưng gã này la to:
- Hôm nay, nhục thân Bồ Tát đã xuống đây. Tôi muốn được xin cứu độ. Tại sao mấy thầy lại cản trở tôi?
Chư tăng ngạc nhiên vào thuật lại câu chuyện cho ngài. Ngài bảo:
- Hãy dẫn anh ta vào đây.
Khi cho phép vào, gã nọ thành kính quỳ xuống chắp tay thưa:
- Bạch Hòa thượng, con tên là Chung Nguyệt Chấn. Lúc còn sống con ăn chay trường và tu pháp môn niệm Phật rất thuần thục. Con đã qua đời được năm tuần lễ nay, đáng lẽ con được vãng sanh qua cõi Tây Phương Cực Lạc, nhưng vì nghiệp còn nặng nên cứ loay hoay mãi ở cõi này. Mong cầu Bồ Tát đại từ đại bi cứu độ dẫn dắt cho con.
Nói xong, gã khóc sướt mướt. Ngài Hám Sơn liền cho gọi quý chư tăng lên chánh điện niệm Phật. Một tay ngài cầm tràng chuỗi, còn một tay ngài đưa tràng chuỗi khác cho gã kia. Khi ấy, mọi người trên chánh điện đồng niệm danh hiệu Phật A Di Đà. Niệm Phật xong, ngài giải thích ý nghĩa buổi lễ Mông Sơn Thí Thực cho loài ngạ quỷ. Khi nói đến câu: “Nên quán nhất thiết pháp, tất cả do tâm tạo”, ngài quất mạnh cây quạt và quát to:
- Hãy mau vãng sanh!
Gã kia, khi nghe thế liền lặp lại:
- Hãy mau vãng sanh!
Ngài quát ba tiếng, gã kia cũng lặp lại ba lần, nhanh hơn tiếng vang. Sau đó, gã lễ phép đứng dậy cảm ơn ngài đã cứu độ gã qua cõi Tây Phương Cực Lạc. Gã chắp tay xá lễ những người có mặt trong chánh điện, rồi nói:
- Xin cảm ơn quý vị đã thành tâm hộ niệm! Tôi hẹn sẽ gặp lại quý vị tại hội Long Hoa.
Khi đó, trong chánh điện có rất đông người đến xem, có người khóc sướt mướt vì cảm động, có người quỳ xuống tán thán công đức của ngài. Tuy nhiên, ngài vẫn thản nhiên trở về phòng riêng. Gã kia theo ngài về đến tận phòng để đảnh lễ, tạ ơn ngài cứu độ, rồi trở lại thiền đường. Nơi đây, gã lại tạ ơn ông thâu thuế đã cho mượn thân xác, rồi ngã lăn xuống đất bất tỉnh. Một lúc sau, ông thâu thuế say rượu tỉnh dậy. Vì biết Chung Nguyệt Chấn là cha của một học giả nổi tiếng trong vùng tên là Chung Thần Phụ, nên các tăng sĩ bèn đến gọi Chung Thần Phụ qua chùa gặp ngài Hám Sơn. Học giả họ Chung xác nhận rằng cha ông ta đã mất được năm tuần và chiều hôm đó ông nhân viên sở thuế đến nhà ông để thâu thuế, nhưng vì uống rượu say mèm nên khi đứng trước bài vị linh cửu, bị hồn của ông Chung Nguyệt Chấn nhập vào, mượn thể xác để cầu ngài cứu độ.
Năm 1614, tăng chúng chùa Nam Hoa nhờ một số đệ tử cũ của ngài đến cung thỉnh ngài trở về chùa. Sau khi ngài được miễn án, những tăng sĩ bại hoại vu khống tội vạ cho ngài đều bị quan quân đuổi ra khỏi chùa, trong chùa chỉ còn những tăng sĩ thiết tha tu học nhưng thiếu người chỉ dạy vì chùa không có ai trụ trì. Quần chúng trong vùng cũng đều ngưỡng vọng, mong ngài trở về Tào Khê hoằng pháp, nhưng ngài chưa muốn về vì vẫn còn bị ám ảnh bởi biến cố năm xưa. Thấy lòng chí thành thỉnh cầu của họ, ngài bèn phái một học trò là thầy Phước Huệ thay mặt mình trở về Tào Khê nhậm chức trụ trì.
Khi xưa, ngài có hẹn sẽ đến thăm một người bạn là Tăng Kim Giản đang dưỡng già tại núi Nam Nhạc, nhưng chưa đi được. Ông này đã viết hơn mười lá thư mời nhưng ngài chưa đáp ứng. Lần này, ông ta lại viết thêm một lá thư nữa, nên ngài cùng với các thị giả Thông Quýnh, Siêu Dật, rời am Trường Xuân đi Quảng Đông. Vào cuối xuân, ngài đến Quảng Đông, lễ tháp Tổ Đức Sơn, rồi đến tham quan Phùng Nguyên Thành tại Võ Long. Ngài trú tại chùa Đại Thiện, truyền giới pháp cho một số người, rồi cho mở một khóa thiền thất tại đây. Tín chúng đến tu học rất đông.
Tháng Tư năm đó, ngài vừa trở lại Hồ Đông thì được tin Lý Thái hậu đã qua đời. Ngài liền cho kiến lập ngay một pháp hội Báo Ân cầu siêu cho bà. Đối với Lý Thái hậu, lúc nào ngài cũng cảm kích ân đức hộ trì chánh pháp của bà. Theo sử liệu ghi lại thì lúc hấp hối, Lý Thái hậu tỏ lòng nuối tiếc vì ngài Hám Sơn và Đạt Quán không thể cử hành lễ an táng cho bà được. Khi được quan hầu cho biết lúc đó ngài đang hoằng pháp ở Quảng Đông, bà liền yêu cầu Hoàng đế cho phép ngài trở lại Bắc Kinh. Triều đình bèn ra một sắc lệnh đặc biệt, mời ngài làm pháp chủ của pháp hội Báo Ân, để cầu siêu cho Lý Thái hậu. Lúc đó, các vị pháp hữu của ngài khi xưa như Đại sư Liên Trì, Thiền sư Đạt Quán, Thiền sư Triệt Không, đã lần lượt viên tịch nên chỉ còn một mình ngài làm chủ lễ. Trước bài vị của Lý Thái hậu, ngài cạo râu tóc, mặc y cà sa trở lại và chính thức kết thúc cuộc sống lưu đày. Nơi linh sàng của Lý Thái hậu, ngài rơi lệ bảo: “Đau đớn thay! Đàn việt1 đã siêu vãng. Nguyện trùng tu chùa Báo Ân vẫn chưa thành. Ta phải đợi kiếp sau chăng?”. Trong suốt bao năm sống trong vòng tù tội mà tinh thần hoằng dương Phật pháp và trùng tu chùa Báo Ân của ngài vẫn trước sau như một2.
1 Đàn việt: kẻ bố thí, người cúng dường.
2 Chú thích của thị giả Phước Chân: Năm 1639, một hoàng tử con của vua Sùng Trinh (vị hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Minh, là con thứ năm của Minh Quang Tông Chu Thường Lạc) bị trúng gió chết giấc trong một thời gian ngắn. Khi tỉnh lại, vị hoàng tử kia thuật rằng ông thấy Lý Thái hậu, hiện là một vị Bồ Tát, hiệu là Cửu Liên đến cứu. Vì thế, vua Sùng Trinh cho xây một điện đường thờ Lý Thái hậu ngay trong hoàng cung có tên là Bồ Tát Cửu Liên. Hình của ngài Hám Sơn cùng với bài kệ tán thán ngài của vua Sùng Trinh được treo bên trong điện đường thờ Lý Thái hậu, như sau: “Lão tăng này, Hình tướng gì! Giữ thành pháp tự được ngài ủng hộ. Tin tưởng như tay phải của thiên tử, ngài là bóng hình của chư Phật Tổ”.
Năm 1615, sau khi hoàn tất pháp hội Báo Ân cầu siêu cho Lý Thái hậu, ngài bèn trở lại thăm quê nhà. Mặc dầu ngài không ghi gì về chuyến thăm viếng quê nhà tại Toàn Tiêu hay chùa Báo Ân, nhưng theo các thị giả của ngài thì tại đây, ngài đã được quần chúng Phật tử cùng quan lại địa phương đón tiếp nồng nhiệt. Vì vua Vạn Lịch vẫn còn tại vị, các thám tử của triều đình vẫn theo dõi ngài rất kỹ và để tránh sự hiềm khích với nhà vua nên ngài không tới chùa Báo Ân. Ngoài ra, ngài cũng muốn đến thăm linh cửu của Thiền sư Đạt Quán, hiện đang được đặt tại núi Kính Sơn, phía Bắc Hàng Châu thuộc tỉnh Chiết Giang. Trước khi nhập tịch, Thiền sư Đạt Quán có nhắn với đệ tử rằng hãy để cho ngài Hám Sơn lo an táng giùm. Một năm sau khi Thiền sư Đạt Quán qua đời, đệ tử của ông là Đại Nghĩa được triều đình cho phép mang linh cửu của Thiền sư từ Bắc Kinh trở về an táng tại núi Kính Sơn, nên ngài quyết định đến đây để hoàn thành lời hứa với Thiền sư.
Vào lúc đó, tại Bắc Kinh, quân giữ thành có bắt được một người lẻn vào hoàng cung, trong mình có giấu một mũi trủy thủ3 rất nhọn. Cuộc điều tra phát hiện ra gã là người em họ xa của Trịnh Quý phi, tên là Trịnh Quốc Thái. Vì vậy, Trịnh Quý phi bị nghi ngờ là mướn người giết Thái tử Chu Thường Lạc. Lo sợ tin đồn này có thể châm ngòi cho một cuộc tranh chấp lớn, Trịnh Quý phi bèn thân hành đến tận cung xin Thái tử Chu Thường Lạc đừng hiểu lầm mà làm ồn vụ này lên. Sau đó, bà vào khóc lóc với Hoàng đế Vạn Lịch, nên vua cũng ra lệnh cho Thái tử Chu Thường Lạc phải ra trước triều đình tường thuật rõ sự tình trước mặt bá quan văn võ, và kết luận rằng Trịnh Quốc Thái chỉ là một kẻ điên khùng, mất trí mà thôi. Dĩ nhiên, gã này bị xử tử ngay để tránh việc cung khai ra những người khác. Sự việc này được viết rõ ràng trong sử, gọi là án Đỉnh Kích. Tuy sự việc đã được giải quyết nhanh chóng để tránh tai tiếng, nhưng trong triều nội, sự tranh chấp vẫn ngấm ngầm tiếp diễn giữa các phe phái. Hiển nhiên, triều đình càng chia rẽ thì các quan lại địa phương khắp nơi càng lo củng cố quyền lợi. Nạn tham nhũng hối lộ trở nên trầm trọng hơn bao giờ hết. Khắp nơi dân chúng ta thán về sưu cao thuế nặng, nhưng các quan phủ vẫn mặc tình vơ vét.
3 Trủy thủ: dao găm nhỏ.
Năm 1615, ngài Hám Sơn giảng kinh Lăng Nghiêm cho các đệ tử và trước tác thêm quyển Pháp Hoa Thông Nghĩa và chú giải Luận Đại Thừa Khởi Tín. Tháng Bảy năm đó, ngài đến Nam Nhạc giảng kinh cho dân chúng trong vùng. Rằm Trung Thu, ngài lên núi Chúc Dung viết thi kệ.
Tháng Chín, quan Phùng Nguyên Thành được thuyên chuyển từ Võ Long về Hồ Nam gần đó. Ông mời ngài đến thăm chùa Phương Quảng và giới thiệu ngài với quan Ngô Sanh Bạch. Ông Ngô Sanh Bạch nghe ngài nói về quyển chú giải kinh Lăng Nghiêm nên phát nguyện cúng dường tiền khắc gỗ để in quyển chú giải này. Sau đó, ông còn ra lệnh cho thợ vẽ hình ảnh của tám mươi tám vị Tổ vào cuốn sách. Mỗi hình Tổ, ông thỉnh ngài viết một bài kệ. Sau đó, quan Phùng Nguyên Thành còn mời ngài đến thăm núi Cửu Nghi và làm lễ quy y cho một số dân chúng tại đây.
Năm ngài bảy mươi mối tuổi, tăng chúng chùa Hoa Dược thỉnh ngài đến hoằng pháp tại đây. Ngài đã giảng kinh A Di Đà cho dân chúng trong vùng và làm lễ truyền giới cho một số người. Tháng sau, ngài ghé qua chùa Mai Tuyết, lễ mộ Thiền sư Tốn Am. Tháng Tư năm đó, ngài rời Hồ Đông và có viết bài kệ Khứ Nam Nhạc giải chào. Các đệ tử Quảng Mộ Nhất, Phương Di Thị, Hà Trung Ích đưa tiễn ngài đến phố Chương Mộc. Tháng Năm, ngài đến Võ Xương, lễ bái tượng Phật lớn tại đây, rồi ghé thăm núi Cửu Phong để nhập thất tu thiền. Tháng Sáu, ngài đến Tầm Dương thăm Đông Lâm, viết kệ Hoài cổ. Ngài lên núi Khuông Lự, truy điếu Thiền sư Triết Không.
Lúc đó vào mùa hè, khí hậu rất nóng bức nên ngài đến núi Kim Trúc thuộc rặng Lô Sơn nghỉ ngơi và chú giải Triệu Luận4 ở nơi đó. Vì thấy phong cảnh của núi này rất thanh tĩnh, đi khắp núi mà chẳng thấy một bóng người nên ngài có ý muốn ẩn cư tại đó. Tháng Bảy, ngài đến Quy Tông, lên đỉnh núi Kim Luân Phong, lễ tháp thờ xá lợi và viết kệ kỷ niệm. Một tăng sĩ tại Ngũ Nhũ cúng dường cho ngài một tịnh thất để ngài ẩn tu. Ngài thấy vùng đất này không rộng cho lắm, nhưng rất biệt lập nên thọ nhận. Đệ tử cư sĩ của Thiền sư Đạt Quán là Hình Lai Từ, người Giang Châu, bèn cúng dường thêm năm mươi lạng vàng, mở rộng vùng núi đó để ngài có thể an dưỡng tuổi già ở nơi đây. Các cư sĩ như Điệc Thạch, Trần Đại Tham đến núi thăm viếng ngài. Nghe ý ngài đang chuẩn bị ẩn cư nên họ cũng phát tâm hộ pháp.
4 Triệu Luận: là một bộ luận Phật giáo về tư tưởng Bát Nhã của Đại sư Tăng Triệu, một bậc cao tăng nổi tiếng của Tam Luận tông. Chính là từ Triệu Luận, Bát Nhã Không Quán trở thành lý luận trung tâm của tư tưởng Phật giáo Trung Quốc. Sau đó, ở Trung Quốc xuất hiện nhiều tông phái, ít nhiều đều lấy Bát Nhã Không Quán làm cơ sở lý luận cho tông phái của mình.
Tháng Tám, ngài rời núi đến Hoàng Mai, lễ tháp của Tứ Tổ và Ngũ Tổ, rồi thăm viếng quan triều Uông Tư Mã. Sau đó, ngài vào núi Tử Vân Sơn, lưu lại nơi đây cả mười ngày. Kế đến, ngài tới Tương Thành, thăm Thái sử Ngô Quán Ngã và Thái sử Ngô Mộc Như. Ít hôm sau, ngài lên núi Phù Sơn, rồi vượt sông tới núi Cửu Hoa. Đầu tháng Mười, ngài đến chùa Đông Thiền tại Kim Sa, gặp các cư sĩ họ Vu, Vương và Đông. Cư sĩ Nhan Sanh tại Thạch Môn đến cung nghinh ngài tại Ngô Giang. Ngài ở lại nhà ông ta vài hôm. Vị cư sĩ này chuẩn bị thức ăn để tham dự cuộc hành trình đến chùa Tịch Chiếu tại núi Kính Sơn trong khoảng một tháng. Ngài đến chùa Tịch Chiếu tại núi Kính Sơn vào ngày mười lăm tháng Mười. Ngài phỏng đoán ngày làm lễ trà tỳ nhục thân Thiền sư Đạt Quán hợp với ngày mà các đệ tử của Thiền sư dự định tổ chức. Ai nấy đều kinh ngạc, sửng sốt. Ngày mười chín, ngài làm pháp chủ buổi lễ trà tỳ nhục thân của Thiền sư Đạt Quán. Các đệ tử tại gia và xuất gia của Thiền sư Đạt Quán đã chuẩn bị bài vị điếu tang. Ngày hai mươi lăm, ngài nhặt lấy xá lợi tro cốt, rồi đặt vào đài Văn Thù. Sau đó, đệ tử của ngài là Pháp Khải xây tháp, còn ngài thì khắc tiểu sử Thiền sư Đạt Quán vào bia đá. Ngài tự tay làm những việc này hầu mong đáp lại ân tình mà Thiền sư Đạt Quán đã dành cho ngài.
Ngài lưu trú lại núi ít lâu và cho mở mấy khóa thiền thất, nhưng thấy phần lớn các thiền sinh chưa nắm vững ý chỉ Thiền tông nên ngài viết quyển Tham Thiền Thiết Yếu cho chư tăng trên núi theo đó mà tu hành. Lúc đó, đệ tử Pháp Khải thỉnh ngài thuyết giảng về Tướng tông5 nên ngài bèn giảng cho các đệ tử trên núi nghe thêm về tông phái này. Sau đó, ngài lại viết quyển Tánh Tướng Thông Thuyết cho chư tăng học hỏi. Lúc đó, chư tăng khắp nơi kéo đến núi học hỏi với ngài rất đông. Đối với những ai thỉnh khai thị, ngài đều thuyết pháp và chỉ dạy tận tình, nhưng ngài thấy đa số thiền sinh tu thiền đã lâu mà vẫn chưa nắm vững yếu chỉ Thiền tông nên ngài viết thêm bài kệ Đam Bản Hán Ca để chỉ dẫn cho họ, trong đó có lời giới thiệu như sau:
5 Tướng tông, hay Pháp Tướng tông, là một trong bảy tông phái chính của Phật giáo Đại thừa.
“Tại động Pháp Quật, núi Kim Sơn, kể từ khi Thiền sư Đại Huệ6 trùng hưng, huệ mạng của tông Lâm Tế được tương tục truyền thừa. Hiện tại, người tham thiền đến tu đầy cả núi. Trong đó, có người đạt đến trạng thái tịch tĩnh trong chớp mắt, đương thể hiện tiền7, đắc đại tự tại. Song tiếc rằng khi đang ngồi trên dải đất trắng, tức trực nghiệm cảnh giới tịch tĩnh, có người lại cho là kỳ đặc, không biết xả bỏ, nào hay đang bị chướng ngại vì chấp vào pháp. Trong Giáo tông, cảnh giới này được gọi là sở tri chướng8. Các bậc cổ đức thường bảo: ‘Đạt đến cảnh giới trăng sáng hiện trong bờ ao lạnh lẽo, chuông vang trong đêm vắng không làm gợn chút sóng cồn, nhưng vẫn còn ở bên bờ sinh tử’. Thế nên ‘dễ đạp gai nhọn trong bụi cây, nhưng khó xoay mình dưới lùm tre trong đêm trăng sáng’, hay ‘tay nắm đỉnh cột trụ’, hoặc ‘trầm lặng nơi nước chết’. Những ai đạt đến cảnh giới này, chớ nên trụ dừng nơi đó. Làm thế nào những kẻ chưa từng đạt đến cảnh giới đó, chỉ ngẫu nhiên đắc định quang tam muội9 mà dám bảo rằng đã đạt được trí huệ bát nhã? Thực ra, đó chỉ là ảnh tử10 của thần thức11. Những người này được ít mà cho là đủ. Bệnh thiền này xảy ra rất thông thường đối với người xưa lẫn nay. Tuy chưa đạt đến cứu cánh mà vẫn bảo là đã đạt được. Sợ họ lạc vào lưới võng thế đế12 và khiến những người khác lầm nghi, tôi mới viết bài kệ Đam Bản Hán Ca, tức bài ca của người mang gỗ, cho những thiền sinh đã từng thỉnh vấn.”
6 Thiền sư Đại Huệ: là một thiền sư tông Lâm Tế. Ngài là một trong những đệ tử xuất sắc của Thiền sư Viên Ngộ và là người khởi đầu việc ứng dụng pháp tu “tham công án”, “tham thoại đầu”, sau này trở thành một phương pháp tu chính của Thiền tông.
7 Đương thể hiện tiền: trạng thái của sự vật đang diễn ra ngay lúc này và được nhận biết. Theo đạo Phật, vạn vật do thức hay duyên khởi mà thành nên không vĩnh hằng, có sinh có diệt, nên người tu tập theo Thiền tông Phật giáo nhận biết mọi sự vật, hiện tượng ở “đương thể hiện tiền”, tức ở trạng thái hiện tại như chúng đang là, quán sát và trực ngộ bản tánh thật của vạn vật ngay nơi thực tại hiện tiền.
8 Sở tri chướng: chướng ngại do chỗ biết, hay điều mình biết. Sự chấp trước, chấp chặt vào điều mình biết (sở tri) là chướng ngại ngăn trở tâm thanh tịnh, đi đến giác ngộ chân tánh của sự vật, hiện tượng, ngăn trở sự giải thoát.
9 Đắc định quang tam muội: chứng đạt được chánh định.
10 Ảnh tử: cái bóng hay hình ảnh phản chiếu.
11 Thần thức: nghĩa là linh hồn (là nhận thức thuộc về tâm linh, ngoài cái thấy bình thường của người đời).
12 Lạc vào lưới võng thế đế: sa vào sự thật tương đối hay những hiểu biết của thế gian.
Năm bảy mươi hai tuổi, ngài Hám Sơn thuyết giảng thêm về giới luật cho các đệ tử rồi xuống núi, đi đến vùng Đông Nam Hàng Châu, Chiết Giang, để làm lễ tưởng niệm Đại sư Liên Trì. Ở vùng này, ảnh hưởng của tông Tịnh Độ rất mạnh, và Đại sư Liên Trì được tôn là một trong những vị Tổ của tông Tịnh Độ, nên khi ấy có hơn một ngàn đệ tử tại gia kéo đến học hỏi với ngài trên núi. Suốt hai mươi ngày, vào mỗi tối, đều có những buổi thỉnh vấn Phật pháp về tông Tịnh Độ. Hôm đó, ngài Hám Sơn đã dạy về công phu niệm Phật như sau:
“Pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh cõi Tây Phương Cực Lạc vốn là đại sự cắt đứt dòng sanh tử13, vì vậy bảo rằng chỉ cần xưng niệm danh hiệu Phật là có thể cắt đứt sanh tử. Do đó, ngày nay mới phát tâm niệm Phật. Song, nếu không biết cội gốc của sanh tử14, mà cứ niệm Phật mãi thì cuối cùng sẽ đi về đâu? Nếu niệm Phật mà không đoạn được cội gốc của sanh tử thì làm sao cắt đứt dòng sanh tử? Cội gốc của sanh tử là gì? Cổ nhân nói: ‘Nghiệp bất trọng15 bất sanh Ta Bà. Ái bất đoạn16 bất sanh Tịnh Độ17’. Thế nên, biết rõ ái dục là cội gốc của sanh tử. Tất cả chúng sanh thọ khổ trong sanh tử đều do ái dục. Cội gốc ái dục này không phải chỉ hiện hữu trong một hoặc hai, ba, bốn đời, mà nó đã tự có sẵn từ đời vô thủy18 cho đến ngày nay. Sanh sanh thế thế, xả thân thọ thân, đều do lưu chuyển theo ái dục. Ngày nay, suy nghĩ nhìn lại, xem coi lúc nào có một niệm tạm rời cội gốc ái dục này! Hạt giống ái căn, bao kiếp tích lũy sâu dày, nên khiến sanh tử không cùng tận. Hiện tại, vừa phát tâm niệm Phật, nếu chỉ vọng không cầu sanh Tây Phương mà danh tự ái dục (tức cội gốc của sanh tử) lại không biết đến, thì khi nào mới niệm đoạn được nó? Không biết cội gốc của sanh tử, nên một bên niệm Phật, một bên cội gốc sanh tử lại càng tăng trưởng nhiều hơn. Cả hai việc niệm Phật và cội gốc sanh tử chẳng có quan hệ với nhau. Dầu niệm cách nào đi nữa, đến lúc lâm chung, quý vị chỉ thấy sanh tử ái căn19 hiện tiền. Khi đó lại cho rằng Phật hoàn toàn không có thần lực, nên liền oán trách niệm Phật không linh nghiệm; dẫu sau này có hối hận cũng không kịp. Vì vậy, khuyên người niệm Phật thời nay, đầu tiên phải biết ái dục là cội gốc của sanh tử. Ngày nay dốc lòng niệm Phật, thì niệm niệm phải đoạn ái căn này. Trong cuộc sống hằng ngày, ở nhà niệm Phật; mắt thấy vợ con cháu chắt, gia duyên tài sản, đều không nên đắm trước ái nhiễm, thì làm việc nào và niệm nào cũng đều vì sự sanh tử, và cảm giác như toàn thân đang đứng trong hầm lửa. Lúc chưa biết cách niệm Phật đúng đắn, thì niệm ái dục trong tâm chưa thể xả bỏ. Vì niệm không thiết tha và chẳng biết ái dục là chủ tể20, nên chỉ niệm Phật ngoài da21. Nếu như thế thì Phật chỉ nghe niệm, còn ái dục thì lại tăng thêm. Lúc cảnh tình của vợ con hiển hiện, phải xoay nhìn vào tâm. Một danh hiệu Phật có thể đối địch với ái dục, thì sẽ cắt đoạn được ái căn. Không cắt được ái dục thì làm sao đoạn được sanh tử. Do tập khí duyên ái trong bao đời đã chín muồi mà nay chỉ mới bắt đầu niệm Phật, lại không thiết thật niệm Phật, thì không thể niệm Phật đắc lực được. Nếu trước mắt không thể kiềm chế được ái cảnh22, thì khi lâm chung quyết không thể tự làm chủ được. Do đó, khuyên người niệm Phật, việc trước nhất là phải biết vì sanh tử mà thiết tha niệm Phật, tức là phải có tâm thiết tha cắt đoạn sanh tử, và phải dùng niệm niệm mà đốn đoạn cội gốc sanh tử. Lúc niệm niệm đều dứt được sanh tử thì cần gì đợi đến ngày ba mươi tháng Chạp! Đợi đến lúc đó thì đã trễ lắm rồi! Thế nên, bảo rằng trước mắt luôn nghĩ đến sanh tử đại sự. Trước mắt liễu23 được sanh tử vốn không. Niệm niệm thiết thật, thì đao đao đều chặt đứt. Dụng tâm như thế, nếu không vượt khỏi sanh tử thì chư Phật bị đọa vì tội vọng ngữ! Do đó, người xuất gia kẻ tại gia, biết rõ tâm sanh tử24 tức là biết rõ thời tiết xuất ly sanh tử25, sao còn diệu pháp nào khác nữa”.
13 Cắt đứt dòng sanh tử: giải thoát khỏi sanh tử, tức là quán thấy các pháp đều sanh diệt do duyên khởi, không thường hằng nên không bám chấp vào mọi sự vật.
14 Cội gốc của sanh tử: căn nguyên sanh, diệt của mọi sự vật, hiện tượng là do duyên (vạn pháp do duyên sanh), có sanh có diệt, không thường hằng. Người thấu rõ cội gốc của sanh tử thì không còn mê chấp vào duyên hợp, duyên tan của tất cả các pháp.
15 Nghiệp bất trọng: nghiệp không nặng.
16 Đoạn: đoạn trừ, dứt đoạn.
17 Tịnh độ: ý nói cõi Tịnh Độ, là cảnh giới thanh tịnh hay Cực Lạc. Trong nhân gian, người ta thường hiểu Tịnh Độ là một nơi nhất định, nhưng thật ra Tịnh Độ là một dạng của tâm thức giác ngộ.
18 Vô thủy: không có chỗ bắt đầu.
19 Ái căn: căn nguyên gây nên tham ái.
20 Chủ tể: chủ thể có năng lực chi phối, khống chế.
21 Niệm Phật ngoài da: niệm không khẩn thiết, không soi chiếu tâm nên ái dục vẫn ngự trị bên trong, niệm Phật khi tâm chưa thấu rõ ái dục là gốc sanh tử nên không đoạn trừ được ái dục.
22 Ái cảnh: sự tham ái theo ngoại cảnh hay trần cảnh.
23 Liễu: thấu đạt nghĩa lý.
24 Tâm sanh tử: tâm giác ngộ nghĩa lý của sanh tử, nên phát tâm tu hành để giải thoát.
25 Xuất ly sanh tử: giải thoát khỏi sanh tử.
Để giúp chư Phật tử tu tập pháp môn này, ngài Hám Sơn lại giảng thêm về Chỉ Quy Tịnh Độ khiến cho ai ai cũng đều hoan hỷ:
“Chỉ tức ý chỉ tu hành, quy tức quy về cõi Tịnh Độ. Đức Thế Tôn nhiếp hóa quần sanh, thuyết ra bao loại pháp môn, phương tiện chẳng có một26, mà pháp yếu thủy chung27 vốn có hai tông tánh và tướng28. Vì căn cơ có đại, tiểu29, nên giáo có thi thiết đốn, tiệm30. Người sau phân hai môn Thiền, Giáo31. Giáo tức là nhiếp dẫn ba căn32. Thiền tức là đốn ngộ nhất tâm. Như cả Đại Tạng kinh Đại thừa, cùng một ngàn bảy trăm công án, thì hướng về cái nào! Pháp môn Tịnh Độ, bao trùm ba căn, đốn, tiệm đều được cứu độ; không có căn cơ nào mà chẳng nhiếp thọ33. Vì vậy bảo rằng siêu vượt khỏi ba cõi, đây là pháp môn tối thắng nhất. Từ trên chư Tổ, dưới đến các bậc đại sĩ liễu ngộ chân tâm, chưa từng có ai không quy hướng vào đó. Bồ Tát Long Thọ, Mã Minh, cực lực xiển dương, tán thán. Có người bảo rằng pháp môn này chỉ vì những người căn cơ trung hạ, tức là họ không biết yếu chỉ Tịnh Độ. Tất cả chúng sanh trong mười phương thế giới, cùng chánh báo y báo34, tuy có sự hơn kém tịnh uế, nhưng đều từ một tâm cảm hiện ra.
26 Phương tiện chẳng có một: phương tiện không chỉ có một.
27 Thủy chung: từ đầu chí cuối, lúc bắt đầu và lúc cuối cùng, ý nói trước sao sau vậy.
28 Tánh, tướng: “tánh” là thật tánh, tự tánh, tức bản chất thật của sự vật; “tướng” là biểu hiện bằng hình tướng của tất cả pháp thông qua thức.
29 Căn cơ có đại, tiểu: ý nói khả năng lĩnh hội hay tiếp nhận đạo lý, chánh pháp của mỗi người có khác nhau.
30 Đốn, tiệm: “đốn ngộ” là giác ngộ ngay tức thì, đối nghĩa với “tiệm ngộ” là giác ngộ từ từ. Ở đây ý nói mỗi pháp môn chủ trương đốn hay tiệm khác nhau, nhưng đều là phương tiện để giúp người tu đi đến giác ngộ, giải thoát, nên mỗi người tùy theo căn cơ của mình mà áp dụng pháp môn tu phù hợp.
31 Thiền, Giáo: “Giáo” là kinh tạng Phật giáo, hay giáo pháp; “Thiền” chỉ Thiền tông. Các Thiền sư chủ trương Thiền, Giáo song hành có nghĩa là tiếp thu và vận dụng uyển chuyển kinh tạng Phật giáo theo tinh thần giác ngộ ngay tức thì của Thiền tông, không đi quá sâu vào việc lý giải kinh điển.
32 Nhiếp dẫn ba căn: “nhiếp dẫn” là điều phục, thâu lại và dẫn tới, hướng tới; “ba căn” là ý căn, thiệt căn và nhĩ căn, hoặc nhãn căn, tỵ căn và thân căn. Nhiếp dẫn ý căn là ngay lúc niệm Phật tâm chuyên chú vào Phật; nhiếp dẫn thiệt căn là miệng niệm rõ ràng, mạch lạc; nhiếp dẫn nhĩ căn là tai phải nghe được rõ ràng, mạch lạc. Nhiếp dẫn nhãn căn là mắt quyết không thấy cảnh loạn; nhiếp dẫn tỵ căn là mũi cũng không ngửi những mùi loạn khác; còn nhiếp dẫn thân căn là thân phải cung kính.
33 Ý nói mọi căn cơ đều có thể lĩnh hội được chánh pháp.
34 Chánh báo, y báo: “báo” nghĩa là nghiệp báo, hay kết quả của nghiệp; “chánh” là chân chánh thọ nhận; “y báo” là cái đi theo y vậy, tương ứng; nếu chánh báo lành (nhân lành) thì y báo lành (quả tốt).
Vì vậy, bảo rằng tâm tịnh tức cõi nước tịnh, nên gọi là duy tâm Tịnh Độ; cõi Tịnh Độ này không ngoài tâm. Thanh tịnh do nhất tâm bất loạn. Các vị chưa liễu ngộ được chân tâm, sao không muốn an cư nơi Tịnh Độ! Thiền gia thượng thượng căn35 chưa từng có ai không quy về Tịnh Độ. Các bậc trung căn, hạ căn, tu trì tịnh giới, chuyên tâm chú niệm, quán niệm tương tục36, lâm chung sẽ được vãng sanh. Tuy có tướng đến đi, mà tướng hảo Di Đà37, đài hoa rừng báu, thật do tự tâm cảm hiện ra. Ví như những việc trong mộng, chẳng từ ngoài vào38. Những kẻ ngu phu ngu phụ39, thường tu thập thiện40, tinh trì năm giới41, chuyên tâm niệm Phật, lúc sắp lâm chung, tất được vãng sanh.
35 Thượng căn, trung căn và hạ căn: là ba hạng căn trí của chúng sanh, tương ứng với mức độ giác ngộ hay khả năng thọ lãnh chánh pháp của Phật. Thượng căn là hạng căn trí lanh lẹ, sáng suốt (chẳng hạn như Bồ Tát); trung căn là hạng căn trí có thể thọ lãnh pháp hạng trung của Phật (tức hàng Thanh văn và Duyên giác); hạ căn là hạng căn trí chậm lụt, chỉ có thể thọ lãnh pháp chút ít.
36 Tương tục: không gián đoạn.
37 Tướng hảo Di Đà: nói đến tướng hảo của Phật A Di Đà là nói đến vô lượng quang minh và vô lượng thọ (theo tông Tịnh Độ).
38 Ý nói vạn pháp tự tâm sinh.
39 Ngu phu ngu phụ: ý nói không phải hàng tri thức.
40 Thập thiện: mười việc thiện được thực hiện qua thân, khẩu và ý: 1) Không sát sanh, 2) Không trộm cắp, 3) Không tà dâm, 4) Không vọng ngữ, 5) Bất lưỡng thiệt, 6) Không ác khẩu, 7) Không ỷ ngữ, 8) Không tham, 9) Không sân, 10) Không tà kiến.
41 Ngũ giới: năm điều răn cấm căn bản mà Phật tử khi đã quy y Tam Bảo phải giữ gìn, cụ thể là: 1) Không sát sanh, 2) Không trộm cắp, 3) Không tà dâm, 4) Không nói dối, 5) Không uống rượu.
Đây là nhờ Phật lực gia trì, và hành nhân niệm tưởng được tăng ích thù thắng. Những niệm tưởng thù thắng kia do đại nguyện mà có. Nguyện cùng niệm giao tiếp, và tự tâm cùng Phật thầm mặc tương ưng42. Tuy cảnh Tịnh Độ chưa hiện, mà công phu vãng sanh đã thành, thật do lực của tự tâm thầm cảm nên, mà chẳng từ ngoài vào. Những kẻ thường gieo mười điều ác, thì lúc lâm chung sẽ bị nghiệp lôi kéo, và bao việc khổ trong địa ngục hiện ra trước mắt. Vì khổ quá bức bách, nên mới có tâm thiết tha muốn thoát khổ. Tâm này cộng với ý cùng cực khổ não mà thành niệm lực, nên khởi tâm thiết tha sám hối. Tâm sám hối đã thiết tha, thì ngay nơi ấy toàn thể ý niệm chuyển biến, nên trong một niệm, bèn tương ưng với chư Phật. Nhờ Phật lực gia trì, cảm ứng, khiến núi đao hóa thành rừng châu báu, và vạc lửa biến thành ao sen, nên những kẻ ác này cũng được vãng sanh. Cảnh Tịnh Độ do toàn thể công lực của tự tâm chuyển biến, chứ chẳng do từ ngoài mà được. Vì vậy, quán thấy vạn pháp trong ba cõi, chẳng có pháp nào mà không xuất sanh từ tâm. Cảnh tịnh uế, chẳng có cảnh nào là không do tâm hiện. Thế nên, pháp môn Tịnh Độ, không luận là người đã ngộ hay chưa ngộ, bậc thượng trí hay kẻ hạ ngu, nếu tu thì tất định sẽ được vãng sanh; tất cả đều do tự tâm, tức là ý chỉ duy tâm Tịnh Độ, trắng đen rõ ràng. Thể tánh của chư Phật như hư không. Tự tâm lặng lẽ thanh tịnh, thì ứng hợp với chư Phật.
42 Tự tâm cùng Phật tương ưng: bản tâm thanh tịnh đúng với tâm Phật, tức trở về tâm giác ngộ, còn gọi là Bồ Đề tâm hay Phật tánh.
Tuy giả lập khởi một niệm nguyện lực trang nghiêm, mà cảnh giới Tịnh Độ liền hiện, chứ không cần vay mượn công huân43. Đó là bậc thượng thượng, chẳng phải là việc mà kẻ trí hẹp hay lòng tin cạn cợt có thể đạt đến. Các vị trung căn, hạ căn hãy nên liên tục quán xét tâm niệm, chớ để duyên ái hay tập nghiệp làm khuynh đảo. Căn tuy khiếm khuyết, mà chí thật thượng thượng. Việc tu khó, chỉ vì khó đoạn ái căn. Những kẻ ác được vãng sanh lại càng khó hơn. Tuy bảo rằng đới nghiệp vãng sanh44, nhưng thật ra do tập khí của thiện căn trong bao đời đã huân tập45 mà phát khởi. Tuy căn tánh xấu xa thấp kém, nhưng nếu phát khởi một tâm niệm dũng mãnh, thì siêu vượt lên bậc thượng thượng. Vừa bỏ dao đồ tể, bèn làm Phật sự, còn gì thù thắng bằng! Song, chúng sanh mỗi mỗi không giống nhau. Thế nhân nếu mong đợi cầu vãng sanh thì là sai lầm. Căn tánh không lớn nhỏ; cứu cánh chỉ do một niệm hướng thượng mà thành tựu. Vì vậy, pháp môn này há chẳng phải đặc biệt quyền thiết cho trung, hạ căn thôi sao!
43 “Công huân”: công lao tu tập. “Vay mượn công huân”: ý nói nhờ vào công phu tu tập hay thành tựu chứng ngộ của người khác.
44 Đới nghiệp vãng sanh: về cõi Tây Phương Cực Lạc tuy vẫn còn nghiệp chướng mang theo (nhờ phút lâm chung có duyên lành hồi tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ).
45 Huân tập: xông ướp cho thấm dần, chỉ sự lặp đi lặp lại một thói quen lâu ngày trở thành một chủng tử (hạt giống) tốt hoặc xấu trong tâm thức (niệm). Ở đây ý nói các tập khí phiền não tham, sân si, ái do những thói quen tích lũy mà thành.
Tông chỉ của Tịnh Độ Chỉ Quy là dựa vào kinh Mười sáu phép Quán46, và phát minh những chỗ khó hỏi, để hiển lộ yếu chỉ của pháp môn Tịnh Độ. Kế đến dẫn các thuyết từ Liên Tông47 cùng Long Thư48, để biểu thị tín, nguyện, hạnh. Thứ đến, liệt kê tiểu sử từ ngài Huệ Viễn49 xuống tới hai mươi sáu vị khác để dùng làm thật chứng50. Sau đó, diễn giảng khuyến khích, cùng phát huy nghĩa lý niệm Phật, hay dẫn dụ nhân quả, hầu mong hành giả tiến bước tu hành, và chân thành chú tâm nơi pháp môn này. Tôi gọi là tập chỉ nam của Tịnh Độ. Lý và sự đều phải tu51, lý nhân quả đều hiển lộ. Người xem lấy đây làm nơi nương tựa. Đó là cảnh giới diệu lạc, sáng soi tâm mắt. Cần gì phải cầu ngoài muôn quốc độ mới thọ được sự an lạc vi diệu thù thắng! Những điều này hiển hiện ngay trong công việc hằng ngày, chứ không đợi quả báo đến hay lúc thần thức đã siêu sanh, mà sau mới thật chứng. Lợi ích của bài này là làm chiếc thuyền từ bi trên biển khổ, và làm ánh đuốc huệ trong đêm dài tăm tối. Chớ coi là việc nhỏ!”
46 Kinh Mười sáu phép Quán, hay kinh Quán niệm Hơi thở, là mười sáu phép quán niệm hơi thở để cho tâm chuyên nhất mà đạt được thiền định.
47 Liên Tông: tên gọi khác của Tịnh Độ tông.
48 Long Thư Vương: là một cư sĩ Phật giáo đời nhà Tống (Trung Hoa). Ông tên là Vương Nhật Hưu, người đất Long Thư, nên gọi là Long Thư Vương cư sĩ. Ông được biết đến qua mười trước tác viết về pháp môn Tịnh Độ.
49 Huệ Viễn (334 – 416): là một cao tăng Trung Hoa đời nhà Tấn. Ngài được xem là sơ Tổ của tông Tịnh Độ, và pháp môn tu của ngài là niệm Phật Tam Muội.
50 Thật chứng: giác ngộ được chân tánh của các pháp bằng công phu tu tập của chính mình, không phải chỉ học theo giáo lý đơn thuần, và chư Phật hay chư Tổ cũng do thật chứng mà có được chánh pháp.
51 Lý và sự đều phải tu: ý nói cách tu trọn vẹn trí nguyện và hạnh nguyện.
‘Tu lý’ là tu tập để đi đến giác ngộ chánh pháp, đoạn dứt phiền não, giải thoát; ‘tu sự’ là tu về phần tướng (oai nghiêm, nghi lễ) và các Phật sự, với hạnh nguyện đem lại lợi ích cho chúng sanh. Lý sự viên dung - hay còn gọi là ‘phước tuệ song tu’ hay ‘tự lợi và lợi tha’ (mang lại lợi ích cho bản thân và cả người khác) - là chủ trương của Phật giáo Đại thừa.
Ngoài ra, ngài Hám Sơn còn giảng giải mật hạnh của Đại sư Liên Trì lúc sinh thời. Trong số các đệ tử của Đại sư Liên Trì, có vị khi nghe lời ngài kể đã không cầm được nước mắt. Họ bảo rằng ngài tiết lộ những điều về Đại sư Liên Trì mà trước đây họ chưa từng biết đến. Mặc dầu đường lối tu hành giữa ngài và Đại sư Liên Trì có phần khác biệt, nhưng cả hai ngài đều nhấn mạnh sự giống nhau giữa Thiền tông và Tịnh Độ tông, tức lý duy tâm Tịnh Độ. Sau khi hoằng pháp xong, chư tăng thỉnh cầu ngài khắc kệ trên bia tháp của Đại sư Liên Trì.
Khi trở về, Pháp sư Huyền Tân, trụ trì chùa Tịnh Từ, vốn là đệ tử của thầy Tuyết Lãng, vị sư huynh thuở thiếu thời tại chùa Báo Ân và cũng là pháp hữu đồng hành đầu tiên của ngài Hám Sơn, cùng các quan triều như Đồng Thông Quận, Ngu Sử Bộ, Ông Đại Tham, v.v... thỉnh ngài trú tại điện đường Tông Cảnh, chùa Tịnh Từ, phía Đông Nam vùng Hàng Châu. Điện đường Tông Cảnh vốn là nơi ngài Vĩnh Minh Diên Thọ thường thuyết pháp, và cũng là trung tâm thuyết giảng kinh điển nhà Phật trong triều Minh. Chùa Tịnh Từ được xây tại núi Nam Bình, đỉnh Huệ Nhật cạnh
Tây Hồ, vào đời Ngũ Đại52 Hậu Chu Hiển Đức53 nguyên niên54 (954). Chùa vốn được gọi là Huệ Nhật Vĩnh Minh viện, và là một trong bốn ngôi chùa lớn nhất tại Tây Hồ. Những năm đầu nhà Tống, ngài Vĩnh Minh Diên Thọ lại xây thêm Tông Cảnh đường. Nơi đó, ngài Hám Sơn thuyết giới cho hàng ngàn người. Ngài cũng viết bài ký thuật Tây Hồ Tịnh Từ Tự Tông Cảnh Đường Ký. Chư sơn trưởng lão, các pháp sư đạo cao đức trọng, đồng tụ hội trên hồ cạnh chùa cùng thỉnh vấn, đối đáp Phật pháp với ngài. Trong những cuộc pháp đàm đó, chư thính chúng thường đưa ra những câu hỏi, đề mục khó, nhưng ngài đều giải đáp cho họ một cách rõ ràng minh bạch, khiến ai nấy đều thỏa mãn. Thời ấy, pháp hội này được coi là tối thắng vi diệu nhất vùng Đông Nam55.
52 Ngũ Đại Thập Quốc (907 – 979) là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ khi triều Đường diệt vong, kéo dài đến khi triều Tống thống nhất Trung Quốc.
53 Hậu Chu Thái Tổ, tức Hậu Chu Hiển Đức (904 – 954) là một trong những vị hoàng đế thời Ngũ Đại Thập Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
54 Nguyên niên: năm (trị vì) đầu tiên của một vị vua.
55 Chú thích của thị giả Phước Thiện: Khi thuyết pháp tại giảng đường Tông Cảnh, thầy tôi thường nói cả vài ngàn chữ trong một hơi dài mà không ngừng nghỉ. Âm thanh của ngài rất rõ ràng và trong như tiếng chuông ngân vang, khiến thính chúng trong và ngoài chùa đều nghe rõ ràng. Ngài luôn ngồi tư thế kiết già mà không thay đổi, trong khi tay đang viết kệ hay những bài pháp ngữ. Ngài viết vài trăm hoặc hàng ngàn chữ trên giấy trắng mà chẳng ngừng nghỉ. Ngài viết xong, thị giả vội vã mang bài viết đó đến cho người thỉnh pháp. Tay trái ngài luôn lần hạt chuỗi, còn tay phải thì luôn cầm quạt tre màu trắng. Cây quạt này không rời tay ngài giây phút nào, dẫu mùa hè nóng nực hay mùa đông lạnh giá. Ngài chỉ cầm chứ không mở ra để quạt. Khi cần thiết ban giáo huấn cho chúng sanh trong ba cõi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới, ngài chỉ việc gõ quạt xuống bàn, khiến vang tiếng lớn. Âm thanh của cây tích trượng cũng không thể vang to bằng âm thanh của cây quạt. Âm thanh này giống như tiếng sét đánh, khiến tà ma quỷ quái đều bỏ chạy.
Một hôm, ngài Hám Sơn đang ngồi trong phòng thì có một người đi vào, dập đầu lễ bái ngài. Trước khi người kia đứng dậy, ngài đập cây quạt trên bàn rồi quát:
- Đồ giết người! Sao dám đến đây gặp ta?
Vị tăng tri sự nghe tiếng ngài quát mắng, liền chạy vào phòng thì thấy người kia im lặng đứng dậy, bỏ ra đi. Mọi người trong chùa đều sửng sốt, ngạc nhiên vì không hiểu tại sao ngài lại quát mắng như thế. Hôm sau, đại chúng nghe tin kẻ kia phạm tội giết người và đã bị bắt.
Một hôm khác, ngài vừa thăng tòa giảng kinh thì có hai vị tăng đưa một vị tăng khác đến thềm chánh điện, cầu thỉnh ngài cứu giúp:
- Bạch Hòa thượng, vị tăng này rất chăm chỉ tu hành, đã tụng kinh Hoa Nghiêm trong năm năm liền và chưa phạm giới trọng gì. Song, không hiểu vì sao mấy tuần nay ông ta như bị ma quỷ hành hạ, nổi cơn điên khùng, ăn nói bậy bạ...
Nghe thế, ngài ngắm nhìn ông tăng kia một lúc rồi bảo:
- Bệnh này có thể chữa trị được.
Ngài bảo thị giả cho mời các vị tăng ra tụng thần chú Kim Cang Trừ Cấu Uế56. Trên tòa giảng kinh, ngài cũng tự tụng thần chú này và bảo ông tăng bị điên kia hãy tụng theo. Mới đầu, ông tăng kia vẫn còn nói năng ú ớ chưa tỉnh cơn điên. Ngài liền dùng cây quạt vỗ lên bàn, khiến âm thanh vang rất lớn. Ông tăng bị điên giật mình ngồi im, không dám nói năng gì nữa. Ngài bèn thong thả tụng từng câu từng chữ. Ông tăng điên liền đọc theo và dần dần đọc được thần chú Kim Cang Trừ Cấu Uế từ đầu đến cuối. Bất chợt, ông tăng điên bừng tỉnh, vội quỳ xuống đảnh lễ ngài. Ngài lại bảo ông tăng này hãy nên đến trú tại am tranh cạnh nhà trù57 và hằng ngày phải chăm chỉ niệm Phật. An dưỡng ở nơi đó một thời gian, ông tăng kia hồi phục sức khỏe lại như thường.
56 Là thần chú để hộ trì trong Mật tông.
57 Nhà trù: nhà bếp.
Sau đó, ngài đi thăm viếng các danh lam thắng cảnh như Linh Ân, Tam Trúc, Tây Sơn, v.v... Tại những nơi đó, ngài thấy dân tình đều chán nản vì quan lại tham nhũng, nên ai nấy đều sống bê tha ích kỷ. Ngài bèn cho mở những buổi thuyết giảng kinh và khuyến khích dân chúng thực hành hạnh phóng sanh. Số người đến nghe lên đến hàng ngàn, nhiều người nghe xong ăn năn, xin sám hối tu tỉnh. Các quan lại nghe giảng cũng tỉnh ngộ, quyết xin quy y và hứa sẽ làm lành, lánh dữ. Trước khi ngài ra đi, các quan và dân chèo thuyền ra giữa hồ để phóng sanh chim cá cùng làm tiệc tiễn biệt trên hồ. Nơi ấy, họ đồng dâng thơ, cầu thỉnh ngài ở lại Vân Thê chỉ dạy thêm cho họ.
Do nhân duyên này, ngài đồng ý ở lại đó ba năm để giảng kinh, thuyết pháp. Số người đến xin quy y Tam Bảo lên đến hàng vạn. Từ đó Phật pháp miền này phát triển mạnh, dân tình trở nên hiền hòa hơn xưa.
Trong thời gian ở tại núi Kính Sơn, chùa Vân Thê và Tịnh Từ, ngài Hám Sơn có dịp đến đảnh lễ tháp của Thiền sư Vân Cốc, vị thầy dẫn dắt ngài vào Thiền tông. Ngôi chùa rất tịch tĩnh và tao nhã, nhưng ngôi tháp lại bị hư hoại và chìm trong quên lãng. Ngài rất đau xót nên nhờ một cư sĩ trong vùng lo sửa sang, trùng tu ngôi tháp đó và mua lại mảnh ruộng hương hỏa để trồng trọt, thu hoạch lợi tức, ngõ hầu mua hương hoa đèn nến cúng dường chùa tháp. Ngài ủy thác cho thầy Huyền Tân và cư sĩ Đàm Trinh Mặc, tức thị giả Phước Chân sau này, duyệt lại bốn quyển ký sự Đông Du Tập của ngài.
Lúc trở về Ngô Môn, hai thầy Triều Tùng và Nhất Vũ mời ngài vào núi Hoa Sơn. Ngài đi du ngoạn đến những danh lam thắng cảnh như Thiên Trì, Huyền Mộ, Thiếc Sơn. Các cư sĩ như Triệu Phàm Phu, Nghiêm Thiên Trì, Từ Trung Dung, Diêu Mạnh Tường tại núi Hoa Sơn đã thiết lập trai tăng trong núi và cầu thỉnh ngài giảng giải Phật pháp. Ngài bèn giảng kinh Pháp Hoa tại đây trong mấy tháng liền, số người đến nghe rất đông và một số lớn đã xin quy y Tam Bảo. Lúc rời Ngô Môn, đệ tử của ngài là Động Văn, Hán Nguyệt cùng quan Thái sử họ Tiền đón ngài đến núi Ngu Sơn. Ngài ở lại đó hai đêm, giảng dạy cho dân chúng trong vùng. Ít hôm sau, quan Thái sử tiễn đưa ngài đến Khúc Hà.
Cư sĩ Hạ Tri Nhẫn cùng con trai và đứa cháu đợi ngài tại am Tam Lý, và tặng ngài ảnh vẽ của tám mươi tám vị tổ58.
58 Ghi chú của thị giả Phước Chân: Bốn quyển Phật Tổ Đạo Ảnh do hai thầy Chân Tịch và Vân Phúc phát tâm sưu tập tất cả hình ảnh, pháp tướng, kệ cú của chư thánh tăng Ấn Độ và Trung Quốc, gồm có hai trăm bốn mươi tôn tượng, được lưu trữ tại tự viện núi Ngưu Thủ. Sau này, Đại sư Hám Sơn tuyển chọn truyện tán, ngài Tử Bá (Đạt Quán) khắc bản lưu truyền. Đời Minh, niên hiệu Sùng Trinh, Hòa thượng Vĩnh Giác tại chùa Dõng Tuyền, núi Cổ Sơn lại sưu tập thêm hơn một trăm ba mươi pháp tướng và kệ cú của chư Tổ sư, rồi khắc bản lưu truyền, nhưng lâu ngày lại bị thất lạc hết. Triều Thanh, niên hiệu Khang Hy năm thứ tư, thầy Vi Lâm gom nhóm và bổ khuyết lại. Tất cả được một trăm hai mươi hai tôn tượng và kệ cú, sau này được khắc in, gọi là bản Phật Tổ Đạo Ảnh. Thời cận đại, khi trụ trì chùa Dõng Tuyền, ngài Hư Vân phát hiện ra bản trân bảo này. Nhận thấy bản Phật Tổ Đạo Ảnh rất có giá trị về lịch sử Thiền tông nên ngài Hư Vân trùng tân chỉnh lý. Ngài Hư Vân lại đi khắp nơi sưu tập các tư liệu về tông phái của chư Tổ sư, thánh tăng Ấn Độ và Trung Quốc. Cộng chung với bản cũ và tư liệu sưu tập, tất cả hơn ba trăm ba mươi vị Tổ sư. Do đó, ngài Hư Vân thêm truyện kệ cú tán, rồi xuất bản thành bốn quyển, được gọi là Tăng Đính Phật Tổ Đạo Ảnh Truyện Tán.
Sau đó, ông ta cùng ngài Hám Sơn đi Kinh Khẩu. Ở đó, ngài được thỉnh mời dùng cơm chay do chư tăng và cư sĩ núi Tam Sơn khoản đãi. Tại giới đường Đại Giới, ngài giảng thuyết về lễ nghi và giới luật. Sau đó, một mình ngài tự chèo thuyền qua Nam Kinh đến An Huy, dọc theo sông Dương Tử, rồi về núi Lô Sơn. Mồng một tháng Năm, ngài đi qua Bạch Hạ, rồi ở qua đêm trên sông. Nơi đó, ngài gặp lại các bạn tri kỷ thuở thiếu thời như Tức Dương, Phàm Nhi Tây. Mồng năm tháng Năm, ngài đến Vu Hồ. Quan trấn ải Lưu Ngọc Thọ thỉnh ngài lưu lại vài ngày và đàm luận về Phật pháp.
Ngày mười sáu tháng Năm, ngài đi thuyền đến Tinh Chử, qua Quy Tông, rồi ở lại nơi đó. Bấy giờ, quan Uông Tư Mã đã cúng dường đủ số tiền để xây tịnh thất cho ngài. Rằm tháng Sáu, ngài bảo đệ tử Phước Thiện trông coi công trình xây cất tại đỉnh Ngũ Nhũ. Tháng Mười, công trình xây cất tịnh xá hoàn thành. Tên của tịnh xá mới là chùa Pháp Vân. Như thế, ngài có một nơi thích hợp để an cư. Lúc ấy, ngài bắt đầu giảng kinh Lăng Nghiêm cho các đệ tử. Cuối năm đó, đệ tử lớn của ngài là Siêu Dật bế quan viên tịch tại đỉnh núi Kim Luân.
Năm 1618, ngài Hám Sơn được bảy mươi ba tuổi. Ngài tu sửa Phật điện cùng thiền đường của chùa Pháp Vân ở Lô Sơn. Tháng Ba, quan triều tại Phù Lương là Trần Đại Thạch vào núi thăm ngài. Ông ta cùng với quan lễ Bảo Trung Tố và quan Hạ Ngã Tế, nhóm họp cả mười người để hỗ trợ tiền tài trùng tu chùa viện. Tháng Chạp, điện đường được sửa sang hoàn tất.
Năm 1619, đệ tử của ngài là Thông Quýnh đến thăm và cầu xin ngài mở pháp hội thuyết pháp cho đại chúng. Tháng Giêng năm đó, ngài cho chư tăng khởi sự tụng kinh Hoa Nghiêm, rồi bắt đầu giảng liên tục các kinh như Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Kim Cang, Viên Giác, Duy Ma Cật, Luận Đại Thừa Khởi Tín, v.v... Ngài bảo Thông Quýnh làm vị thủ chúng. Số người đến tham dự đông đến hàng ngàn. Tháng Bảy, ngài gởi thư yêu cầu quan huyện Nam Khang nên để vùng núi Ngũ Nhũ cho tăng chúng niên trưởng ở mười phương đến dưỡng già.
Rằm tháng Tám, ngài bế quan nhập thất, không tiếp xúc khách khứa, mà cứ y theo cách thức tu hành tông Tịnh Độ của Tổ Huệ Viễn – sáu thời dâng hương niệm Phật, chuyên tâm tu tịnh nghiệp.
Lúc đó, tông Hoa Nghiêm gần như bị thất truyền. Lời sớ sao về kinh Hoa Nghiêm của Quốc sư Thanh Lương thì quá thâm sâu khó hiểu. Vì Quốc sư Thanh Lương là người chú giải kinh Hoa Nghiêm đầu tiên, nên nếu bỏ lời chú giải của Quốc sư thì tông này sẽ dứt đoạn. Những bài dịch thuật và chú giải kinh Hoa Nghiêm của các vị Tổ khác cũng phải bị phế bỏ hết. Vì thế, ngài muốn diễn giảng rõ và rút gọn ý nghĩa lời chú giải của Quốc sư Thanh Lương để người sau có thể dễ dàng hiểu rõ, nên khởi sự viết quyển Hoa Nghiêm Cương Yếu. Ngài viết quyển này sau thời gian bế quan nhập thất.
Mùa đông năm đó, ngài giảng kinh Lăng Già và Luận Khởi Tín cho các đệ tử. Do lời thỉnh cầu của thị giả Quảng Ích, ngài viết bài chú giải Luận Đại Thừa Khởi Tín, Viên Giác kinh Trực Giải, và Trang Tử Nội Thất Biên Chú.
Năm 1620, Hoàng đế Vạn Lịch qua đời. Thái Tử Chu Thường Lạc lên ngôi, lấy hiệu là Thái Xương, tức vua Quang Tông. Tuy nhiên, vừa lên ngôi trong vòng một tháng, vua Quang Tông đã chết bất đắc kỳ tử (vụ án Hồng Hoàn) như sau: Một buổi tối, vua mỏi mệt nên sai quan đi lấy thuốc uống. Một vị quan trong bộ Lễ dâng lên một viên thuốc màu hồng để vua dùng, vua vừa uống xong liền hộc máu lăn ra chết. Cuộc điều tra cho biết vị quan này là người của Trịnh Quý phi tiến cử vào cung, nên triều đình liền bắt bà này đem ra xét xử. Đây là vụ án Hồng Hoàn được ghi rõ trong lịch sử Trung Hoa.
Vụ án này nêu lên việc nghi ngờ âm mưu đầu độc nhà vua của phe nhóm Trịnh Quý phi, nhưng lúc đó triều đình không dám làm mạnh vì Phúc Vương Chu Thường Tuân, sẵn quân sĩ đóng ở Lạc Dương, có thể kéo binh về làm phản. Do đó, các quan triều bèn cấp tốc đưa con trai của Chu Thường Lạc lên làm vua. Nhà vua còn nhỏ tuổi nên việc nước đều do các quan triều trông nom, mà các quan lại chia rẽ phe nhóm, vì thế quyền hành trong nước không còn tập trung được nữa.
Đa số quyền hành được phân chia cho các phe nhóm, mỗi phe nắm giữ quyền hành một vùng hay chiếm một quyền lợi nào đó. Họ thi nhau khai thác tài nguyên quốc gia, phá rừng lấy gỗ, đào mỏ lấy quặng, chiếm đất đai, ruộng nương, nhà cửa của dân chúng. Dân tình bất mãn vì sưu cao thuế nặng, lại thêm tình trạng tham nhũng bất công, nên số người tham gia các nhóm quân khởi nghĩa mỗi ngày một nhiều59.
59 Người em cùng cha khác mẹ của Chu Thường Lạc, tức Phúc Vương Chu Thường Tuân, ít lâu sau cũng bị chết thê thảm. Ông ta bị Lý Tự Thành, một thủ lĩnh nông dân khởi nghĩa, chém chết vào năm 1641. Khi nhóm này chiếm thành Lạc Dương, quân lính của Lý Tự Thành đã lấy máu của Chu Thường Tuân hòa với rượu mà uống. Họ gọi rượu này là rượu Phúc Lộc, vì lấy tên hiệu của Chu Thường Tuân là Phúc Vương.
Tuy ngài Hám Sơn đã rời khỏi Tào Khê đến Lô Sơn, nhưng các đệ tử miền này vẫn có ý cung thỉnh ngài trở vào Nam. Quan triều Ngô Trung Vi khi trước đã từng gặp ngài tại Hồ Đông, nay được chuyển nhiệm sở về Quảng Đông. Khi đến lễ Tổ ở Tào Khê, Ngô Trung Vi được các đệ tử tại đây yêu cầu ông ta nên cố gắng thuyết phục ngài trở lại Tào Khê, nhưng ngài lại từ chối, lấy cớ là già yếu bệnh hoạn.
Năm 1622, vào tháng Giêng, đệ tử Khiêm Lưu, Trần Địch Tường, Trần Địch Thống, Lương Tứ Tương vào núi vấn đạo. Ngài vì họ mà giảng thêm về kinh Lăng Nghiêm và Luận Đại Thừa Khởi Tín. Khi ấy, chư đệ tử thỉnh ngài viết sơ lược về cuộc đời tu hành của ngài, nên ngài cho khởi công viết quyển tiểu sử tự thuật Hám Sơn Lão nhân Tự sự Niên phổ. Chính đệ tử thị giả hầu cận ngài hơn ba mươi năm là thầy Phước Thiện đã ghi chép lại theo lời tường thuật của ngài.
Tháng Bảy năm đó, Vương Thị Ngự lại vào núi, thỉnh ngài trở về Tào Khê. Lúc bấy giờ ngài đã hoàn tất quyển Hoa Nghiêm Cương Yếu. Quan triều Ngô Trung Vi lại gởi thư đến, ý rất chân thành cầu mong ngài vào Nam. Quan Thái thú Thiều Châu là Trương Dục Chẩn cũng gởi một lá thư đặc biệt đến ngài và yêu cầu thầy Bổn Ngang, trụ trì chùa Bảo Lâm ở Tào Khê, đích thân đến Lô Sơn, thỉnh ngài vào Nam.
Vì thấy họ quá thiết tha, ngài đành phải rời Lô Sơn để vào Nam và giao chùa Pháp Vân lại cho thầy Phước Thiện trụ trì. Mồng mười tháng Mười Một, ngài rời Lô Sơn, qua Loa Giang, gặp các quan Thái sử Tiêu Chuyết Tu, Lưu Thiều Dã, Lưu Chuyển Hoa, Mã Lý Phòng, v.v... Trên sông Kiền Thành, ngài viết những bài thi kệ tặng họ.
Tháng Chạp năm đó, ngài trở về Tào Khê. Tăng chúng hội họp đông đủ trên núi, bày hương hoa la liệt khắp nơi. Người người kéo đến lễ bái và thỉnh vấn ngài rất đông. Ngài bắt đầu giảng kinh thuyết pháp.
Năm bảy mươi tám tuổi, ngài Hám Sơn trú tại thiền đường ở Tào Khê. Tháng Giêng, Thái thú Trương Dực Chẩn vào núi vấn đạo. Tháng Ba, các đệ tử ở chùa Pháp Tánh tại Ngũ Dương đến. Ngài truyền tâm pháp cho họ. Tháng Tư, ngài thuyết giới luật, giảng kinh Lăng Nghiêm, Luận Đại Thừa Khởi Tín, v.v... Tháng Bảy, ngài cũng thuyết giới luật cho đại chúng. Tháng Tám, sau khi tiếp đón khách, ngài bảo thị giả đến cảm tạ ơn của quan triều họ Ngô. Khi thị giả sắp đi, ngài tự nhiên bảo:
- Giáo hóa chúng sanh bằng những lời chân thật vi diệu, chư Phật Tổ cũng phải tùy theo nhân duyên. Nếu không hợp với nhân duyên thì không đạt được kết quả tốt. Một đời hành Phật sự đã xong, nay đến lúc thầy phải trở về.
Những người có mặt lúc đó không hiểu lời trên, chỉ nghĩ rằng ngài muốn trở về Lô Sơn mà thôi. Thấy vậy, ngài bèn viết một bài kệ, trong đó có câu “Trung Thu không trăng rằm”, nhưng các đệ tử tại đây vẫn không hiểu ý nghĩa. Biết ngày cuối sắp đến, ngài gởi thư đến Lô Sơn, bảo hai thị giả đã theo hầu ngài trong suốt mấy chục năm là Thông Quýnh và Phước Thiện vào gặp ngài gấp.
Ngày chín tháng Chín, ngài viết bài kệ Trụ tại núi cao, trong đó có câu “Dầu lão tăng này biếng nhác dùng bút mực, nhưng một khi hơi thở không trở lại thì sẽ bước qua đời khác. Nếu chỉ xem như câu kệ tầm thường thì thật không công bằng cho lão tăng vậy”. Viết như thế, nhưng các đệ tử hầu cận vẫn không hiểu là ngài sắp ra đi.
Mồng một tháng Mười, đệ tử Thông Quýnh từ Khuông Sơn về đến Tào Khê. Ngài vui vẻ hỏi thăm Thông Quýnh cặn kẽ về những đệ tử và pháp hữu đang tu tập rải rác khắp nơi. Mồng ba tháng Mười, quan triều Tiêu Huyền Phố vào núi thăm ngài. Ngài cùng ông ta đàm luận cả ba ngày ba đêm. Khi ông ta thỉnh vấn Phật pháp, ngài viết hai bài pháp ngữ và ba bài kệ để tặng ông ta. Mồng sáu tháng Mười, khi Tiêu Huyền Phố sắp rời khỏi núi thì ngài tự nhiên bảo:
- Dân chúng trong vùng này đặt hết niềm tin vào ông. Hãy bảo trọng.
Tiêu Huyền Phố định hỏi ngày tháng để trở lại bái kiến, ngài bảo:
- Sơn tăng này đã quá già. Bốn đại chẳng bao lâu sẽ rã rời. Hẹn gặp lại ông sau này nơi hội Long Hoa.
Nghe như thế, ông này cùng đại chúng rất sửng sốt và sợ hãi. Lúc đó, thị giả Quảng Ích và Tỉnh Thành vừa trở về Tào Khê. Thái thú Thiều Dương là Trương Dực Chẩn mời y sĩ vào núi điều trị bệnh cho ngài. Mồng tám tháng Mười, khi chư đệ tử hỏi thăm sức khỏe ngài, ngài cười bảo:
- Lão tăng tuy mệt nhưng không bệnh.
Mồng chín tháng Mười, khi đệ tử đem thuốc vào, ngài không chịu uống và nói:
- Ta sắp đi đây. Uống thuốc có lợi ích gì. Đệ tử Quảng Ích nghe thế giật mình thưa:
- Bạch thầy! Nếu thầy thật sự sắp đi thì xin thầy để lại di chúc, dạy bảo lời cuối cho chúng con.
Ngài bèn mắng:
- Con theo hầu thầy bao nhiêu năm, sao còn u mê kiến chấp như thế? Con phải nhớ sanh tử là việc lớn, vô thường luôn tấn tốc. Các con phải cố gắng tu hành và luôn luôn chánh tâm niệm Phật.
Quảng Ích bèn thưa:
- Bạch thầy! Nếu thầy chẳng có một lời dạy bảo, vậy thì chúng con phải nương vào ai đây?
Ngài thở dài bảo:
- Ngay cả ngôn từ xuất phát từ kim khẩu của Đức Như Lai cũng đã trở thành những tờ giấy cũ. Lời của thầy lúc này thật chẳng có ích gì nữa.
Sau đó, ngài im lặng, chẳng dạy thêm lời nào nữa.
Ngày mười hai tháng Mười, tức là ngày sinh nhật của ngài, các đệ tử xuất gia và tại gia đồng tụ hội tại chùa. Thái thú Thiều Dương là Trương Dực Chẩn cũng đến cúng dường một y cà sa màu tím làm quà tặng sinh nhật. Ngài và ông ta đàm luận vui vẻ cả ngày cho đến chiều. Tối hôm đó, ngài tự đi tắm rửa sạch sẽ. Hôm sau, ngài mặc y cà sa màu tím vừa được quan Thái thú cúng dường. Khi quan Thái thú đến bên giường bệnh, ngài bảo:
- Sơn tăng sắp đi đây... Chân thành cảm tạ sự hộ pháp nhiệt tình của ông.
Quan Thái thú bèn an ủi:
- Đại sư! Ngài không có bệnh. Xin ngài chớ lo âu. Tiểu tử
là hộ pháp vùng này và sẽ hoàn thành trách nhiệm của mình.
Ngài chắp tay cảm tạ ông ta. Sau khi quan Thái thú rời núi, ngài bảo thị giả mang nước đến súc miệng và nói:
- Hôm nay, dây leo sẽ bị cắt đứt đây.
Sau đó, ngài tắm rửa và thay đổi y phục. Những đệ tử đứng xung quanh hầu và cùng nhau nhất tâm niệm Phật. Ngài lại khuyên:
- Các con chớ nên đau buồn sợ hãi. Có sanh ắt có tử, việc gì phải lo. Sau khi ta ra đi, các con hãy làm đúng theo truyền thống Phật giáo: không để tang, không khóc lóc, chỉ luôn nhất tâm niệm Phật.
Mồng năm tháng Mười Một, lúc khoảng ba giờ khuya, ngài ngồi xếp bằng mà thị tịch. Đêm hôm đó, bầu trời chớp lòe đầy những tia sáng, cầm thú trên núi đều đồng loạt kêu rống lên những tiếng bi ai. Bốn chúng đệ tử đều rơi lệ đau buồn, rung động cả vùng núi non. Ba ngày sau, sắc mặt của ngài vẫn hồng hào như lúc sống và tay chân vẫn còn mềm như lúc nhập định. Suốt cuộc đời, ngài đã gặp bao thăng trầm hoạn nạn, nhưng lúc cuối viên tịch an lành tại chùa Nam Hoa.
Nhận được tin buồn, quan Thái thú Trương Dực Chẩn gởi quan quân đến phúng điếu. Lúc đó, quan triều Tiêu Huyền Phố vẫn còn ở tại Thiều Châu. Khi nhận được tin rằng ngài đã viên tịch và nghe kể chi tiết về những giây phút cuối của ngài, ông liền bảo: “Đại sư Hám Sơn đã nhập vào dòng thánh. Nếu ngài không thấu triệt cái khổ của sanh tử trong lúc còn sống, thì lúc lâm chung làm thế nào mà ung dung tự tại được như thế!”. Ông ta viết hai câu liễn để truy điệu ngài và cúng dường một trăm lạng vàng. Ông ta cũng viết thư cho quan huyện ở Nam Thiều, ra lệnh kiến lập tháp cùng xây điện thờ tượng ngài. Nhục thân ngài được chư đệ tử giữ lại ở Tào Khê. Vì lúc viên tịch, nhục thân ngài vẫn còn ở nguyên trong tư thế ngồi kiết già, nên thay vì nhập quan, chư tăng bèn đặt nhục thân ngài vào một cái khám bằng gỗ.
Nghe tin ngài viên tịch, thầy Phước Thiện, trụ trì chùa Pháp Vân ở đỉnh Ngũ Nhũ, cũng cho xây tháp để thờ ngài tại Lô Sơn. Do đó, trong chúng đệ tử có sự tranh luận về việc nên giữ nhục thân ngài lại Tào Khê hay Khuông Sơn.
Năm 1625, thầy Phước Thiện được sự ủng hộ của các quan triều cùng vị Tổng đốc Quảng Đông nên được phép mang nhục thân ngài trở về Lô Sơn. Ngày hai mươi mốt tháng Giêng, nhục thân của ngài được đưa về núi. Vì khí hậu vùng Lô Sơn ẩm ướt nên nhục thân ngài được đặt trong một cái khám thờ bằng gỗ quý. Đích thân quan Thái thú Nam Khương đi lựa nơi chôn cất khám thờ nhục thân ngài.
Mười một năm sau, vì núi Lô Sơn vẫn thường có nhiều hổ sói lai vãng, nên chư tăng trên núi cùng thầy Phước Thiện thấy vùng đất đó quá xa xôi, không thích hợp cho việc nhang khói, nên quyết định đào lên, mang khám thờ nhục thân ngài vào thờ trong chùa. Khi đào lên, họ thấy phân nửa cái khám thờ bằng gỗ quý đã bị mối nhặm hư hoại, nên chư đệ tử không dám chôn cất nữa mà để trong một bảo tháp sau chùa.
Năm 1643, quan bộ Lễ của Lĩnh Nam, vốn là đệ tử của ngài, gởi thư cho chư tăng tại Lô Sơn, cầu thỉnh cho mang nhục thân ngài trở về Tào Khê. Lúc đó có phán quan Thụy Châu là Lưu Khởi Tương, cũng là đệ tử của ngài, đang đi kinh lý tại Nam Khương bèn thân hành đứng ra chịu trách nhiệm về việc chuyển vận nhục thân ngài về lại Tào Khê. Chính ông ta đứng ra vận động triều đình ban sắc lệnh cho quan quân hộ tống vận chuyển nhục thân ngài suốt hành trình từ Lô Sơn về lại Tào Khê. Khi ấy, loạn binh Lý Tự Thành đã nổi dậy khắp nơi, nên nhiều vùng không có an ninh. May thay, tướng trấn thành Quảng Đông tình cờ đi qua núi Đại Vũ gặp đoàn hộ tống, nên ông cùng quân lính tham gia vào đoàn hộ tống nhục thân ngài trở về Tào Khê được yên ổn.
Khi về Tào Khê, chư đệ tử nhìn thấy khám thờ có nhiều đường vết nứt nẻ. Nhìn qua vết nứt đó, họ thấy nhục thân ngài vẫn còn ngồi yên trong tư thế xếp bằng như lúc còn sống. Họ bàn nhau về việc mở cái khám thờ ra, nhưng không ai dám làm. Viên tướng trấn thành Quảng Đông nghe thế, liền dùng gươm rạch theo đường nứt. Vừa mở ra, họ thấy nhục thân ngài vẫn ngồi y nguyên trong tư thế kiết già như lúc sống. Tóc và móng tay mọc dài ra, mặt mũi vẫn hồng hào như lúc còn sống mặc dầu y cà sa đã bị rã rụng từng miếng, thấy rõ da thịt. Lúc đó có một vị tăng ở xa đến, xin thỉnh cầu chư tăng cho phép ông tẩm liệm nhục thân ngài theo truyền thống Ấn Độ, tức trét sơn mài trộn với hương trầm lên khắp nhục thân ngài. Công việc hoàn tất xong, vị khách tăng liền bỏ đi đâu mất.
Khi xưa, lúc ngài trú tại Tào Khê, có một đồng nữ nọ đã phát nguyện cúng dường cho ngài một bộ y cà sa bằng lụa có thêu hình tượng ngàn vị Phật. Vì sợ hơi thở của mình phát ra mùi bất tịnh khi thêu y cà sa ngàn vị Phật, cô ta đã bịt miệng bằng miếng vải lụa màu vàng. Khi cô ta thêu dệt xong y cà sa này thì ngài đã nhập tịch, nhục thân được để trong khám thờ mang đi Lô Sơn. Vì thế, áo cà sa ngàn vị Phật được để lại Tào Khê. Khi nhục thân ngài được mang về Tào Khê và thấy những miếng vải y áo đắp trên nhục thân của ngài đã rã rụng nên chư đệ tử đem y cà sa ngàn Phật ra và đắp lên nhục thân của ngài. Sau đó, nhục thân của ngài được đặt vào trong tháp để phụng thờ. Ngôi tháp thờ ngài cách tháp thờ của Lục Tổ Huệ Năng khoảng một dặm. Dân chúng và tăng sĩ đến lễ bái cúng dường nhục thân của ngài như Lục Tổ Huệ Năng.
Hằng năm cứ vào rằm tháng Hai và tháng Tám, tín chúng Phật tử đến Tào Khê lễ bái Lục Tổ Huệ Năng và ngài Hám Sơn. Đối với Phật tử Trung Hoa, Đại sư Hám Sơn được sùng bái như vị Tổ thứ bảy trong Thiền tông, mặc dầu ngài không được chính thức truyền thừa tâm ấn từ những vị Tổ Thiền tông. Tuy nhiên, dưới mắt của các đệ tử thì Đại sư Hám Sơn được truyền thừa tâm ấn thực thể tại Tào Khê, vì ngài tiếp nối chư Tổ sư, truyền bá giáo lý trực chỉ chân tâm của Lục Tổ. Thêm nữa, chính nhờ công lao của ngài mà mạch thiền tại Tào Khê được xiển hưng cho đến ngày nay. Do đó, nhục thân của ngài vẫn được phụng thờ tại chùa Nam Hoa cùng với nhục thân của Lục Tổ Huệ Năng. Dưới mắt tín chúng Phật tử, ngài chính là hiện thân của một vị Tổ sư. Trong suốt cuộc đời hành đạo, ngài đã trước tác rất nhiều. Những tác phẩm này ghi rõ về cuộc sống hằng ngày của ngài, từ lúc thành nhân, học Phật pháp, liễu đạo, cùng tư tưởng của ngài. Bên cạnh thơ văn, ký thuật, truyện, pháp ngữ, bia khắc của ngài do đệ tử Phước Thiện, Thông Quýnh tuyển chọn ghi vào quyển Hám Sơn Đại sư Mộng du tập, ngài còn trước tác một quyển Hoa Nghiêm Pháp Giới Cảnh, mười quyển Lăng Nghiêm Thông nghĩa, bảy quyển Pháp Hoa Thông nghĩa, bốn quyển Quán Lăng Già ký, ba quyển Triệu Luận Lược chú, một quyển Hám Sơn Tự ngôn và vô số tiểu luận khác. Không những thế, ngài còn chú giải Đạo Đức Kinh, Đại Học, Trung Dung, và bình luận về Lão Tử, Trang Tử rất xuất sắc. Chính nhờ ngài có công dung hòa và thống nhất tư tưởng của cả ba giáo, mà từ đó về sau không có những tranh chấp giữa Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo như đời Tống, Nguyên nữa.
Bàn về sự hình thành của quyển Hám Sơn Đại sư Mộng du tập, ban đầu chính vị thị giả đã theo hầu ngài trong suốt ba mươi năm là thầy Phước Thiện đã có công ghi chép lại những điều mắt thấy tai nghe vào quyển tiểu sử tự thuật Hám Sơn Lão nhân Tự sự Niên phổ vào năm 1622, một năm trước khi ngài nhập tịch. Vì quyển này được ghi lại rất vắn tắt nên ít lâu sau, thầy Phước Chân và Thông Quýnh đã phải viết thêm và chú thích nhiều chỗ cho rõ ràng.
Thầy Phước Chân, khi xưa là một cư sĩ tên là Đàm Trinh Mặc, gặp ngài vào năm 1616 lúc ông mới được hai mươi bảy tuổi. Trong ba mươi năm kế tiếp, ông thi đậu Tiến sĩ, làm quan triều với nhiều chức vị lớn nhỏ. Sau khi triều Minh thoái trào, việc ghi lại những biến cố trong cuộc đời hành đạo của ngài Hám Sơn cùng những sự kiện có liên quan đến triều đình không còn bị các quan lại kiềm thúc nữa nên ông đích thân đi phỏng vấn tra duyệt lại các chi tiết quyển tiểu sử tự thuật này một cách công khai với những đệ tử thân tín của ngài. Sau đó, thầy Phước Chân và thầy Huyền Tân đã kiểm điểm và bổ túc lại các tài liệu của thị giả Phước Thiện ghi chép và soạn thành quyển Hám Sơn Đại sư Mộng du tập vào năm 1650.
Ngoài hai quyển trên nói về cuộc đời tu tập và hành đạo của ngài, còn có những trước tác khác của ngài được chư đệ tử ghi chép lại rải rác khắp nơi. Vào năm 1656, quan Đại học sĩ Tiễn Khiêm Ích (1582 – 1664) và Cung Đỉnh Từ (1616 – 1673) viết thư yêu cầu các đệ tử của ngài ở trong vùng góp nhặt những bài pháp ngữ, văn thơ của ngài để biên chép lại thành bộ tập. Nhờ lòng nhiệt thành của hai vị quan này mà hầu hết những trước tác của ngài đã được sưu tập lại. Lúc đầu, họ sưu tập các bài giảng của ngài thành năm quyển pháp ngữ, rồi cho in tại Gia Hưng, Chiết Giang và sau này được ghi vào quyển Minh Tục Tạng kinh. Vào lúc đó, trong vùng đang có tổ chức hương thí60, nên nhiều thí sinh sau kỳ thi đã đến phụ giúp công việc sưu tập này. Việc này được hoàn tất vào tháng Ba âm lịch năm 1657, dưới sự giám sát của thị giả Thông Quýnh, quan Lưu Khởi Tướng. Sau này học giả Tiễn Khiêm Ích đã sưu tập thêm được nhiều tài liệu khác của các đệ tử của ngài ở rải rác khắp nơi, và tập hợp lại được bốn mươi quyển và cho ấn hành tại Giang Bắc. Trong quyển Minh Tục Tạng kinh cũng có ghi lại bốn mươi quyển này. Từ đó đến nay, bộ này đã được in ấn lại không biết bao nhiêu lần, nhưng lần cuối là do nhà in Giang Bắc ấn hành vào năm 1879. Phần lớn các bộ này dù được sưu tập và in ấn tại nhiều nơi khác nhau, nhưng nội dung đều ghi lại giống như những trước tác của ngài. Từ năm 1905 đến năm 1912, học giả người Nhật là ông Zokei-Gakuin đã kiểm thảo lại năm mươi lăm quyển Hám Sơn Đại sư Mộng du tập, rồi in vào quyển Minh Tục Tạng kinh. Vào năm 1965, hội Phật Kinh Lưu Thông Xứ tại Hồng Kông nhờ nhà xuất bản Giang Bắc in lại năm mươi lăm quyển đó. Theo thầy Phước Chân, mỗi biến chuyển trong cuộc đời của ngài Hám Sơn là một bài học, một tấm gương sáng để cho quần chúng Phật tử đời sau theo đó mà tu hành.
60 Hương thí: kỳ thi thời xưa, tổ chức để lấy Cử nhân và Tú tài, ba năm mở một lần.