Vào đời nhà Lương, có một vị Phạm tăng, pháp hiệu là Trí Dược, từ Ấn Độ sang Trung Hoa hoằng pháp. Khi đi qua vùng Tào Khê, thấy phong cảnh nơi đây thanh tĩnh, nên ông lưu lại đó cất một am tranh để tu hành. Theo thời gian, số người đến tham học với ông mỗi ngày mỗi đông, nên Trí Dược Pháp sư bèn khởi sự cho xây một ngôi chùa. Ông đã tiên đoán: “Trong vòng hơn một trăm sáu mươi năm nữa, sẽ có một vị nhục thân Bồ Tát đến đây hoằng pháp, số người được ngài độ nhiều như gỗ cây trong rừng này. Dân chúng cần kiến lập một ngôi chùa để hậu đãi ngài và nên đặt tên chùa là Bảo Lâm”. Quả như lời Pháp sư Trí Dược tiên đoán, hơn một trăm sáu mươi năm sau, Lục Tổ Huệ Năng đã đến đây để truyền bá Phật pháp. Môn đệ của ngài rất đông, trong đó có các thiền sư nổi tiếng như ngài Hành Tư, Hoài Nhượng, Thần Hội, Huyền Giác, Tuệ Trung và Pháp Hải.
Vào khoảng đầu triều đại nhà Minh, chùa Bảo Lâm được đổi tên thành Nam Hoa. Tuy là Tổ đình của Thiền tông, nhưng lúc đó tông này đã phân chia thành năm phái như Lâm Tế tại Hồ Bắc, Quy Ngưỡng ở Hồ Nam, Tào Động ở Giang Tây, Vân Môn ở Quảng Đông, và Pháp Nhãn ở Nam Kinh nên Tổ đình tại Tào Khê dần dần bị mai một. Chùa tuy lớn, nhưng chỉ có một vài vị tăng cư trú, mà những vị này không chịu gìn giữ giới luật tinh nghiêm, không chịu tu hành cẩn thận, nên dần dần bị dân chúng quanh đó coi thường. Vào đời vua Minh Hoằng Chánh, dân chúng bị nạn hạn hán thất mùa ở những nơi khác đã tìm đến lập nghiệp quanh vùng Tào Khê. Một số kéo đến chiếm cứ phòng ốc, đất đai của chùa mà tăng sĩ không thể quản chế, rồi bắt đầu khai khẩn đất đai quanh chùa và sống chung với tăng sĩ, nên dần dà không còn ai biết tài sản điền địa ở đó thuộc về tăng sĩ hay cư dân nữa. Sau đó ít lâu, đất đai của chùa cũng từ từ bị quan quyền địa phương chiếm lấy để xây dựng nhà cửa, mở mang chợ búa nên theo thời gian, Tào Khê không còn là đạo tràng thanh tịnh của Lục Tổ thuở xưa nữa.
Khi ngài Hám Sơn đến Tào Khê, bên ngoài tuy vẫn còn hình dáng chùa nhưng bên trong chùa đã biến đổi thậm tệ. Tự viện biến thành nhà cửa, làng xóm, chợ búa của thường dân. Tăng sĩ sống lây lất, nhìn không ra tăng mà cũng không ra tục và thường bị dân chúng khinh khi ra mặt. Nhìn thấy cảnh trạng đó, ngài rất đau lòng và tự nhủ là sẽ quyết tâm trùng tu, khôi phục lại ngôi Tổ đình này.
Trong cuốn Hám Sơn Lão nhân Tự sự Niên phổ, ngài đã mô tả cảnh tượng Tào Khê lúc đó như sau: “Phía Đông chùa có bọn du đãng tụ tập, mở quán rượu thịt, thật rất bẩn thỉu. Việc này đã kéo dài hơn một trăm năm nay mà không ai để ý đến. Trong và ngoài chùa đều đầy rác rưởi dơ bẩn. Tăng sĩ sống lẫn lộn với dân chúng, đa số để tóc dài, ăn thịt uống rượu, chẳng biết giữ gìn giới luật, chỉ chăm lo thờ cúng như các đạo sĩ. Tệ hơn nữa, ngọn núi sau chùa để xây tháp thờ chư vị Tổ sư đã bị cường hào ác bá chiếm cứ, khai thác làm nghĩa địa. Đất đai quanh chùa bị quan lại phân chia cho các nhóm địa chủ khai thác. Những người này lập kế thông đồng với quan lại địa phương để chiếm cứ đất đai và đuổi các tăng sĩ ra khỏi núi”.
Đến Tào Khê, nhìn thấy hiện trạng suy đồi này, ngài than thở: “Đây là bệnh của nội tạng. Nếu không sớm dẹp trừ thì đạo tràng của Lục Tổ sẽ trở thành nơi hang ổ của loài chồn hoang”.
Ngài thấy sự thoái hóa suy bại này đã kéo dài cả trăm năm nay rồi, nên không có cách gì khác để phục hưng lại Tổ đình ngoài sự kêu gọi giúp đỡ của các quan lớn trong triều.
Ngài biết các vị đại quan như Trần Đại Liệu, Chu Hải Môn, Chúc Tinh Tồn và Đái Diệu đều rất tin tưởng vào Phật pháp và có thể giúp ngài chấn chỉnh lại linh khí Tào Khê, nên viết thư đề nghị họ giúp đỡ. Nghe nói Tổ đình đã bị cường hào ác bá chiếm cứ, làm ô uế nơi linh địa, các vị quan này lập tức hạ lệnh cho quan quân địa phương kéo đến Tào Khê và ra lệnh trong vòng ba ngày, cư dân du đãng cưỡng chiếm đất đai điền sản của chùa đều phải dời đi nơi khác. Dưới sự hướng dẫn của ngài, quân lính cùng tăng chúng trong chùa ra sức dọn dẹp sạch sẽ tất cả những thứ dơ bẩn tích tụ trong bao năm. Sau đó, ngài cho sửa sang các quán rượu thịt lại thành các tịnh xá cho khách lên núi lễ Phật nghỉ ngơi. Từ từ, ngài khởi sự cho trùng hưng, chấn chỉnh lại đạo tràng của Lục Tổ.
Công việc tiến hành tốt đẹp được mấy tháng thì một hôm quan Tổng đốc Đái Diệu mời ngài đến dinh dùng cơm và đàm luận. Tổng đốc bảo:
- Bạch Đại sư, con đã giúp ngài dọn dẹp sạch sẽ rác rưởi tại Tào Khê, nhưng hiện nay con thấy đa số sanh linh vẫn còn đang bị lầm than. Xin ngài hãy từ bi cứu hộ.
Ngài ngạc nhiên hỏi:
- Còn việc gì thế? Quan Tổng đốc nói:
- Đại sư có biết Hoàng thượng đã phái quan Đại sử đến đây trông coi việc mò ngọc trai không?
Ngài đáp:
- Vâng, ai cũng biết Hoàng thượng đã phái quan Đại sử đến miền này trông coi việc mò ngọc trai. Không biết đại nhân muốn chỉ giáo điều gì?
Quan Tổng đốc nói:
- Trong việc mò ngọc trai, triều đình đã mang đến đây hàng ngàn thợ lặn. Đa số những người này đều là thành phần tội phạm khổ sai được khoan hồng để đi mò ngọc trai. Lợi dụng việc triều đình cho phép, chúng bèn cấu kết với nhau để tác oai tác quái. Ngày nào không phải mò ngọc trai, chúng vẫn kéo thuyền ra biển để cướp của giết người, không coi pháp luật ra gì. Quan quân địa phương không có biện pháp gì để ngăn chặn vì sợ đụng chạm triều đình. Ngư phủ trong vùng cũng không dám ra biển đánh cá vì sợ bị cướp. Ngoài ra, lúc này, triều đình lại cho khai thác các hầm mỏ trong vùng để tìm vàng nên các tay địa chủ lợi dụng uy thế triều đình phá hoại đất đai, đào xới rất hung hăng, bất kể đất của công hay tư. Phần lớn những mảnh đất bị đào đều trở nên ô nhiễm không thể trồng trọt được nữa, đó là chưa kể việc thợ mỏ còn lợi dụng cho đào các ngôi cổ mộ để lấy của và phá hoại nhà cửa, làng mạc trong vùng. Khắp nơi, ai ai cũng đều là nạn nhân của sự phá hoại này. Tuy là quan địa phương, nhưng bản chức vô quyền đối với lệnh của triều đình. Vậy phải làm thế nào?
Ngài suy nghĩ rồi đáp:
- Những việc này không giải quyết dễ dàng đâu, triều đình thì ở xa mà đa số các quan triều đều tham nhũng. Họ chỉ lo cấu kết với các tay cường hào ác bá để đạt những cái lợi nhỏ lúc này, chứ nào biết đến những cái hại lớn về sau. Tuy nhiên, quan Tổng đốc đã nhờ, bần tăng sẽ cố gắng.
Sau đó, ngài Hám Sơn về chùa, lên chánh điện chắp tay cầu nguyện. Duyên lành may mắn, vài hôm sau quan Đại sử họ Lê trông coi việc mò ngọc trai và đào mỏ có việc đi qua vùng đó. Là một Phật tử có tín tâm, biết ngài Hám Sơn đang trùng hưng pháp đường tại Tào Khê nên ông ta đến đó lễ bái nhục thân Lục Tổ và lưu lại chùa vài ngày để nghe giảng kinh thuyết pháp. Nhân dịp này, ngài Hám Sơn cùng ông ta đàm luận về Phật pháp. Khi biết thời cơ đã chín muồi, ngài liền bảo:
- Bần tăng có một việc rất khó giải quyết, không biết đại nhân có thể giúp được không?
Quan Đại sử đáp:
- Xin Đại sư cứ nói. Ngài bảo:
- Bần tăng nghe nói những chiếc thuyền mò ngọc trai khi hết hạn lại không chịu trở về bến mà ở tại biển hoành hành cướp bóc. Đối với việc này, đại nhân có biết đến chăng?
Quan Đại sử ngạc nhiên hỏi:
- Đại sư ở chùa thì làm sao biết đến những việc này? Ngài đáp:
- Hiện tại bá tánh đang khổ sở vì bọn hải tặc hoành hành. Dân chúng ta thán oán hận đằng đằng. Chư Phật từ bi, làm sao không biết đến?
Quan Đại sử nói:
- Việc mò ngọc trai là ý chỉ của Hoàng thượng. Dù cho dân chúng có oán trách, tại hạ cũng không cách gì để giải quyết.
Ngài đề nghị:
- Việc bắt người đi mò ngọc trai thì bần đạo không dám bàn đến, nhưng chỉ có lời đề nghị là xin đại nhân hãy ra lệnh cho những chiếc thuyền mò ngọc trai phải trở về bến sau khi đã mãn hạn. Ngược lại, nếu ở trên biển quá thời hạn thì sẽ bị triều đình trừng phạt. Việc này đâu có trái ngược với thánh chỉ của Hoàng thượng.
Quan Đại sử trầm ngâm một chút rồi nói:
- Đại sư còn việc gì nữa, xin hãy nói ra. Ngài bảo:
- Việc đào mỏ kiếm quý kim của triều đình cũng đã bị các tay địa chủ khai thác đất đai ỷ thế triều đình nhiễu nhương dân chúng thái quá. Xin đại nhân hãy lệnh ngưng đào xới các hầm mỏ tại vùng có nhà cửa và phần mộ của dân chúng. Công đức này sánh bằng bố thí ngàn muôn lượng vàng, tu tạo hàng trăm chùa viện.
Nghe lời phân trần của ngài Hám Sơn, quan Đại sử họ Lê bèn hạ lệnh giám sát nghiêm ngặt những chiếc thuyền mò ngọc trai và ngưng việc đào xới bừa bãi vào nhà cửa dân chúng trong vùng. Sau việc này, Tổng đốc Đái Diệu rất cảm kích công ơn của ngài; từ đó, ông qua lại với ngài rất thân thiết và trở thành một vị đại hộ pháp, luôn trợ giúp ngài trong công việc khai núi kiến tự, đào suối sửa đường, tuyển tăng thọ giới, khai đường thu đệ tử tại Tào Khê.
Trong vòng một năm, ngài Hám Sơn ở lại Tào Khê, phục hưng thanh thế đạo tràng Thiền tông. Ngài khai khẩn đất hoang, sửa đổi phong thủy của đường lộ (Theo ý ngài thì sự suy đồi của Thiền tông tại Tào Khê một phần là do mất đi hình thể chính của núi. Vì thế, ngài sửa chữa lại đường lộ để bảo tồn linh khí của núi, tức hình thể Long Tượng). Ngài tuyển trạch tăng sĩ, lập đàn truyền giới, mở trường nghĩa học (trường học miễn phí), nuôi dưỡng Sa di, thiết lập thanh quy, kiểm tra chùa viện lấy lại tài sản cho tăng chúng, thâu hồi đất đai bị chiếm mất. Tất cả công việc này được hoàn tất trong vòng một năm.
Năm 1602, sau khi sắp xếp công việc trùng hưng chùa chiền xong, ngài bèn tuyển chọn đệ tử vì chùa phải có tăng sĩ. Ngài bắt đầu tuyển chọn lựa lọc tăng chúng trong độ tuổi khoảng trên hai mươi và dưới bốn mươi. Sau đó, ngài đặt ra các kỷ luật như quy định tăng chúng mỗi ngày bốn thời phải công phu tụng kinh niệm Phật, phải tuân theo Bá Trượng1 thanh quy, phải ăn chay và giữ giới. Lúc đó, có một số tăng sĩ tuy cắt tóc vào chùa, nhưng trong thâm tâm lại không muốn tu hành, họ không biết ý nghĩa cao đẹp của xuất gia là gì mà chỉ thích làm nghề cúng tế, lo đi độ đám để lấy tiền cúng dường. Để giúp họ hiểu rõ Phật pháp, ngài cố công ra sức dạy dỗ, tổ chức các lớp học về Phật pháp phổ thông, giảng giải kinh điển và cho mời các nhà Nho trong vùng như Lương Tứ Tương, Long Chương v.v... đến dạy thêm về Tứ Thư, Ngũ Kinh, cũng như đạo làm người cho các chú tiểu, từ tám tuổi đến hai mươi tuổi. Sau ba năm học tập, những chú tiểu này mới được chính thức xuất gia, trở thành đệ tử của chùa Nam Hoa.
1 Ngài Bá Trượng (có nơi ghi là Bách Trượng, tên húy là Hoài Hải) (720 – 814) là thiền sư Trung Hoa lỗi lạc đời nhà Đường, và là môn đệ của Thiền sư Mã Tổ Đạo Nhất. Trong thời gian ngài làm trụ trì, ngài không nề hà những công việc nặng nhọc như cuốc đất, mặc dầu đã lớn tuổi và bận rộn việc thuyết pháp. Câu nói nổi tiếng của ngài là: “Một ngày không làm, một ngày không ăn”.
Năm 1604, ngài nhớ ngày trước trong một buổi đàm luận với Thiền sư Đạt Quán, Thiền sư đã nói: “Kinh Lăng Nghiêm có thuyết về nhân quả trong bảy loài2 rất hay, nhưng tiếc là chưa có sách vở thế gian nào giải thích rõ ràng về vấn đề này hết”. Khi đó, ngài đáp: “Tôi thấy trong truyện Xuân Thu có bàn về vấn đề nhân quả khá rõ ràng”. Nhớ lại chuyện xưa nên ngài khởi sự viết quyển Xuân Thu Tả Thị Tâm Pháp, trong đó ngài có ý nhắc nhở gián tiếp cho nhà vua đương thời đang say đắm Trịnh Quý phi về các tai họa do lòng tin ngu muội vào các cung tần mỹ nữ của các triều vua trước. Cung tần mỹ nữ và việc tin dùng hoạn quan là một trong những nguyên nhân chính đã làm sụp đổ biết bao triều đình về trước. Mặc dầu ngài viết theo sử liệu, nhưng một số quan triều cũng hiểu nên họ nổi giận, ra lệnh cho quan địa phương đưa ngài về Lôi Châu để học tập thêm. Ngài theo lệnh triều đình rời Tào Khê để trở về Lôi Châu.
2 Bảy loài: Phật giáo Đại thừa dùng khái niệm “bảy loài” để chỉ Trời, tiên, A Tu La, người, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
Năm 1605, ngài bị triều đình đưa đi an trú tại đảo Hải Nam, một hòn đảo nằm ở phía cực Nam của Trung Hoa. Từ xưa đến nay, đảo này vốn là nơi lưu trú của những quan lại, tướng sĩ, học giả, đạo sĩ, tăng sĩ bất đồng chánh kiến với triều đình. Xưa kia, học giả Tô Đông Pha vì bất đồng ý kiến với các đại thần trong triều nên cũng bị bãi chức và đày ra đây lúc sáu mươi tuổi. Tuy cách xa cả năm trăm năm, nhưng tâm tình và hoàn cảnh của ngài cũng không khác gì học giả Tô Đông Pha khi trước là bao nhiêu. Tuy nhiên, so với thi sĩ họ Tô, ngài có phần phước nhiều hơn vì không bị triều đình bức bách hay làm nhục quá đáng. Tại đảo Hải Nam, ngài có đến thăm am Quánh Lang của Tô Đông Pha và suối Bạch Long, rồi tìm kiếm di tích của Thiền sư Giác Phạm nhưng không được, nên trú lại tháp Minh Xương để viết lời tựa cho quyển Xuân Thu Tả Thị Tâm Pháp. Ít lâu sau, ngài đến núi Danh Sơn, viết quyển Quỳnh Hải Tham Kỳ Ký, tức quyển sách tham tầm đảo Hải Nam, và quyển Kim Túc Tuyền Ký, tức quyển ký sự về dòng suối gạo vàng.
Sống ở đây ít lâu, ngài nhận được giấy gọi phải trở về Lôi Châu trình diện học tập. Đêm đó, ngài bước ra trước sân ngắm cảnh trăng khuya thì đột nhiên cảm thấy có điều chi lạ lùng. Ngài linh tính thấy núi non suối ngàn đột nhiên trở nên lặng lẽ một màu tử khí, trong thành dường như không còn một bóng người nào, duy chỉ có phía Tây của Quận Thành là còn chút sinh khí mà thôi. Ngài vội bảo các đệ tử: “Quỳnh thành trong tương lai sẽ có thiên tai hoạn nạn. Phải mau kêu gọi mọi người làm lễ sám cầu an”. Dân chúng trong vùng nghe chư tăng nói thế, cho đó là lời huyễn hoặc nên không màng đến. Sau khi ngài trở vào đất liền khoảng nửa tháng thì có một trận động đất lớn xảy ra tại Quỳnh Châu. Tất cả nhà cửa phòng ốc phía Đông Quận Thành, cùng tường và cổng thành đều bị hủy hoại. Tháp Minh Xương bị đổ sụp và đè lên căn phòng mà ngài đã từng trú ngụ khi xưa. Nếu không trở về đất liền thì chắc thân ngài đã thành tro bụi rồi. Sau trận động đất, dân chúng mới bắt đầu tin tưởng vào lời dạy của ngài, họ cho lập các đàn cầu siêu cho chư vong linh, và từ đó hết sức lễ kính Tam Bảo.
Tháng Bảy năm đó, sau khi đi trình diện học tập tại Lôi Châu ít lâu, ngài được phép trở lại Tào Khê, tiếp tục công trình trùng tu Tổ đình. Khi ngài rời Tào Khê, những phòng ốc cũ đã được phá hủy và đang được xây dựng lại. Lúc trở về, công trình trùng tu chùa chiền đã xong khoảng bảy mươi phần trăm. Tiền công và vật liệu tốn khoảng vài ngàn đồng vàng. Số tiền này đều do ngài đi hóa duyên trong vùng mà được nhưng vẫn chưa đủ, nên ngài lại phải viết thư yêu cầu các vị quan quen biết cũ cúng dường thêm. Số tiền cúng dường này được dùng để trả tiền nợ và sửa chữa am Trường Xuân ở Ngũ Dương, làm nơi thu nhận tiền cúng dường xây dựng chùa Nam Hoa ở Tào Khê. Tháng Mười, hai thị giả Quảng Ích và Quảng Nhiếp xuất gia.