Đường từ Bắc Kinh xuống Lĩnh Nam dài hàng ngàn dặm, đi bằng ngựa cũng mất mấy tháng, nhưng là kẻ bị lưu đày, phải đi bộ nên mất hơn một năm ngài mới xuống đến miền Nam Trung Hoa. Khi qua sông Văn Giang thì ngài gặp cư sĩ Vương Tánh Hải ở Lô Lăng đến lễ bái và thỉnh ngài viết chú giải kinh Lăng Già. Tháng Hai năm đó, ngài đi qua đỉnh Độ Dữu, nơi ngày xưa sư Huệ Minh đuổi theo Lục Tổ Huệ Năng để giành lấy y bát1. Nhân xúc cảnh, ngài có làm bài kệ:
1 Ngài Lục Tổ Huệ Năng được truyền y bát, thì có mấy trăm người đuổi theo để đoạt lại, trong đó có một vị tăng tên tục là Trần Huệ Minh ngày trước làm tứ phẩm tướng quân, tánh tình thô bạo, dẫn đầu đi trước, đuổi kịp Lục Tổ. Lục Tổ để y bát trên tảng đá và nói rằng: “Y bát là vật làm tin, há dùng sức mà đoạt được sao?”, rồi ẩn mình trong đám cỏ. Huệ Minh đến, muốn lấy y bát mà chẳng nhúc nhích được, liền kêu lớn lên: “Hành giả! Hành giả! Tôi vì pháp đến, chẳng vì y đến”. Lục Tổ liền ra ngồi trên tảng đá, Huệ Minh đảnh lễ nói rằng: “Mong hành giả vì tôi thuyết pháp”. Lục Tổ nói: “Ông đã vì pháp mà đến đây, thì nên dứt bặt trần duyên, chớ sanh một niệm, tôi sẽ vì ông mà thuyết”. Một hồi sau, Lục Tổ nói: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, đang khi ấy cái gì là bản lai diện mục của ông?”. Khi đó Huệ Minh liền khai ngộ.
“Nghĩ về hành trình vượt đêm lạ lùng của người xưa
Nay đạt được tâm gì trên đỉnh núi!”
Thấy những người đi trên đường rất vất vả vì khí hậu nóng như thiêu đốt nên ngài bảo thị giả thiết lập một quán trà giải khát trên núi cho khách bộ hành. Nhận thấy đường lộ giao thông gồ ghề khó đi, triều đình không chịu sửa chữa, tiền bạc thiết kế đều lọt vào tay các tham quan ô lại nên ngài khuyến tấn Phật tử trong vùng cùng nhau đến sửa sang lại đường sá để đem lại lợi ích cho muôn người. Qua vài năm sau, đường sá được sửa sang lại bằng phẳng. Đến Thiều Quang, ngài vào núi lễ tháp thờ nhục thân của Lục Tổ. Khi uống nước suối Tào Khê, ngài xúc động nên có làm bài kệ:
“Tào Khê trích nước từ nguồn
Linh Lưu nhập biển khơi sóng vỗ nền trời
Vài con cá chép biến thành rồng.
Nơi nguồn một làn gió lạnh thổi qua
Tiều phu vừa bỏ đá đeo lưng
Hoàng mai nửa đêm buồn tịch tĩnh
Từ lúc cầm bình bát vào nam
Thằng bé khí khái ngày một kiêu.”
Năm xưa, ngài đã từng cùng với Thiền sư Đạt Quán phát nguyện đến Tào Khê chấn chỉnh Thiền tông. Đại nguyện chưa thành thì ngài bị nạn phải lưu đày, còn Thiền sư Đạt Quán vì muốn cứu ngài nên cũng bị tù và chết trong ngục tối. Nay ngài có dịp đến Tào Khê và chứng kiến cảnh Tổ đình bị hư hoại quá lắm: chánh điện bị hư mục hoang tàn, tượng Phật không người hương khói, nay làm hang động của loài trùng rắn. Cỏ lau cao ngất mọc đầy sân chùa. Tăng sĩ để tóc dài, ăn thịt, uống rượu, chẳng giữ gìn giới luật, lại có vợ con nheo nhóc, chẳng khác gì với người thế tục. Vì là tội nhân của triều đình đang bị lưu đày, không thể lưu lại Tào Khê lâu được, nên ngài đành rơi lệ xót xa mà giã từ, nhưng tâm nguyện khôi phục lại Tổ đình Tào Khê vẫn nung nấu trong lòng. Đến huyện Ngũ Dương ở Quảng Châu, ngài vào xuất trình giấy tờ cho quan huyện là Vương tướng quân, nhưng vừa vào đến cửa huyện đường thì quan huyện đã đích thân bước ra cởi trói, mời ngài vào dinh thự của ông nghỉ ngơi. Ngài từ chối:
- Thân tôi đang mang tội, không dám làm phiền đến ngài. Vương tướng quân lắc đầu:
- Việc của ngài, tôi đã biết rõ ràng. Chỉ vì muốn cho quốc gia tránh cảnh tranh chấp ngôi vị nếu Hoàng đế không có con thừa kế mà ngài cầu thái tử cho quốc gia. Không ngờ một người tu hành như ngài lại bị lôi kéo vào vòng tranh chấp thị phi và bị tội vạ phải đi đày như vậy. Tuy nhiên, xin ngài chớ lo lắng, miền này thuộc sự cai quản của tôi, quân lính trên dưới đều thán phục ngài một lòng vì Phật pháp mà hoằng pháp lợi sanh, vì chúng sanh mà can đảm làm những việc không ai dám làm, nên chúng tôi không đối xử với ngài như những tội nhân khác đâu.
Nói xong, ông cho gọi người mang cơm chay đến mời ngài dùng. Ngài cùng ông hàn huyên tâm sự thật tương đắc. Hôm sau, ông đích thân đưa ngài về tạm trú tại chùa Hải Châu. Chiếu theo lệ thường, nếu tăng sĩ bị bắt hoàn tục, làm lính thú vùng biên cương, thì không được mặc áo cà sa và không được hưởng quy chế của tăng sĩ. Tuy nhiên, trường hợp của ngài lại khác hẳn, tuy bị bắt hoàn tục và bắt mặc y phục thế tục, nhưng Vương tướng quân vẫn đối đãi ngài như với một danh tăng. Ông thiết đãi cơm nước chay tịnh, mời ngài tạm trú tại một ngôi chùa, và cho ngài quyền đi lại tự do, một quyền lợi mà tội nhân bị đi đày không mấy ai được hưởng.
Thật vậy, trong thời gian bị lưu đày tại Lôi Châu, ngoài việc được phép đi lại tự do trong vùng, ngài còn được phép tự do giao thiệp với các thân hào nhân sĩ trong vùng. Các quan lại địa phương đều ưu đãi ngài rất thâm hậu. Thật ra, đa số quan lại tại đây đều là những người không theo phe đảng trong triều, không chịu nịnh bợ luồn cúi hay tham nhũng, hối lộ nên mới bị bổ đi xa như vậy. Lúc đó có quan Đại học sĩ Châu Nhữ Đăng đang mở trường dạy đồ đệ về thuyết Tri hành hợp nhất của Vương Dương Minh2. Nghe tin ngài đến, ông bèn dẫn vài mươi bạn hữu và đồ đệ đến thăm ngài. Trong lúc đàm đạo, Châu Nhữ Đăng hỏi:
2 Tri hành hợp nhất: nghĩa là hiểu biết và thực hành phải đi đôi với nhau. Trong đạo Phật, “tri” có nghĩa là hiểu biết, “hành” là hành động đúng đắn (của thân, khẩu, ý) và cũng là việc tu hành đi đến giác ngộ. “Tri hành hợp nhất” vừa là hiểu biết sự vật, hiện tượng “như chúng là”, vừa là hành động đúng với sự hiểu biết đó. Như vậy, tín, tri và hành lúc nào cũng phải song hành với nhau, bổ sung cho nhau, tri và hành hợp nhất thì mới đi đến giác ngộ thật sự. “Tri hành hợp nhất” cũng là thuyết của Vương Dương Minh, một triết gia lớn của Trung Hoa thời cận đại (1472 – 1529).
- Câu “Chỉ biết chân lý khi hiểu việc ngày đêm” nghĩa là gì?
Trong nhóm có một người đáp:
- Tri giác của mọi người tại nơi việc làm hằng ngày. Tối đến, trong mộng cũng có cái tri giác đó. Vì thế bảo rằng chỉ hiểu rõ chân lý sau khi biết việc ngày đêm.
Châu Nhữ Đăng lắc đầu, mọi người trong nhóm lần lượt thay phiên nhau trình bày sự hiểu biết của mình nhưng Châu Nhữ Đăng cứ lắc đầu mãi. Sau cùng, ông nói:
- Đại chúng đều trình bày ý kiến, nhưng tôi chưa hài lòng cho lắm, vậy xin lão sư chỉ giáo và cho ý kiến.
Ngài hỏi:
- Câu này xuất phát từ kinh sách nào? Châu Nhữ Đăng đáp:
- Đó là một câu từ Kinh Dịch.
Ngài bèn mỉm cười đáp:
- Đây là lời thánh nhân dạy bảo phàm phu là phải giác ngộ đạo lý sanh tử.
Châu Nhữ Đăng vui mừng gật đầu nói:
- Lời dạy của lão Thiền sư thật chí lý. Một lời chân đế vượt hơn sách vở để trên kệ cả chục năm nhiều lắm.
Thấy các đệ tử của mình ngơ ngác không hiểu, ông yêu cầu ngài giải thích cặn kẽ thêm. Ngài đáp:
- Sanh tử cũng như ngày đêm. Khi đã hiểu rõ lý này thì siêu vượt ngày đêm.
Đại chúng đồng tán thán. Từ đó, quan Đại học sĩ thường mời ngài tới giảng dạy thêm cho học trò của ông ta và chỉ ít lâu sau, tên tuổi của ngài lại vang lừng khắp vùng Lôi Châu. Quan lại trong vùng nghe tin cũng đến học hỏi với ngài rất đông. Vì vậy, tuy mang tiếng là bị đi lưu đày tại vùng biên cương hẻo lánh nhưng việc tu tập và làm Phật sự của ngài tại đây cũng không khác gì so với lúc ngài trú ở núi Ngũ Đài hay Lao Sơn cả.
Theo lệnh của triều đình, ngài bị lưu đày ở miền biên thùy, làm lính thú lao động, và được đặt dưới sự kiểm soát của quan quân vùng đó. Vì bị bắt hoàn tục, ngài không được dùng pháp danh mà phải dùng tên tục là Thái Đức Thanh. Ngoài ra, ngài bị bắt phải mặc thường phục thay cho y cà sa. Râu tóc của ngài cũng bị bắt phải để dài ra như người thường.
Tuy nhiên, các quan lại vùng đó đều cảm ân đức của ngài nên mặc dầu bị lưu đày, ngài vẫn được phép tự do đi lại và chỉ phải đến trình diện qua loa với quan lại địa phương trong thời điểm nhất định nào đó mà thôi. Thay vì phải sống trong trại lính, ngài được ở tại chùa viện địa phương cùng với các đệ tử. Sau này, lúc trùng hưng chùa Nam Hoa ở Tào Khê, mặc dầu địa vị của ngài vẫn là kẻ lao động tù tội nhưng mọi người vẫn coi ngài như là một tăng sĩ. Các quan đặc biệt không bắt ngài mặc áo quần tù nhân lao động, nhưng vì sợ triều đình theo dõi nên ngài vẫn phải mặc y phục thường dân và để râu tóc rất dài. Dẫu có hình tướng như dân thường, nhưng tâm ngài vẫn là tăng sĩ. Trong suốt mười tám năm bị đi lao động, ngài phải ra trình diện tại doanh trại quan quân ở Lôi Châu, nhưng các quan lại địa phương đều cố tình làm lơ việc này và che chở, bảo vệ, giúp đỡ cho ngài trong suốt thời gian đó.
Năm 1597, vùng này bị nạn hạn hán. Người chết nhiều không thể kể. Các giếng nước đều khô cạn. Mỗi ngày, thị giả Phước Thiện phải đợi đến nửa đêm mới múc được một thùng nước để dùng cho cả ngày. Trong và ngoài thành, đâu đâu cũng có người chết. Ngài cùng quan hiếu liêm Khả Thời Phục kêu gọi dân chúng đi chôn những xác chết. Có hơn mười ngàn xác chết được chôn. Sau đó, ngài lập đàn tràng vừa cầu siêu độ vong linh vừa cầu mưa. Vào ngày đó, trời đang nắng ráo bỗng nhiên đổ mưa tầm tã, nước ngập cả ba tấc, và sau đó nạn hạn hán chấm dứt.
Nên nhớ khi đó Quảng Đông là một miền biên thùy hoang dã có nhiều lam sơn chướng khí. Lôi Châu lại nằm về cực Nam của tỉnh Quảng Đông nên khí hậu còn oi bức, nóng nực hơn nữa. Dân chúng miền này đều là những người nghèo đói bị triều đình đày đi khẩn hoang, số người có học đã ít, số người biết đến Phật pháp lại càng ít hơn. Tuy nhiên, sau sự linh ứng của việc cầu mưa, dân chúng bắt đầu tin tưởng vào Phật pháp nhiệm màu. Mùa xuân năm sau, khí trời trở nên oi bức, dịch bệnh phát sinh và lan tràn khắp vùng, số người chết rất nhiều. Ngài lại kêu gọi dân chúng chôn cất hàng ngàn xác chết, rồi thân hành lập đàn tràng cầu siêu và cầu mưa trong bảy ngày bảy đêm. Sau đó, trời đổ mưa và dịch bệnh cũng chấm dứt. Từ đó, dân chúng lại càng tin tưởng vào Phật pháp nhiều hơn nữa. Số người đến xin quy y với ngài gia tăng và số người đến học hỏi về Phật pháp mỗi ngày một nhiều.
Vào tháng Tám năm đó, vì biết triều đình phái người đi thanh tra vùng này nên quan phủ yêu cầu ngài rời chùa Hải Châu đến Ngũ Dương, tạm thời cư trú tại trại huấn luyện quân sĩ như một lính thú lao công để tránh tai mắt triều đình. Ở đó, ngài có viết hơn hai mươi bài kệ kể về việc sinh hoạt trong doanh trại. Trên đường đến Ngũ Dương, ngài có đi qua ải Khổ Đằng thuộc vùng Điện Bạch, cửa ải của miền Nam núi Lĩnh Nam. Nơi đây, ngài cũng viết kệ kỷ niệm và bảo thị giả lập một quán trà để phục vụ cho khách qua đường. Lúc đó, quan thị vệ Đinh Hữu Võ vì chủ trương lập Chu Thường Lạc làm thái tử nên bị vua Thần Tông bãi chức đày xuống Lôi Châu. Ngài cùng ông ta bị lưu đày vì cùng một nguyên nhân nên khi gặp nhau, ngài và ông ta kết tình bằng hữu.
Mùa xuân năm đó, miền Ngũ Dương này cũng gặp nạn hạn hán, suốt mấy tháng trời không mưa, nước khan hiếm, sông ngòi đều khô cạn. Dọc đường phố ở trấn Ngũ Dương la liệt xác chết. Ngài lại đứng ra kêu gọi dân chúng cùng nhau chôn người chết, rồi tổ chức pháp hội cầu siêu trong bảy ngày bảy đêm. Sau pháp hội, trời đổ mưa và nạn hạn hán chấm dứt. Từ đó, dân chúng ở Ngũ Dương cũng hết sức tin tưởng vào Phật pháp nhiệm mầu. Cuối hè năm đó, ngài chú giải xong bộ kinh Lăng Già. Vì thấy đa số đệ tử lúc đó đều là nho sĩ, chưa thể nhập lý lẽ nhà Phật, nên ngài lại trước tác thêm bộ Trung Dung Trực Chỉ, giải thích quyển Trung Dung, theo nhãn quan Phật giáo cho họ hiểu.
Năm 1598, triều đình cử quan Đại Tư Mã Trần Đại Liệu xuống giám sát toàn cõi miền Nam nước Trung Hoa. Trần Đại Liệu là một người hành pháp rất nghiêm minh, không thiên vị công hay tư, nên dân chúng cũng như quan lại địa phương thường ít ai dám gặp mặt ông trực tiếp. Theo đúng quy định của những tội nhân bị lưu đày, ngài Hám Sơn cũng phải đến trình diện quan Đại Tư Mã để nhận chỉ thị. Ngài đã thuật lại chuyện này cho thị giả như sau:
“Khi đến doanh trại của quan Đại Tư Mã, ta phải đứng ở ngoài sân chờ lệnh gọi. Như trường hợp của những tội phạm đến trình diện, ta phải hô to tên của mình lên cho quan lớn nghe để nhận chỉ thị. Ta cố gắng hô to lên là yêu cầu được gặp mặt quan Đại Tư Mã, nhưng hô mãi chẳng có ai trả lời. Tuy không được quan lớn tiếp đãi, nhưng một người lính ra cho phép ta được trở về chùa. Hôm sau, ta đến lần thứ hai, nhưng cũng bị đối xử tệ như lần đầu. Lúc đó, ta không biết phải xử trí ra sao. Khi xưa ta có liên hệ mật thiết với các quan lại, nên đi đến đâu cũng đều được tiếp đãi trọng hậu, lần này cứ phải đến trình diện, chờ ngoài nắng mãi mà chẳng được tiếp.
Mãi sau này ta mới biết được hảo ý của quan Đại Tư Mã, vì lúc đó có thám tử của triều đình bí mật đi giám sát. Nếu ông ta đối đãi với ta tử tế như các vị quan địa phương khác thì sớm muộn gì Hoàng đế cũng biết, và chắc chắn ta sẽ không tránh khỏi tội chết. Do đó, ông ta giả bộ nghiêm khắc cho ta đứng chờ ngoài sân nắng ít hôm để các thám tử của triều đình báo cáo về là ta hết sức bị ngược đãi. Sau khi chờ cho các tay thám tử này gửi thư báo cáo về, quan Đại Tư Mã cho người thân tín đến hẹn gặp ta trên một chiếc thuyền nhỏ thả xuôi theo dòng. Nơi đó, ông ta sắp đặt một bữa cơm chay để tiếp đãi ta. Lúc đến, ta được mời ngồi vào ghế danh dự. Khi ấy, quan Đại Tư Mã mới cười bảo:
- Hai ngày trước tại hạ cố tình làm như thế để tránh tai mắt của Hoàng thượng. Xin Đại sư miễn chấp cho.
Chúng ta ngồi trò chuyện thân mật. Ta rất ngưỡng mộ ông và ngạc nhiên khi biết được rằng giữa các đại quan, vẫn có người tâm lượng rộng rãi, nhân từ, hiền hậu như ông ta. Khi đến Lôi Châu, tuy bị bổ nhập vào quân binh làm lính thú lao công, nhưng ta không phải ở trong doanh trại mà được phép trú tại một ngôi cổ tự ở Tây Thành, được tự do đi lại. Việc một quan lớn trong triều tiếp một tội phạm bị đi đày làm lính thú như vậy khiến quan quân địa phương trong vùng rất kinh ngạc. Họ ngạc nhiên cũng phải, vì một bên là quan lớn nổi tiếng của triều đình, một bên chỉ là một vị tăng phạm tội bị bắt hoàn tục và lưu đày.”
Sau cuộc thăm viếng, quan Đại Tư Mã Trần Đại Liệu đã nói với các quan quân trong vùng rằng: “Ngài Hám Sơn quả là bậc lân phượng giữa các tăng sĩ. Các ông nên nhân cơ hội này đến học hỏi với ngài”. Ngoài ra, ông còn ra ngầm lệnh cho các quan triều thuộc ba bộ (bộ Hình, bộ Văn, bộ Võ) ở Quảng Châu phải đến bái kiến và giúp đỡ ngài.
Từ đó, các quan lại địa phương ai ai cũng đến học hỏi và trợ giúp ngài trong các công việc Phật sự.
Năm 1598, quan ngự giám Phàn Hữu Hiên, vì liên quan đến việc giảm tiền chi tiêu trong cung nội để dành tiền trùng tu lại chùa Báo Ân, nên bị đày tới Lôi Châu. Ông đến gặp ngài tại Ngũ Dương vào lúc ngài đang soạn thảo lại bản văn chú giải kinh Lăng Già. Ngài liền đưa bản thảo chú giải cho ông xem. Xem xong, ông ta rất mừng rỡ và tán thán công trình biên soạn của ngài nên gom góp tiền cúng dường để khắc bản chú giải này lên bản gỗ để ấn loát cho các tự viện trong vùng.
Trưởng ty quan thuế muối tại Quảng Đông là Chu Hải Môn cũng thường đến học hỏi Phật pháp với ngài. Lúc đó, tình trạng Phật giáo ở miền Nam rất sa sút, các tăng sĩ không được học hỏi nên chỉ biết cúng lễ, tụng kinh cầu xin này nọ. Ngay như vùng Quảng Đông thuộc đạo tràng của Lục Tổ, theo thời gian, tông chỉ Phật pháp cũng dần dần thất truyền. Kẻ tu hành sống lẫn lộn với người thế tục, chẳng hiểu ý nghĩa xuất gia, chỉ biết làm các hình thức cúng lễ như các đạo sĩ, nên đa số dân chúng trong vùng cũng không mấy ai biết đến Phật pháp là gì.
Sau khi học hỏi với ngài Hám Sơn, Chu Hải Môn thỉnh ngài viết biên sử chùa Nam Hoa ở Tào Khê cho các chúng sanh đời sau rõ (Biên sử chùa Nam Hoa ở Tào Khê nói rõ về lịch sử thành lập chùa, quy chế tự viện được các vị cao tăng lập ra, tên những vị pháp sư tới trú ngụ tại chùa tu học trước và sau ngài Lục Tổ, cùng những việc có liên hệ đến Phật pháp).
Quan học sĩ Châu Đơn Thích cũng thường dẫn các đệ tử đến thăm viếng và hỏi đạo nơi ngài Hám Sơn. Một đệ tử của ông tên là Long Sanh, khi nghe ngài Hám Sơn luận nghị, tâm rất kính phục. Trở về nhà, Long Sanh bảo bạn mình là Vương An Vũ và Phùng Xương Lịch:
- Lời thuyết pháp của vị Thiền sư từ miền Bắc xuống thật là vi diệu khôn lường. Xưa nay chưa thấy có ai làm được như thế, nên chúng ta cần đến đó học hỏi.
Nghe thế, Vương An Vũ và Phùng Xương Lịch bèn đến cầu thỉnh vấn đạo nơi ngài. Được ngài chỉ dạy pháp hướng thượng, họ tin tưởng không nghi ngờ, nên phát khởi ý chí thiết tha tham tầm tu học. Vì lúc đó số người quy y và biết đến Tam Bảo mỗi ngày một tăng, sự giáo hóa Phật pháp lan tràn khắp nơi nên các cậu học trò trẻ này đã cống hiến sức lực rất nhiều trong việc giúp ngài truyền bá Phật pháp tại đất Lĩnh Nam. Khi xưa, Thiền sư Đạt Quán có nguyện rằng sẽ tụng kinh Pháp Hoa một trăm lần để cầu chư Phật gia bị cho ngài Hám Sơn mau sớm thoát cảnh khổ tù đày, mùa hè năm đó, để đền đáp ân của Thiền sư Đạt Quán, ngài cho xây một thiền đường bên trong thành. Ngài chít khăn trong khi giảng kinh thuyết pháp giống như Thiền sư Đại Huệ thuở xưa3.
Để tụng kinh cùng giảng thuyết kinh Pháp Hoa, ngài nhóm họp những đệ tử xuất gia tại chùa Pháp Tánh dưới cội cây Bồ Đề như Thông Ngạn, Siêu Dật, Thông Quýnh, v.v... tổng cộng hơn một chục người. Khi giảng đến phẩm Hiện Bảo Tháp, ngài chợt liễu ngộ ý chỉ của Đức Phật: pháp giới Hoa Tạng đều hiện rõ trước mắt mọi người ở cõi Ta Bà4. Ba thân (Pháp thân, Hóa thân, Ứng thân) của Đức Phật mà trong kinh nói đến là những yếu tố rất cần thiết để giải thích rõ ràng yếu chỉ Phật pháp cho những người căn cơ còn thấp kém. Sau này, cổ nhân đặt ra sáu phẩm để giúp Phật pháp lưu bố khắp nơi, nhưng cũng chưa hiển thị rõ ràng ý chỉ của Phật, nên ngài viết thêm bài chú giải Pháp Hoa Cổ Tiết (bài chú giải tán thán kinh Pháp Hoa) để nói rõ về việc này.
3 Lúc xưa, dân chúng vùng Lĩnh Nam thường chít khăn đóng, nhưng tăng sĩ thì không. Thiền sư Đại Huệ và ngài Hám Sơn chít khăn trong khi thuyết pháp vì không muốn tăng đoàn bị mang tai tiếng do lỗi lầm của cá nhân mình.
4 Ta Bà thế giới (hay cõi Ta Bà, phiên âm tiếng Phạn: saha): “ta bà” có nghĩa là nhẫn; “cõi Ta Bà”: nhẫn độ, nhẫn giới, tức chỉ thế giới này, cõi đời này, là nơi mà người tu hành phải kham nhẫn, tự tại với mọi sự bất như ý mới có thể tu học.
Trong số những người đến học hỏi với ngài Hám Sơn, quan thị vệ Đinh Hữu Võ là người tánh tình nóng nảy, bộc trực, bạ đâu nói đó, nên học mãi vẫn không tiến bộ. Một hôm, sau buổi giảng, ngài Hám Sơn và ông đi ra bến tàu, ông đang nhìn cảnh người ngựa nhộn nhịp, bất chợt bị ngài véo một cái vào tay, ông chợt giật mình liễu ngộ nên quỳ xuống bái tạ. Liền đó, ngài đặt pháp danh cho ông ta là cư sĩ Giác Phi. Biết ông ta vẫn còn nhiều tập khí nên ngài viết bài kệ “Trừng tâm minh” để thức tỉnh ông trong mọi trường hợp:
“Chân tánh thậm thâm
Như nước lắng trong
Bị ái dục động
Sóng phiền não khởi
Khởi rồi không ngưng
Tự tánh vẫn đục;
Phiền não vô minh
Lại tăng bất giác
Dùng ngã buộc người
Như bùn trong nước
Dùng người động mình
Như mỡ thêm lửa
Người loạn ta chân
Loạn thật ngã sanh
Nếu không sanh ngã
Kiếp hỏa thành băng
Thế nên người trí
Phải không ngã tướng
Nếu không ngã tướng
Chướng kia sao sanh
Công phu bỏ ngã
Phải nên kiên nhẫn
Tập khí vừa phát
Phải mau tỉnh giác
Nơi tỉnh tức giác
Một niệm hồi quang
Quét sạch dấu vết
Lập tức mát trong
Mát trong tịch tĩnh
Thản nhiên độc lập
Điềm đạm di thần
Vật không đối địch.”
Vì phải thay đổi để thích hợp với môi trường mới, ngài thường viết thi kệ để diễn đạt cảm tưởng của mình. Ngài phân chia sự khác biệt giữa kệ tụng trong kinh Phật và thi kệ thế nhân (tức thi kệ viết về những việc thế sự). Trong lời giới thiệu về quyển Hám Sơn Đại sư Mộng du tập, ngài bảo rằng theo truyền thống, thi kệ được viết với những ngôn từ mỹ miều, diễn đạt tình cảm dồi dào, không phải là phương tiện chân chánh để mô tả chân lý nhà Phật. Tuy nhiên, thi kệ của ngài bộc lộ tư tưởng của nhà Phật về cuộc đời vô thường, trôi nổi lang thang như giấc mộng dài. Trong các bài thuyết pháp, ngài thường dùng danh từ “cõi mộng” (mộng cảnh) để nói về sự kiện vô thường trong thế gian.
Mùa xuân năm 1599, việc khắc bản gỗ quyển Lăng Già Bút ký được hoàn tất. Một trăm bộ Lăng Già Bút ký được ấn tống và gởi đến các tự viện trong nước cho tăng sĩ tu học. Việc này chứng minh rằng dù bị hoạn nạn, gặp hoàn cảnh bất tiện nhưng không lúc nào ngài không làm Phật sự. Nhân dịp đó, ngài cũng khởi sự giảng kinh Lăng Già cho các đệ tử và dân chúng trong vùng. Sự nghiệp hoằng pháp trong thời gian bị lưu đày tại đây của ngài đã ảnh hưởng rất mạnh đến tín tâm quần chúng địa phương, và nhờ có ngài mà tình trạng Phật giáo tại miền Nam Trung Hoa đã phát triển trở lại.
Mỗi năm vào dịp lễ Trung Nguyên5, tức ngày rằm tháng Bảy âm lịch, chư tăng thường tổ chức những buổi lễ cầu siêu cho cô hồn tử sĩ, tụng đọc kinh điển và làm lễ phóng sanh. Theo truyền thống, Phật tử thường mang chim cá đến chùa để thả. Thế nhưng việc giết hại sinh vật để cúng tế tổ tiên vẫn là truyền thống xưa nay của người Trung Hoa. Tại vùng Quảng Đông, phong tục này rất thịnh hành. Nhiều chùa vẫn cho Phật tử cúng đồ mặn như thịt cá, đó là chưa kể nhiều nơi chư tăng vẫn ăn thịt, uống rượu. Để chuyển đổi tập quán xấu này, ngài cho thiết hội lễ Vu Lan Bồn để cầu siêu độ cho vong linh quá cố cùng ngạ quỷ đói khát. Trong dịp đó, ngài khai đường giảng “Hiếu thuật sao” để khuyến khích dân chúng giữ trai giới, phóng thả súc sanh hầu mong cầu siêu độ tổ tiên, và chỉ cúng đồ chay cho tổ tiên ông bà mà thôi. Ngài lại thuyết giảng rõ ràng về lý Luân hồi, luật Nhân quả rằng cha mẹ chúng sanh trong nhiều đời, nhiều kiếp, vì vô minh đọa lạc, có thể đầu thai trở lại thành súc sanh. Sát sanh có khác gì giết cha mẹ đời trước của mình. Ngài cũng nói rõ việc trong nhà có sự giết chóc sẽ lôi kéo các loài ma quỷ, cô hồn kéo đến và ảnh hưởng đến người sống như thế nào. Ngài cũng nói rõ về hiếu hạnh, sự tích đức Mục Kiền Liên xuống địa ngục thăm mẹ là bà Thanh Đề, tại sao một bậc đại thần thông như thế lại không thể cứu được mẹ thoát cảnh địa ngục mà phải nhờ chư tăng, sau những tháng an cư kiết hạ, hỗ trợ để thức động tâm thức của bà Thanh Đề. Người nghe theo lời khuyên của ngài Hám Sơn rất nhiều nên từ đó, trong những dịp tang chế, sinh nhật cha mẹ, lễ cầu tiêu tai hoạn nạn, lễ sám hối, hay lễ phóng sanh, đều được thiết đãi bằng đồ chay và động vật cũng được phóng sanh. Chẳng bao lâu, hội phóng sanh được thành lập tại rất nhiều nơi. Các hội đoàn này trợ giúp ngài rất nhiều trong việc chuyển hóa quần chúng quy y Phật pháp.
5 Lễ Trung Nguyên: là lễ Vu Lan theo cách gọi của người dân ở miền Nam Trung Quốc và Đài Loan.
Vào tháng Năm, quan Tư Mã Trần Chế Phủ đến trấn nhậm tại Hội Thành, nhưng vừa xuống xe, chưa kịp gặp mặt quan địa phương thì đã trúng gió ngã lăn ra chết. Ngài bảo môn hạ ông ta nên làm các món ăn chay để làm lễ tang chế, nên từ đó ai ai cũng biết cúng chay là rất quan trọng trong những dịp tang lễ. Cuối năm, quan quản đốc họ Nhậm tại Thiều Quang đưa ngài Hám Sơn đến Huệ Dương thăm Tây Hồ. Ngài cùng ông ta leo lên Bạch Hạc Quán, nơi Tô Đông Pha thuở xưa đã từng trú ngụ. Ngài rất khâm phục Tô Đông Pha, một đại thi hào triều Tống và là một Phật tử có kiến thức Phật pháp thâm sâu. Đối với tâm tánh và vận mạng, ngài và Tô Đông Pha rất tương hợp. Hai vị đều có biệt tài, được Thái hậu ban đặc ân, nhưng cũng bị triều đình bắt tội mà giải vào Nam. Sau khi đi Tây Hồ trở về, ngài quyết định bế quan, tu hành thiền định trong một thời gian.
Năm 1600, toàn vùng xôn xao vì sự hiện diện của quan thâu thuế triều đình. Những người này khi đi thâu thuế thường đòi hối lộ, đút lót, nếu không họ sẽ thưa bẩm về triều đình và cho người bắt tội. Mỗi khi họ đi đến đâu là nhân tâm lo âu, sợ hãi đến đó. Ngoài ra, họ còn mang theo các tay thám tử của triều đình để điều tra mọi việc và báo cáo về triều, nên ngài bảo các đệ tử phải tản mát đi nơi khác, còn ngài và Phước Thiện tiếp tục bế quan ẩn tu để tránh tai mắt triều đình.
Tỉnh Quảng Đông là vùng sản xuất được nhiều lúa gạo thơm ngon nên dân chúng vùng khác đều thích ăn lúa gạo tỉnh này. Người Phúc Kiến thường dùng tàu bè vận chuyển lúa gạo Quảng Đông đi bán tại những nơi khác khiến cho giá lúa gạo tại Quảng Đông mỗi ngày một tăng, nên người Quảng Đông trồng lúa mà lại không mua nổi gạo ăn, do đó họ rất căm hận người Phúc Kiến. Từ nhiều năm nay vẫn thường có xung đột giữa hai nhóm người này.
Năm 1600, Vương tướng quân, quan huyện Lôi Châu từ quan về hưu. Vị quan mới đến thay thế lại là người Phúc Kiến. Lúc đó, vì vô tình, Vương công tử, con trai của Vương tướng quân lại mua được mấy chiếc tàu chở hàng mới nên người địa phương nghi rằng Vương tướng quân cùng vị quan huyện mới người Phúc Kiến đã câu thông với nhau để chở lúa gạo đem ra ngoài vùng để bán. Quan thâu thuế lợi dụng sự xung đột giữa hai nhóm người này để làm áp lực với quan huyện mới nên cố ý phao vu rằng ông quan này đã cấu kết với con của Vương tướng quân đem gạo Quảng Đông chở đi bán nơi khác. Dân chúng địa phương bèn tụ tập cả ngàn người, lấy gạch đá ném vào các chiếc tàu của Vương công tử khiến mấy chiếc tàu này đều hư hoại. Đã thế, quan thâu thuế lại bảo quần chúng rằng muốn cho giá gạo không tăng phải đến gây áp lực cho ông quan mới này thì mới được giải quyết thỏa đáng. Vì thế, dân chúng khắp tỉnh cầm gậy gộc đến vây và tấn công dinh quan huyện, ông quan huyện mới, vốn là quan văn, là người khiêm hòa hiền hậu không biết phải xử sự ra sao.
Lúc đó, các vị quan võ trong vùng lại dẫn binh lính đi Tuyền Châu dự lễ, không có mặt tại dinh phủ. Trong cơn hiểm nạn đó, có một người lính già nghĩ đến ngài Hám Sơn vì trong vùng ngài có ảnh hưởng đối với quần chúng rất lớn. Ông đề nghị với quan huyện nên nhờ ngài giúp cho. Quan huyện mới bèn viết một lá thư nhờ vị lính già kia đi cầu cứu ngài đến cứu nạn. Người lính già kia giả dạng thường dân, xuất thành để tìm ngài. Đến nơi, ông ta bảo:
- Thưa Đại sư, hiện nay có hàng ngàn dân chúng đang vây quanh doanh phủ. Các vị quan võ lại dẫn thủ hạ binh mã ra ngoài tỉnh, nên không cách nào điều động được. Tình hình hiện tại rất nguy kịch. Xin ngài làm ơn giúp cho.
Thấy việc xuất đầu lộ diện trong thời buổi này không thuận tiện vì các thám tử triều đình đang dọ thám quanh đó nên ngài khước từ:
- Tôi chỉ là người tầm thường thì làm sao giải được nạn đó?
Ông lính già nói:
- Nếu Đại sư không nghĩ đến tình riêng với quan huyện mới thì cũng được, nhưng còn sanh linh bá tánh trong vùng thì sao? Nếu họ tràn vào huyện đường gây xung đột lẫn nhau, cả hai bên thế nào cũng có kẻ không chết cũng bị thương. Đại sư nhẫn tâm ngồi nhìn được sao?
Vì thân phận bị tù đày, bị triều đình theo dõi nên ngài không muốn dính vào những chuyện thị phi. Nhưng vì tánh mạng của hàng ngàn người dân nên ngài không thể từ chối, đành lòng ra khỏi thất một mình đến gặp đám loạn dân để chiêu an. Thấy ngài đến, đám quần chúng ô hợp đang làm náo động vội dừng lại nghe ngài dạy bảo. Ngài nói to:
- Quý vị gây náo loạn để mong giảm giá gạo, nhưng thật ra đã vi phạm luật pháp. Bao vây dinh quan của triều đình là tự chiêu lấy tội chết. Nếu chết rồi thì việc giảm giá gạo có ích lợi gì?
Dân chúng thấy lời nói của ngài rất có lý, nên sợ hãi tự động giải tán. Dinh phủ không còn bị bao vây, cuộc sống trở lại bình thường. Các vị bô lão trong thị trấn rất mừng rỡ và cảm ơn ngài đã phân lời phải trái, tránh cho dân cảnh máu đổ thịt rơi. Tên tuổi của ngài từ đó lại càng vang xa hơn nữa, nhưng ngài dự biết thế nào các tay thám tử sẽ báo cáo về triều và từ đây về sau sẽ khó có thể tu hành an ổn được nữa.
Đang dự tiệc tại Tuyền Châu, các vị quan võ nghe tin dân chúng nổi loạn, liền kéo binh mã trở về Quảng Đông ngay lập tức. Khi về đến thị trấn thì họ thấy mọi việc yên ổn bình thường. Họ biết chính nhờ uy tín của ngài mà quần chúng mới chịu giải tán như vậy nên viết thư cảm ơn ngài, trong đó có câu: “Nếu ngài không xuống núi thì vùng này sẽ xảy ra chuyện gì? Nhưng đã xuống núi thì việc gì sẽ xảy đến với ngài?”.
Vào tháng Bảy năm đó, quan sử Chúc Tinh Tồn ở Nam Thiều mời ngài đến Tào Khê nên ngài thừa dịp này vào núi hầu Lục Tổ6.
6 Chú thích của thị giả Phước Thiện: Thầy tôi thích đến các thánh địa để tu hành chứ không thích ở nơi thị trấn náo động, nên lúc nào cũng mong có dịp đến các vùng núi non hoang dã để tĩnh tu.
Lúc đó, Đái Diệu, tân tổng đốc của Quảng Đông biết ngài có công trong việc trấn an loạn dân, nên muốn gặp mặt ngài. Ông ra lệnh cho viên quan người Phúc Kiến dẫn ngài đến cho ông gặp mặt. Lúc đến, ngài được ông tiếp đãi bữa cơm chay thân mật. Được biết ngài sẽ trở về Tào Khê, ông ta hứa rằng sẽ hết lòng hộ pháp. Nếu ngài cần chi, ông ta sẽ giúp đỡ. Việc này khiến ngài cũng được an tâm đôi phần.