Đầu năm 1606, được tin tướng Trương Hồng Dương đã từ quan về hưu, nhà ở cách Tào Khê không xa mấy, nên ngài Hám Sơn đến thăm ông ta. Năm xưa, lúc ngài bị nạn ở Bắc Kinh, tướng Trương Hồng Dương là một trong số ít các quan lớn trong triều đã nỗ lực vận động để giải cứu cho ngài. Mặc dầu không thành công nhưng ngài vẫn luôn luôn cảm kích ân nghĩa của ông. Gặp lại ngài Hám Sơn, ông rất vui mừng và mời ngài cùng chư đệ tử đến dùng cơm chay tại lữ quán Giang Vân trên sông. Ông cũng mời thêm các thân hào nhân sĩ trong vùng đến dự bữa cơm đó. Trong khi dùng cơm, ông tuyên bố:
- Phần lớn quý vị đều biết Đại sư Hám Sơn là một vị đại thiện tri thức, hết lòng hoằng pháp lợi sanh nhưng đã mấy ai biết ngài có công lao to lớn đối với sơn hà xã tắc như thế nào không?
Nghe thế, mọi người liền hỏi và ông lần lượt kể hết tự sự về việc ngài đã chuyển đổi pháp hội Vô Giá thành pháp hội cầu thái tử cho triều đình, cùng những chuyện tranh chấp trong triều nội giữa các phe nhóm. Lúc đó, việc này vẫn hoàn toàn bị cấm chỉ, nếu ai bàn luận việc này, dù chỉ một câu, thì sẽ bị triều đình kết tội tử hình ngay. Đương thời chỉ có một mình tướng Trương Hồng Dương là dám luận nghị việc này, nên không khí trong buổi cơm hoàn toàn thay đổi. Mọi người đều hết lòng tán thán công đức và lòng can đảm của ngài.
Sau bữa cơm đó, ngài trở về Tào Khê. Trên đường về, ngài có ghé qua Văn Giang thăm đại quan họ Châu, rồi ở lại nơi đó hoằng pháp trong vài ngày. Lúc ghé Văn Giang, bốn chúng đệ tử xa gần đều lần lượt đến tham vấn học hỏi với ngài, chứng minh rằng công trình hoằng dương chánh pháp của ngài tại miền Nam đã có kết quả. Ít lâu sau, ngài đến Chương Cống thăm tướng quân Trần Nhị Sư và được ông ta giữ lại bản doanh ít hôm để giảng kinh cho quân sĩ của ông. Những người lính đóng quân ở đây đều là những người nghèo, không có tiền của đút lót cho quan lại nên bị bổ nhiệm đi xa, trấn giữ những miền hoang vu như Lĩnh Nam. Tuy nhiên, đa số đều có tín tâm nên sau khi nghe ngài giảng kinh, họ đều xin quy y với ngài và nguyện sẽ ủng hộ Phật pháp.
Ngài đã dạy:
“Đức Phật trụ thế, thuyết pháp lợi sanh, khiến bốn chúng đều được đắc độ. Ngài tùy cơ giáo hóa, mỗi mỗi đều có phương tiện quyền xảo1, khiến tất cả mọi loài đều được lợi ích. Thí như trời mưa, cỏ cây đều được thấm nhuần, tùy theo loại lớn nhỏ mà được sung túc, sanh trưởng. Thế nên tuy pháp môn có thiên sai vạn biệt, nhưng quay về nguồn thì không hai. Nếu dùng Phật tánh mà quan sát chúng sanh, thì không có loài nào mà không được độ. Dùng tự tâm2 mà quán xét Phật tánh3, thì ai ai cũng đều tu được cả. Song, chúng sanh tự mê muội mà không biết điều này. Lại nữa, vì không có thiện tri thức chân chánh dẫn dắt chỉ dạy, nên phải cam chịu trầm luân, uổng thọ bao khổ não. Vì vậy, lúc Tổ Huệ Năng vừa đến, Ngũ Tổ Hoàng Mai liền hỏi:
‘Ngươi là người xứ nào?’, Huệ Năng đáp: ‘Con là người xứ Lĩnh Nam’. Ngũ Tổ nói: ‘Người Lĩnh Nam man di mọi rợ lại có Phật tánh ư?’, Huệ Năng đáp: ‘Người có phân Nam Bắc, nhưng Phật tánh chẳng hề có hai’. Lời này lưu bố khắp nhân gian, như tiếng sấm nổ, khiến loài sâu bọ phải khiếp đảm. Vùng Lĩnh Nam này từ đó trở thành cội nguồn của Thiền đạo Phật pháp, xuất sanh bao bậc trí giả và ngộ đạo. Từ khi Lục Tổ hoằng hóa, đạo pháp được lưu truyền khắp Trung Nguyên4. Ngày nay, trước cửa Tổ đình, cảnh tượng tiêu điều, cỏ dại mọc khắp nơi. Nhiều người cho rằng đó chẳng phải là vùng đất của thiện căn, đây thật là chưa đạt được ý chỉ Phật tánh. Tôi được chuyển đến Lôi Dương vào mùa xuân năm Bính Dần. Đến mùa thu năm đó thì chú giải hoàn toàn bộ kinh Lăng Già. Mùa hè năm Mậu Tuất bắt đầu diễn giảng cho chư đệ tử. Trong mỗi lần ngồi thiền, thấy chư thiện nam tử cố gắng đến tu hành, tôi hết mực khen ngợi. Lại có hơn mười vị thiện sĩ đến lễ bái, cầu thọ năm giới của Ưu bà tắc. Tôi vui mừng chấp thuận, nên làm pháp Yết Ma5. Họ tự quy tâm ngày một tín thành, và dốc lòng lắng nghe Phật pháp. Tôi thương cho họ chưa liễu ngộ và chưa biết cách tấn tu công phu tự độ. Vì vậy, tôi dùng niệm Phật Tam Muội6 dạy họ chuyên tâm nơi tịnh nghiệp, tức là chán chường duyên khổ, mà quy hướng Cực Lạc. Trong kỳ hội mỗi tháng, lập ra quy chế; trong ba thời tu hành xưng danh lễ bái tụng đọc sám hối. Vì muốn tín tâm ngày càng khẩn thành, tội chướng ngày càng tiêu bớt, nên phải phát khởi nguyện vãng sanh. Nếu quả tình hành theo pháp môn này, thì tuy thân tại trần lao, mà có thể bảo rằng sống không hư, chết không phóng túng. Chẳng phải là công hạnh chân thật sao! Phật là giác, tức là Phật tánh của chúng sanh. Vì mê mà làm chúng sanh. Nếu ngộ thì gọi là Phật. Ngày nay niệm Phật, tức tự tánh Di Đà7. Cầu vãng sanh cõi Tịnh Độ, tức duy tâm Cực Lạc8. Quý vị nếu thường niệm niệm mà chẳng quên mất, thì tâm tâm Di Đà sẽ xuất hiện, và từng bước lần hồi sẽ về đến quê hương Cực Lạc9. Cần gì vọng mong nơi ngoài mười vạn ức cõi nước, còn có cõi Tịnh Độ để quy hướng! Thế nên, tâm tịnh thì cõi nước thanh tịnh. Tâm cấu uế thì cõi nước uế trược. Do đó, một niệm ác vừa dấy khởi, thì rừng kiếm cây đao liền vung dậy. Một niệm lành sanh, thì đất báu hồ sen liền hiện rõ. Thiên đường địa ngục, sao lại ngoài tâm này ư! Chư thiện nam tử! Xin hãy suy nghĩ chín chắn; phải luôn thống niệm sanh tử10 đại sự, vô thường mau chóng. Một khi mất thân này, thì muôn kiếp khó hoàn phục lại. Mặt trời mặt trăng luôn xoay chuyển, và thời gian chẳng đợi mình. Nếu phụ duyên này, thì lỡ mất cơ hội. Khi đại hạn đến, hối hận chẳng kịp. Quý vị mỗi mỗi hãy nỗ lực. Trân trọng! Trân trọng!”
1 Mỗi mỗi đều có phương tiện quyền xảo: Theo đạo Phật, các pháp hữu vi như tụng kinh, niệm Phật, lễ sám… là những phương tiện quyền xảo. Tùy theo căn cơ mỗi người mà áp dụng phương tiện, pháp môn phù hợp (giống như tùy bệnh mà cho thuốc) để giúp người tu hành từng bước đạt đến giác ngộ và giải thoát, cho đến khi căn cơ của họ đủ điều kiện, họ hội đủ duyên để tiếp nhận giáo pháp thâm sâu nhất.
2 Tự tâm: là tự tánh hay thật tánh của tâm, cũng là tâm thanh tịnh.
3 Phật tánh: là thật tánh, chân tâm hay bản tánh thật của tâm.
4 Trung Nguyên: là một khái niệm địa lý, đề cập đến khu vực trung và hạ lưu Hoàng Hà với trung tâm là tỉnh Hà Nam, là nơi phát nguyên của nền văn minh Trung Hoa, được dân tộc Hoa Hạ xem là trung tâm của thiên hạ.
5 Yết Ma: nghĩa là nghi thức mà giới tử phát nguyện để thụ trì giới.
6 Niệm Phật Tam Muội: là phương pháp tu thông qua niệm Phật để đạt được Định. Đây là phương pháp thiền quán của Phật giáo Đại thừa.
7 Tự tánh Di Đà: là tự tánh giác ngộ, cũng chính là tự tánh hay bản tánh thật của tâm.
8 Duy tâm Cực Lạc: là trạng thái tịnh độ của bản tâm, tức là hoàn toàn giải thoát, luôn luôn tự tại thong dong trong mọi hoàn cảnh, đâu cũng là cõi Cực Lạc, dù là đang ở cõi Ta Bà.
9 Quê hương Cực Lạc: ý nói cõi Cực Lạc không ở đâu xa mà chính là bản tâm ta.
10 Thống niệm sanh tử: quán thấy các pháp đều sanh diệt do duyên khởi, không thường hằng.
Trong mấy tháng đó, ngài Hám Sơn bị cảm bệnh mấy lần nhưng vẫn cố gắng đi hoằng pháp quanh vùng Lĩnh Nam. Số người đến học đạo và quy y với ngài lên đến cả ngàn người.
Vào tháng Tám năm đó, Thái tử Chu Thường Lạc sinh hạ được một hoàng tôn. Triều đình mở hội ăn mừng và ban lệnh đại xá phạm nhân. Các phạm nhân già yếu bệnh hoạn đều được ân xá trước. Các phạm nhân bị hàm oan, vu khống có thể cầu biện minh để được phóng thích. Vì thuộc vào hạng thứ hai nên ngài đến trình diện quan chức địa phương để xin biện minh. Sau khi chấp nhận cho ngài biện minh, các quan chức địa phương chuyển hồ sơ của ngài đến chính quyền ở Lôi Châu để xét xử. Nơi đó, một vị phán quan công minh đã ra lệnh phóng thích ngài. Từ đó, ngài không còn bị giám sát bởi quan quân, không cần phải ra trình diện hằng tháng tại Pháp viện và được công khai đăng đàn giảng kinh thuyết pháp. Tuy nhiên, ngài vẫn chưa mặc y cà sa hay cạo tóc trở lại vì ngài biết, dù được tha trên nguyên tắc nhưng triều đình vẫn còn để tâm theo dõi hành vi của ngài.
Tại Tào Khê, ngài khởi sự viết rất nhiều thơ, văn, ký thuật. Trong đó có bài Văn viết về thị giả Linh Thông và giới uống rượu để răn nhắc các tăng sĩ phải giữ giới luật không được uống rượu. Theo truyền thuyết, thị giả Linh Thông vốn là một hoàng tử của nước Ba Tư. Vì nghe oai danh đức độ của Lục Tổ, vua Ba Tư sai ông cùng với năm vị đại thần qua Trung Hoa cung thỉnh Lục Tổ đến quốc gia họ truyền pháp. Vì đường sá xa xôi, Lục Tổ không thể đáp lời thỉnh nguyện nên hoàng tử, do ý muốn tu học chánh pháp, không trở về nước nhà mà trú tại đó để học hỏi với Lục Tổ. Sau này, hoàng tử phát nguyện quy y và trở thành thị giả cho Lục Tổ. Đối với Phật pháp, thị giả Linh Thông rất chân thành khẩn thiết tu học, nhưng ngặt một việc vẫn không bỏ được là tật thích uống rượu. Lục Tổ biết thế nên không trách cứ ông ta. Sau khi chết, ông được mai táng ở phía sau chùa. Biết vị hoàng tử này thành tâm hầu hạ Lục Tổ chu đáo nên tăng chúng trong chùa đã đúc tượng ông ta, đặt kế bên nhục thân Lục Tổ. Tượng đồng đó giống hệt như ông lúc còn sống, bên trên cũng có cái mũ mà ông thường đội, bên dưới có cái bát mà ông thường dùng để uống rượu. Lạ thay, sau khi tạo tượng, qua ngày thứ hai, rượu ở trong bát của ông ta chợt biến thành nước, và cái mũ lại lệch qua một bên. Dân chúng trong vùng thấy thế cho là hoàng tử đã hiển linh biến dị để uống rượu. Một số tăng sĩ bại hoại đã vịn vào đó như là cái cớ để bào chữa cho việc uống rượu say sưa của mình. Hễ ai hỏi tại sao tăng sĩ lại dùng rượu thì họ nói là noi gương thị giả Linh Thông. Khi đến Tào Khê, thấy truyền thuyết thị giả Linh Thông hiển linh uống rượu rất bất lợi cho công cuộc chấn hưng giới pháp, nên ngài Hám Sơn đã viết bài Văn viết về thị giả Linh Thông và giới uống rượu để răn nhắc những tăng sĩ đam mê rượu chè. Mặc dầu ngài răn cấm nghiêm ngặt như thế, nhưng một số tăng sĩ bại hoại vẫn lén lút uống rượu bất chấp giới luật, và điều này đã làm ngài phiền lòng không ít.
Năm 1607, Đại sư Hám Sơn bắt đầu khai giảng các khóa giảng kinh thuyết pháp cho đệ tử và hoàn tất chú giải quyển Đạo Đức Kinh. Lúc còn nhỏ, ngài đã đọc quyển sách này, nhưng vì lời văn cổ xưa, ý nghĩa thâm sâu hàm súc nên ngài không hiểu mấy. Tuy nhiên, sau khi khai ngộ, ngài nghiên cứu kỹ càng cuốn sách này và hiểu rõ được ý chỉ của Lão Tử. Vì các đệ tử cư sĩ thường thỉnh cầu ngài giải thích các ẩn nghĩa trong đó, nên ngài mới bắt đầu chú giải quyển Đạo Đức Kinh vào năm bốn mươi bảy tuổi. Mỗi khi nghiên cứu thấu triệt một đoạn văn nào rồi thì ngài mới đặt bút viết. Nếu còn một chữ nào khả nghi, chưa rõ thì ngài cố nghiên cứu đến cùng, quyết không bỏ sót. Ngài dụng công chú giải cuốn sách này cả hơn mười lăm năm, đi đâu cũng mang nó theo mình, mãi cho đến nay mới hoàn tất.
Ngài đã nói với thị giả Phước Thiện rằng muốn nắm được ý chỉ của quyển Đạo Đức Kinh thì phải trải qua nhiều kinh nghiệm sống. Những lời văn trên giấy trắng mực đen không thể diễn đạt được hết ý nghĩa. Những khi chú giải kinh điển, ngài đều nhập định lắng tâm để xem xét, nhìn thẳng vào lời kinh, hầu mong hợp với tâm Phật. Nhờ thế, những kiến giải và nghĩa lý chân thật tự nhiên vụt ra lập tức. Khi đó, ngài mới viết xuống giấy. Ngài biết nếu lạc vào sự suy nghĩ tư tưởng, lý luận thì khó mà hiểu được ý nghĩa chân chính của kinh.
Trong lúc ngài bắt đầu cho trùng tu chánh điện chùa Nam Hoa thì có một quan huyện tên là Phùng Nguyên Thành đến thăm chùa và ngủ qua đêm tại núi. Tối đến, ông nằm mơ thấy Bồ Tát Quán Thế Âm hiện thân cảm ứng. Sáng hôm sau, khi lên chánh điện lễ Phật, thấy ba thánh tượng đã bị hư bể mục nát, ông liền hỏi ngài:
- Thưa Đại sư! Hai cây cột trụ chính trong ngôi chánh điện hùng vĩ này đang bị sâu mọt ăn hư nát, và ba tôn thánh tượng (tượng Phật A Di Đà, Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Đại Thế Chí) cũng bị hư hoại. Tại sao ngài chưa sửa chữa lại?
Ngài đáp:
- Bần tăng rất muốn sửa chữa, nhưng ngặt vì rất tốn kém và bần tăng chỉ có hai bàn tay trắng thì làm sao đây?
Quan huyện hỏi cần phải có bao nhiêu tiền để làm. Ngài nói rõ số tiền cần thiết. Nghe xong, ông ta bảo:
- Con sẽ cố gắng đi thâu góp để giúp ngài.
Phùng Nguyên Thành tìm đến Tổng đốc Đái Diệu, phân trần tình trạng bi đát của chùa Nam Hoa cho vị quan này nghe. Vừa nghe qua lời này, quan Tổng đốc vui mừng nói ngay:
- Trẻ con bị té xuống giếng, người lớn phải trèo xuống mà cứu, huống hồ chi thánh tích của chư Phật, chư Bồ Tát nay bị hư hoại như thế, làm sao Phật tử chúng ta có thể ngồi yên mà nhìn?
Quan Tổng đốc hỏi về số tiền sửa chữa, quan huyện liền thuật lại lời của ngài Hám Sơn. Nghe xong, quan Tổng đốc bảo:
- Theo tôi có lẽ số tiền này vẫn chưa đủ đâu.
Ông ra lệnh cho người đến Tào Khê xem xét, tính toán lại tiền sửa chữa chánh điện, rồi mời ngài Hám Sơn đến bản doanh để bàn luận. Biết quan Tổng đốc có ý muốn lấy tiền từ trong công khố ra để cúng dường sửa chữa nên ngài bèn nhắc:
- Lòng tốt của quan lớn khiến bần tăng cảm kích vô cùng, nhưng trộm nghĩ nếu dùng của công mà xây dựng chùa chiền thì thật là bất tiện. Chỉ có sự phát tâm cúng dường xây chùa của dân chúng mới thật là y theo pháp.
Quan Tổng đốc bèn hỏi:
- Vậy phải làm thế nào?
Ngài đề nghị quan Tổng đốc lập ra một ủy ban vận động dân chúng cúng dường tiền trùng tu chùa Nam Hoa. Chính quyền tỉnh Quảng Đông sẽ lập ra mười hai quyển công đức phiếu để ghi nhận tên tuổi những người cúng dường. Mỗi bộ trong dinh phủ sẽ để một quyển, dân chúng được khuyến khích tùy tâm, tùy hỷ cúng dường. Tất cả tiền cúng dường thâu nhận bằng cách này đều được gởi thẳng về dinh Tổng đốc chứ không gởi đến chùa cho tăng chúng quản lý.
Sở dĩ ngài Hám Sơn đề nghị như vậy cũng là rút kinh nghiệm từ việc khuyến khích Lý Thái hậu dành dụm tiền trong triều nội để trùng hưng chùa Báo Ân và lập chùa Hải Ấn mà gặp rắc rối. Ngài đưa ra cách đó để tránh việc liên hệ với triều đình. Vì cách này rất dễ dàng thực hiện nên quan Tổng đốc đồng ý ngay. Trong vòng một tháng, quần chúng đã đóng góp khoảng một ngàn đồng vàng cho việc trùng tu. Ngài bèn chuẩn bị đi miền Tây để mua gỗ. Lúc đó ngài đã tuổi già sức yếu, thường đau ốm nên quan Tổng đốc yêu cầu ngài đến Đoan Châu sửa chữa đài Bảo Nguyệt (phía Bắc vùng Cao Yếu, do quan Phùng Nguyên Thành bỏ tiền ra xây cất, trong chánh điện có tượng Bồ Tát Quán Thế Âm mặc y trắng), hầu mong lưu giữ ngài lại trong tỉnh phủ, tránh việc đi xa. Việc mua gỗ được giao cho một vị quan địa phương trông lo.
Mùa đông năm đó, việc sửa chữa đài Bảo Nguyệt được hoàn thành và việc mua gỗ cũng xong. Ngài cho vận chuyển gỗ mộc về Tào Khê. Ngài có viết bài ký truyện về việc này. Năm sáu mươi bốn tuổi, ngài mang gỗ từ Đoan Châu trở về Tào Khê bằng thuyền vì lúc đó chưa có công lộ thuận tiện cho việc vận chuyển vật liệu. Vì gặp gió bão nên ngài phải ngừng tại ải Linh Dương ít lâu. Sẵn dịp, ngài du hành đến Đoan Khê. Nơi đó, ngài viết bài kệ Mộng du Đoan Khê. Khi đưa gỗ đến Mông Giang, ngài trở về chùa tìm người phụ giúp việc khuân vác. Việc vận chuyển gỗ cây về Tào Khê thật rất khổ nhọc, nhưng lúc ngài dự định bắt đầu sửa chữa đại điện thì có nhiều việc không may xảy ra.
Lúc đó, dân chúng đã hết sức bất mãn với chế độ hà khắc của triều đình nên số người theo quân khởi nghĩa của Lý Tự Thành chống lại triều đình mỗi ngày một đông. Họ đánh chiếm Khâm Châu để làm căn cứ. Dĩ nhiên, Tổng đốc Quảng Đông là Đái Diệu phải tìm cách chiếm lại Khâm Châu. Phần vì thọ ơn của ông ta trong việc khôi phục lại đạo tràng Tào Khê, và phần vì không muốn thấy cảnh máu đổ thịt rơi giữa hai bên, nên ngài bèn xuống núi khuyên nhủ quân khởi nghĩa hãy rút khỏi Khâm Châu. Thủ lĩnh nhóm nghĩa binh nghe lời khuyên giải của ngài Hám Sơn nên quyết định rút quân khỏi thành. Cuộc ác chiến đẫm máu tưởng như không thể tránh đã không xảy ra nhờ khả năng thuyết phục của ngài. Tuy nghĩa quân đã rút và quan Tổng đốc chiếm lại Khâm Châu, nhưng các quan lại tham ô trong triều vẫn vin vào cớ đó để bắt tội quan Tổng đốc Đái Diệu, rồi cho bãi chức ông ta. Mùa đông năm 1608, Tổng đốc Đái Diệu bị bãi chức nên ngài Hám Sơn không còn được sự ủng hộ của vị đại hộ pháp này nữa. Việc này ảnh hưởng rất lớn đến công cuộc khôi phục Tào Khê của ngài.
Khi xưa, nhờ có sự trợ giúp của quan Tổng đốc mà ngài Hám Sơn dễ dàng chỉnh lý chùa chiền, lấy lại điền sản bị cư dân cùng địa chủ tiếm chiếm. Sau khi quan Tổng đốc bị bãi chức, các cường hào địa chủ trong vùng bèn thông đồng với một số tăng sĩ bại hoại trong chùa để chống đối ngài. Ngày nọ, ngài nhờ một tăng sĩ đem vật liệu ra sửa chữa chánh điện. Vị tăng này vốn đã bất mãn với ngài từ lâu, nay nhân dịp này mà nộ khí chửi mắng ngài thậm tệ. Trong chùa cũng có một số tăng chúng phụ họa theo mà nhục mạ ngài. Tuy cá nhân ngài không màng chấp trước, nhưng đối với việc sửa chữa chùa chiền, ngài rất đau buồn vì công trình trùng hưng Tổ đình không có cơ hội hoàn tất. Ngài buồn bã nói với thị giả Phước Thiện: “Chắc vì thầy không làm đúng với lời dạy của Đức Phật, quá chú trọng vào hình tướng bên ngoài nên mới thọ nạn trong kiếp này như vậy”.
Được tin các tăng sĩ khởi sự chống đối ngài, các tay cường hào du đãng khi xưa cùng các địa chủ lập tức kích những phu khuân vác vật liệu xây chùa làm loạn. Khi họ bắt đầu gây náo loạn, ngài biết không thể khuyên can gì được nữa, nên một mình lên chánh điện, đốt hương, tụng kinh Kim Cang Bát Nhã. Khi xưa, ngài đã thuộc lòng kinh này, nhưng dù đọc tụng kinh văn, ngài vẫn chưa hoàn toàn hiểu rõ ý nghĩa, vì vẫn còn có vài chỗ nghi hoặc. Nay, nhân hoàn cảnh này, tụng đọc lại kinh văn, tự nhiên giải ngộ và nhập vào diệu lý của kinh. Ít năm sau, ngài đã chú giải quyển Kim Cang Quyết Nghi giải thích các diệu lý của kinh, ngài bảo đệ tử: “Bát Nhã là chân nguyên của toàn thể chư Phật và Bồ Tát, là chân tâm Phật tánh của tất cả chúng sanh. Thái độ sống và tư tưởng của mọi người đối với trí Bát Nhã này, tùy thuận hay nghịch, mà định rõ phàm hay thánh”.
Thật ra, trong thời gian đến trùng tu Tổ đình Tào Khê, ngài Hám Sơn chưa có cơ hội giáo dục và đào tạo tăng sĩ đúng như ý muốn. Phần lớn tăng sĩ khi ấy đều là những người đã sống ở đó từ trước. Đối với họ, làm tăng sĩ chỉ là một nghề mưu sinh chứ chưa mấy ai biết rõ mục đích tu hành. Bắt họ phải giữ gìn giới luật như ăn chay, không được uống rượu, ngày bốn thời hành lễ, khi ăn phải thực hiện Tam đề và Ngũ quán, mặc y áo nâu sòng khiến họ rất khó chịu, bất mãn. Dĩ nhiên đa số sợ bị quan quân đuổi ra khỏi chùa nếu không giữ giới, nên không ai dám làm gì. Nay hay tin Tổng đốc Đái Diệu bị bãi chức, các tăng sĩ bất mãn lâu nay bèn liên hợp với nhau để chống đối ngài. Một lý do nữa phát xuất từ việc ngài yêu cầu lập phòng thâu nhận tiền cúng dường để xây dựng chùa tại dinh quan Tổng đốc. Việc này khiến cho các tăng sĩ trong chùa mất đi cơ hội lấy tiền chùa bỏ túi riêng như thông lệ cũ. Vì không thể lấy tiền, họ bèn tố cáo ngài tham nhũng tiền bạc xây chùa, hầu mong quan quân đuổi ngài đi nơi khác để họ có thể giữ lấy mối lợi lộc này. Họ làm đơn tố cáo ngài tham ô biển thủ tiền bạc của chùa khoảng tám ngàn đồng vàng cùng nhiều tội lỗi khác. Đối với tội trạng nào, ngài cũng nhẫn nhục, nhưng việc tham ô biển thủ tiền bạc của chùa, ngài phải biện bạch vì việc này rất hệ trọng đến thanh danh của tăng sĩ. Do đó, ngài trình cho phán quan tất cả sổ sách chi tiêu trong chùa một cách rõ ràng. Trong khi chờ đợi quyết định của phán quan và vì sự an toàn của cá nhân, ngài đành rời chùa cùng vài thị giả thân tín, ẩn sống trên một con thuyền nhỏ bỏ neo bên sông Phù Dong trong suốt hai năm liền.
Cuối năm, quan Hạng Sở Đông, đang trấn tại ải Hiệp Quang, gởi thư mời ngài đến doanh trại để hoằng pháp cho quân lính của ông. Ngài chèo chiếc thuyền hư nát giữa sóng gió suốt mấy ngày mới đến được nơi đó. Lúc đến doanh trại, ngài bị bệnh nặng gần chết. Quan Hạng Sở Đông cho mời đại phu đến chữa trị nên ngài mới đỡ được phần nào. Ngài trú ở đây mấy tuần để thuyết pháp giảng kinh cho mấy ngàn quân sĩ, nhiều người đã phát tâm xin thọ giới quy y với ngài. Sau đó, lúc trở về quận nhà, ngài lại bị bệnh nằm liệt giường gần cả năm trời, nhưng lúc nào ngài cũng bền chí niệm Phật.
Tháng Bảy năm 1610, một vị phán quan đến quận xét xử vấn đề các tăng sĩ thưa kiện ngài. Vì phán quan này đã ăn tiền hối lộ của các tay địa chủ muốn cướp đất đai Tào Khê, nên sau khi coi sơ lược vài hồ sơ, ông đã tuyên bố là ngài có tội và quyết định đuổi ngài đi nơi khác. May thay, lúc đó có quan Vương An Bộ vốn là bạn thuở xưa của ngài, đi thanh tra ngang qua vùng đó. Xem qua án lệnh, ông đã nổi giận phê vào đó: “Đại sư Hám Sơn có công lớn trong việc trùng tu lại chùa Nam Hoa, Tổ đình của Lục Tổ tại Tào Khê. Đại sư vì thường trụ mà lo việc xây cất, khiến cho những tăng sĩ gian xảo không lấy tiền chùa bỏ túi riêng được. Thế mà Đại sư lại bị kết án là phạm tội. Phải chăng đã có điều gì mờ ám?”. Đích thân Vương An Bộ ra lệnh cho quan phủ địa phương phải điều tra sự vụ cho thật rõ ràng. Quan phủ mang quân lính đến Tào Khê tra vấn những tăng sĩ trong chùa. Chỉ qua vài câu hỏi, quan phủ nhận thấy những lời tố cáo của các tăng sĩ bại hoại hoàn toàn không đúng với sự thật. Nhờ điều tra sự kiện từng chi tiết, ông biết được những tăng sĩ này chỉ đặt điều vu khống, vô căn cứ như nói rằng ngài lạm dụng, lấy hơn tám ngàn đồng tiền vàng, trong khi số tiền này vẫn còn nằm trong ngân quỹ tại dinh Tổng đốc. Khi trụ trì chùa Nam Hoa, ngài đã đặt rõ thanh quy11 về việc thọ nhận tiền cúng dường và lập sổ sách chi tiêu rất rõ ràng. Tiền bạc nhận được đều được ghi trong chi phiếu và sổ sách đàng hoàng. Tất cả tiền thâu nhận hay chi phí đều được thư ký và tăng giám viện của chùa đảm trách.
11 Thanh quy: quyển sách nói về những quy định cụ thể trong việc tu học của bốn chúng tại chùa.
Cuối cùng, quan phủ biết rõ là ngài chưa bao giờ chạm đến tiền của chùa. Vì vậy, kẻ trong cũng như người ngoài chùa đều thấy rõ là ngài vô tội. Quan phủ liền cho gọi những tăng sĩ bại hoại này vào để lấy khẩu cung. Trước các bằng chứng rõ rệt, họ đành phải khai rõ tội trạng và nói là bị các tay cường hào ác bá xúi giục để cướp đất đai của chùa. Sự việc minh bạch rõ ràng, quan phủ tức giận, định trừng phạt những tăng sĩ vu khống đặt chuyện, nhưng ngài cố gắng hết sức để bào chữa cho họ khỏi bị tội vạ. Quan phủ bèn thỉnh ngài trở về trụ trì chùa ba lần, nhưng ngài đều từ chối. Một phần vì ngài quá mệt nhọc trong suốt hai năm sống vật vờ trên sông, phần thứ hai vì ngài cứ phải đi tới đi lui hầu phán viện. Cuối cùng, trước sự thỉnh cầu ân cần của quan phủ, ngài đề nghị giao chùa lại cho đệ tử là Hoài Ngu quản lý, rồi đi đến Ngũ Dương, trú tại am Trường Xuân để dưỡng bệnh. Trong suốt mười năm tại Tào Khê, ngài đã dồn hết mọi sức lực để chấn chỉnh trùng tu đạo tràng của Lục Tổ. Mặc dầu việc xây cất đã có nhiều tiến triển, nhưng thái độ biếng nhác và bại hoại của các tăng sĩ nơi đây đã làm ngài mệt mỏi, cần phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng ít lâu.
Thật ra lúc đó, dù đã được ân xá nhưng ngài vẫn còn bị triều đình theo dõi và kiểm soát rất kỹ. Không những thế, bộ Hình cũng cố tình làm hồ sơ ân xá cho ngài thật chậm trễ nên các cơ quan kiểm soát địa phương, vì không nhận được tin tức gì của bên bộ Hình, nên án của ngài vẫn còn bị treo. Mãi về sau, trong cuộc thẩm sát cuối cùng vào năm 1611, ngài mới được chính thức tha bổng. Từ đó, ngài được tự do đi lại, không những tại miền Nam mà ngay cả miền Bắc nữa. Do các đệ tử thỉnh cầu, ngài bắt đầu lược giảng quyển Đại Học Yếu chỉ.
Năm sáu mươi bảy tuổi, tại am Trường Xuân, ngài giảng Luận Đại Thừa Khởi Tín, Bát Thức Quy Củ, Bách Pháp Trực Giải. Trước kia, khi chú giải kinh Pháp Hoa, ngài không giải theo thứ tự như chương cú của kinh nên rất ít ai hiểu. Do đó, ngài lại viết quyển Pháp Hoa Kích Tiết để chú giải rõ ràng theo từng phẩm một. Khi còn trú tại Đông Hải, ngài đã có ý định viết quyển chú giải kinh Lăng Nghiêm nhưng chưa có thời gian rảnh rỗi để thực hiện việc này. Tháng Năm năm đó, ngài bắt đầu hạ bút và hoàn thành quyển Lăng Nghiêm Thông nghĩa trong vòng năm mươi ngày. Tuy ngài đã viết hai bài chú giải ngắn gọn trước đó, nhưng nghĩa lý không dung hợp và liên tục với ý của kinh. Đây là lý do tại sao mà ngài phải viết lại bài chú giải kinh Lăng Nghiêm lần thứ ba kỹ càng hơn.