Từ nhiều năm nay, Lao Sơn vốn là đạo tràng của Đạo giáo nên tín chúng trong vùng theo đạo này rất đông. Lúc ngài đến núi, dân chúng không biết gì nhiều về Phật pháp và coi thường tăng sĩ như những kẻ lười biếng, sống bám vào lòng hảo tâm của mọi người. Tuy nhiên, do đức độ tu hành khổ hạnh mà ngài Hám Sơn đã cảm hóa được nhiều người trong vùng.
Khi chùa Hải Ấn vừa xây xong, danh tiếng của ngài vang rền, tín chúng kéo đến lễ bái học hỏi rồi xin quy y rất nhiều, khiến các đạo sĩ trong vùng rất khó chịu. Họ bèn bàn nhau lập kế hãm hại ngài. Họ làm đơn thưa kiện lên quan phủ rằng ngài ngang nhiên chiếm lấy đạo quán của họ để lập chùa. Sự tranh chấp giữa Phật giáo và Đạo giáo bắt đầu.
Theo tín đồ Phật giáo thì quyền sở hữu chùa Hải Ấn và khu đất lân cận thuộc về Phật tử, vì Lao Sơn xưa kia vốn có chùa chiền Phật giáo. Tuy nhiên, trong những năm đầu nhà Nguyên, vì chùa chiền bị bỏ hoang, không có tăng sĩ trụ trì, nên các đạo sĩ kéo đến đó xâm chiếm, sửa lại thành đền miếu, và coi như đó là đất của họ. Khi thấy ngài cho xây chùa Hải Ấn, sợ sức ảnh hưởng của Phật giáo lan tỏa rộng, các đạo sĩ liền kêu ầm lên rằng núi Lao Sơn vốn thuộc quyền sở hữu của đạo sĩ mà ngày nay bị tăng sĩ đến cưỡng đoạt. Khi ấy, có một nhóm du thủ du thực khai thác gỗ rừng, muốn chiếm đoạt đất đai quanh chùa nên hợp tác với các đạo sĩ, tự đặt điều là đền miếu Đạo giáo bị tăng sĩ xâm chiếm, nên đến quan phủ kiện. Quan phủ vốn biết rõ sự kiện tranh chấp này và ghét những kẻ đặt điều gian trá, nên ra lệnh cho thuộc hạ phải điều tra sự việc rõ ràng trước công đường. Vì việc này mà ngài phải tự thân ra huyện đường để nghe xử kiện. Đến hôm xử kiện, khi ngài chuẩn bị đi đến huyện đường thì có vài trăm kẻ vô lại kéo nhau đến la lối, làm dữ trước am tranh. Khi ngài vừa bước ra khỏi am, họ liền vây quanh ngài toan hành hung. Tuy có thị giả theo hầu, nhưng ngài bảo họ tránh ra nơi khác, rồi một mình thản nhiên đi vào giữa đám đông. Tên thủ lĩnh đám này liền rút đao ra định chém ngài. Trước cái chết nằm trong đường tơ kẽ tóc mà ngài vẫn ung dung tự tại, không hề lộ vẻ sợ sệt:
- Các ngươi muốn giết người giữa ban ngày ban mặt thì làm sao che giấu cho được việc này?
Đối mặt với một tăng sĩ điềm đạm không sợ hãi, lại nghe những lời này nên gã thủ lĩnh giật mình dừng tay lại. Tuy đao đã đưa lên nhưng lại e dè không dám chém xuống. Ngài cứ thế thong thả ung dung bước đi, đám du đãng ngần ngại không dám cản đường. Gã thủ lĩnh từ từ bỏ đao xuống, rồi đi sát bên cạnh ngài, nửa muốn cản đường nhưng nửa lại sợ hãi không biết phải làm gì. Ngài đi thật chậm rãi, ung dung từng bước một và gã kia cũng ngập ngừng đi theo mặc dầu không ai nói với ai lời nào. Khi đó, dân chúng trong làng nghe nói có kẻ muốn giết ngài nên tự động bảo nhau kéo đến bảo vệ ngài. Đến ngã ba đường, ngài thấy quần chúng gậy gộc võ trang ở khắp nơi kéo đến muốn đánh gã thủ lĩnh đám du đãng kia. Ngài nghĩ: “Nếu bị quần chúng vây đánh, chắc gã này sẽ bị nguy hiểm đến tánh mạng”, ngài liền kéo gã thủ lĩnh quay về am tranh nơi ngài cư trú. Vì có ngài ngăn trở nên dân chúng không dám đánh gã kia. Về đến am tranh, ngài bảo gã vứt cây đao đi, rồi mang trái cây ra cho hắn dùng. Lúc ấy, tin đồn đạo sĩ giết tăng sĩ lan tràn khắp huyện. Quan phủ nghe thế liền điều động quân lính đi bắt nhốt đám vô lại gây hỗn loạn lại. Nhóm du đãng sợ hãi, chạy đến cầu ngài giải cứu. Ngài bèn nói:
- Các ngươi chớ sợ sệt! Hãy để ta nói chuyện với quan phủ. Khi quan phủ đến hỏi:
- Có phải bọn cuồng đồ đã làm hại chư tăng không?
Ngài bật cười nói:
- Quan phủ đừng lo, đó chỉ là việc hiểu lầm. Tôi vẫn còn sống và cùng ông thủ lĩnh đang đàm đạo tại đây.
Quan phủ ngạc nhiên hỏi:
- Vậy thì tại sao dân chúng đang đồn đại khắp nơi là có việc này?
Ngài thong thả trả lời:
- Chắc chỉ là những tin đồn nhảm thôi. Quan phủ ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo:
- Tuy Đại sư trần thuật sự tình như thế, nhưng tình thế vẫn rối loạn và dân chúng đang xôn xao, xin để tiện nhân bắt những tên du đãng này đem về huyện trừng phạt, ngõ hầu làm gương cho những kẻ không coi trọng luật pháp.
Ngài bèn ngăn lại:
- Tôi có ý kiến như sau, không biết quan phủ có đồng ý không? Thay vì nhốt họ vào tù, quan phủ hãy phân tán họ đi nơi khác. Bắt tù chỉ khiến họ thêm bất mãn và có cơ hội tụ tập làm náo loạn nữa thôi.
Quan phủ nghe thế liền đồng ý, ra lệnh cho quan quân địa phương đuổi các tên cuồng đồ ra khỏi huyện. Trong ba ngày, đám du đãng đều giải tán hết, trật tự được vãn hồi trở lại. Các đạo sĩ thấy âm mưu không thành và thấy oai thế của ngài quá mạnh, nên đành phải trở về núi.
Hôm sau, ngài Hám Sơn trở về chùa Hải Ấn, chúng đệ tử rất ngạc nhiên, hỏi han cớ sự. Họ không biết ngài dùng cách gì mà giải quyết êm xuôi được việc náo loạn này. Ngài không đáp lời, chỉ đưa quyển Luận Tâm Pháp cho họ đọc và nói:
- Lúc nhỏ, thầy không thích đạo của ông Khổng Tử hay Lão Tử, nên vào núi tập tu thiền định, quán tâm nhiếp ý. Nhờ thế mà trực nhận được ba cõi đều do tâm tạo, muôn pháp đều do thức biến hiện. Thức quán duy tâm, nhận biết mọi cảnh vật đều là ảnh của tâm. Tất cả âm thanh đều là âm hưởng của tâm. Ảnh tượng của các bậc thánh nhân đều là hình ảnh đoan chánh. Âm hưởng của mọi ngôn giáo đều chánh thuận. Do biết vạn pháp duy tâm sở hiện, nên nói mọi ngôn ngữ trị thế, hay tạo dựng nghề nghiệp đều hợp với chánh pháp. Biết rõ ngoài tâm không có pháp, nên pháp pháp đều là chân. Kẻ mê vì đắm chấp nên không thấy lẽ vi huyền1. Người ngộ tự tâm2 thì thấy muôn pháp đều vi diệu. Tâm và pháp đồng vi diệu, chỉ có chư thánh hiền mới nhận biết mà thôi.
1 Lẽ vi huyền: nghĩa lý thâm sâu.
2 Ngộ tự tâm: thấy được tự tánh hay thật tánh của tâm.
Nhờ đức độ và lòng can đảm, không sợ hãi mà ngài giải quyết êm xuôi sự kiện này. Từ đó tiếng đồn lại vang xa, số người đến xin học hỏi và quy y với ngài mỗi ngày mỗi đông.
Trong số đệ tử của ngài có một người tên là Hoàng Sanh Nạp, tự Tử Quang, là em của quan huyện tại vùng này. Khi ngài đến Lao Sơn được ít lâu thì Tử Quang lúc đó mười chín tuổi, đến quy y và xin làm đệ tử. Tử Quang thỉnh ngài dạy Phật pháp. Ngài liền dạy kinh Lăng Nghiêm. Trong vòng hai tháng, Tử Quang thuộc lòng bộ kinh này. Từ đó, Tử Quang phát nguyện ăn chay trường mặc dầu cha mẹ hết sức cấm đoán, sợ ăn chay sẽ mang bệnh. Tử Quang quyết chí tu hành, ngày đêm thiền tập, lưng chưa từng đặt xuống chiếu. Khi ngài Hám Sơn trở vào Nam (mang Đại Tạng kinh đến chùa Báo Ân), Tử Quang tự nghĩ: “Mình sinh nhằm vùng biên địa hoang vu, quanh đây không ai biết đến Tam Bảo. Đời người thì ngắn, Phật pháp khó tìm, trải qua bao nhiêu kiếp trong sinh tử mới may mắn gặp được. Nay đã gặp được bậc thiện tri thức, không thỉnh mà đến, thật là nhân duyên lớn vô cùng. Tuy nhiên, nếu ngài không trở về đây nữa thì mình sẽ mất nơi nương tựa”. Nghĩ thế, Tử Quang liền tự cắt da, làm tim đèn để cúng dường và cầu Bồ Tát Quán Thế Âm gia hộ cho ngài sớm trở về. Mặc dầu chỗ cắt da rất đau, nhưng Tử Quang vẫn cố chịu đựng và hằng ngày chuyên niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Ba tháng sau, vết thương lành lặn lại, nhưng trên vết thương hiện ra hình Bồ Tát Quán Thế Âm. Lông mi mặt mũi, thân hình y áo, rất giống như tượng vẽ. Sau này, khi ngài trở về Lao Sơn, Tử Quang bèn đến cầu xin xuất gia nhưng ngài không khứng chịu. Tử Quang bèn quỳ xuống thưa:
- Bạch sư phụ, con đã đổi sao Bắc Đẩu rồi, tại sao thầy lại không cho phép?
Đến khi đó, ngài mới chấp thuận cho Tử Quang thọ giới. Việc này đã chứng minh rằng ngay cả vùng biên địa nghèo nàn khổ ải, dân trí còn hoang dã, thấp kém, nhưng hạt giống Phật vẫn không ngừng đâm chồi nảy nở.
Cuối năm đó, ngài viết bài luận Quán Lão Trang ảnh hưởng cho các đệ tử tại gia. Trong bài luận này, ngài chủ trương dung hòa cả ba giáo (Phật, Nho, Đạo), vạch rõ sự dị, đồng3 và đưa ba giáo đến chỗ thống nhất. Khi đó, chánh điện chùa Hải Ấn cũng vừa được hoàn tất, Lý Thái hậu nghe tin bèn cho thợ khéo tạo một tượng Phật Tỳ Lô Giá Na4 bằng gỗ trầm hương để cúng dường cho chùa. Ngài bèn viết kinh Pháp Hoa để đền ơn Lý Thái hậu. Đến mùa thu, đệ tử của ngài là Tử Quang ngồi thiền mà thị tịch.
3 Sự dị, đồng: sự giống và khác nhau.
4 Theo kinh Hoa Nghiêm và kinh Phạm Võng, Đức Phật Tỳ Lô Giá Na là hóa thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Năm 1592, Thiền sư Đạt Quán cùng các đệ tử có dịp đến lễ bái tại hang Thạch Kinh và tháp của Thiền sư Tịnh Uyển tại vùng Phương Sơn ở gần Bắc Kinh. Thiền sư Tịnh Uyển đời Tùy (581 – 618) thấy khắp nơi loạn lạc, giặc giã đốt phá nhà cửa, chùa chiền, sợ ba kiếp nạn thủy hỏa phong hủy hoại kinh điển, nên phát nguyện khắc Đại Tạng kinh lên đá và lưu trữ trong hang Nham Đỗng sau núi Phương Sơn.
Về sau, chư tăng khắp nơi thường phát tâm đến đó khắc kinh lên đá nên dần dần người ta gọi nơi đây là hang Thạch Kinh (hang có kinh khắc trên đá).
Thiền sư Đạt Quán cũng phát nguyện đến đây khắc kinh lên đá. Một hôm, ngài vào trong hang Khải Thạch, thấy trong đó phát ra ánh sáng lạ thường nên quỳ xuống làm lễ và tìm thấy bên dưới chân tượng Phật có chôn một bảo tháp bằng vàng, ở trong chứa xá lợi của Phật đang phóng ánh sáng chói lọi. Khi xưa, sau khi Đức Phật diệt độ, khoảng hơn hai trăm năm, vua A Dục cai trị nước Ấn Độ đã phân chia xá lợi của Phật ra làm tám vạn bốn ngàn viên, sai quỷ thần mang chôn nhiều chỗ trên thế giới.
Tại Trung Hoa có khoảng mười chín nơi, theo thời gian và nhân duyên của chúng sanh mà xá lợi từ từ xuất hiện. Thấy nhân duyên tốt đẹp, Thiền sư bèn thỉnh xá lợi Phật vào chùa, cúng dường trong ba ngày liền. Sau đó, Thiền sư khởi sự quyên góp tiền cúng dường để trùng tu tháp thờ xá lợi trong hang Khải Thạch.
Lý Thái hậu nghe được tin này vội sai quan nội sử đem phẩm vật đến cúng dường xá lợi Phật và một bộ y cà sa màu tím thẫm cho Thiền sư Đạt Quán nhưng ngài từ chối:
- Bần đạo không xứng để mặc bộ y cà sa này. Ông hãy cúng dường cho những bậc cao nhân thì phước đức mới tăng trưởng.
Quan nội sử hỏi:
- Nếu ngài không chịu nhận thì có ai xứng đáng hơn? Thiền sư Đạt Quán trả lời:
- Có Đại sư Hám Sơn hiện tu ở Lao Sơn là bậc đại thiện tri thức, chỉ có ngài mới xứng đáng nhận lễ vật như thế này.
Quan nội sử về cung kể lại mọi sự cho Lý Thái hậu nên bà rất vui lòng, bèn giữ bộ y cà sa đó lại cho ngài. Lúc đó, Thiền sư Đạt Quán viết thư mời ngài Hám Sơn lên Phương Sơn chiêm bái xá lợi. Nhận được thư, ngài vội rời Đông Hải lên Bắc Kinh ngay. Khi ngài đến, Thiền sư Đạt Quán rất vui mừng yêu cầu ngài viết lại những điều ngài chiêm nghiệm cho người đời sau biết. Vì thế, ngài cùng đi với Thiền sư Đạt Quán đến chiêm ngưỡng hang đá chứa Đại Tạng kinh và tháp thờ ngọc xá lợi. Nơi đó, ngài đã viết bài ký sự Tháp viện của Thiền sư Tịnh Uyển và Trùng Tạng Xá Lợi. Lúc đó, ngài chỉ viết sơ lược theo thứ tự thời gian để sau này trở về chùa Hải Ấn sẽ viết lại cho hoàn hảo hơn. Sau đó, cả hai ngài trở về chùa Đại Từ Thọ, đồng cư nơi vườn Tây Giao. Ngài cùng Thiền sư Đạt Quán ngồi thiền đối mặt nhau trong suốt bốn mươi ngày. Đây là cơ duyên hy hữu nhất trong đời của ngài. Ít lâu sau, Thiền sư Đạt Quán từ giã ngài Hám Sơn để đi Lô Sơn trước và hẹn sẽ cùng nhau xuôi Nam để trùng tu lại Tổ đình Tào Khê. Ngài Hám Sơn cũng định trở về Lao Sơn thu xếp, nhưng các bạn cũ đang làm quan trong triều đã yêu cầu ngài ở lại Bắc Kinh hoằng pháp trong ít lâu. Nhận thấy đây là một nhân duyên hoằng pháp tốt nên ngài trú tại chùa Đại Từ Thọ giảng kinh Pháp Hoa. Số người đến nghe kinh lên đến hàng ngàn, trong đó có rất nhiều quan lớn trong triều. Hôm đó, ngài đã giảng cho các quan nghe về sự cảm ứng như sau:
“Đức Phật đã dạy rằng tất cả nhân quả thiện ác trên thế gian đều theo nhau như bóng với hình, không sai chạy chút nào. Tuy nhiên, những kẻ không tin tưởng vào luật Nhân quả thì cho đó là lời nói ngoa. Ngoài ra, nhiều người do tin tưởng thuyết An mạng (an phận thủ thường) của Khổng Tử nên thường đổ trút tất cả cho số mạng, và chỉ lo cầu phước báo. Họ chỉ thích nghe những điều tốt lành mà bỏ ngoài tai những việc xấu xa, tai họa. Thật là những kẻ hàm hồ, ngu muội.
Thật ra, cuộc đời sanh tử chỉ như một ngày đêm. Khái niệm luân hồi trong ba thời (quá khứ, hiện tại, vị lai) giống như hôm nay và ngày trước. Ví như trong cuộc sống hằng ngày, lúc mời khách đến nhà dự tiệc, thì phải chuẩn bị đặt để thức ăn nước uống cho trang trọng, đầy đủ. Nếu có thiếu sót món chi tức là lo lắng không chu đáo. Đó là lẽ tất nhiên.
Cuộc nhân sinh, những việc thọ mạng dài ngắn (chánh báo), gia sản tài vật (y báo), sự nghiệp công danh, cùng phú quý bần tiện đều tùy thuộc vào nghiệp nhân đã trồng trong tiền kiếp. Những sự thọ dụng trong đời nay đều không phải từ bên ngoài mang đến mà hoàn toàn là do tự làm tự hưởng. Vì vậy, cổ nhân đã có câu: ‘Muốn biết nghiệp nhân đời tiền kiếp, hãy nhìn báo ứng đang thọ. Muốn biết quả báo đời vị lai, hãy xem mình đang làm những gì’. Đa số người đời ỷ vào tài năng học thức để đạt công danh phú quý mà chẳng hề biết rằng việc này khó có thể xảy ra, vì chủ yếu chính là do nhân lành đã tự trồng trong tiền kiếp kết hợp với khả năng tài trí trong hiện tại mới tạo dựng được. Do đó, nếu vui mừng hớn hở khi đạt được công danh phú quý thì rất sai lầm. Lại nữa, lúc bị người khác phá mất công danh phú quý liền khởi tâm oán hận, mà chẳng biết rằng phần phước của mình chỉ có đến thế thôi. Phần phước báo bị người khác phá thật ra chẳng phải là của mình mà chính vì thiếu nợ người đó nên mới phải trả. Vì vậy, đau khổ u sầu, oán trời trách đất, thậm chí kết thành cừu oán không xả bỏ, thì cũng là sai lầm. Do đó, nên biết rằng pháp An mạng của Khổng Tử tức là thuyết Nhân quả của Phật giáo. Nếu hiểu được lý An mạng thì sẽ chấp nhận rằng sang hèn, được mất đều tùy thuộc vào nhân xưa, vốn tự làm tự thọ. Nghèo cùng hay hiển đạt, mạng ngắn hoặc dài, đều do nhân đời tiền kiếp chủ định. Thật vậy, nếu hiểu rõ và tin tưởng quy luật Nhân quả, thì sẽ chấp nhận rằng tất cả sự thọ dụng trong hiện tại đều phát xuất từ những nghiệp nhân đã trồng vào đời tiền kiếp, chớ chẳng phải do người khác đem đến, hay nhờ tài trí mới đạt được. Dẫu có đạt được bằng tài trí, thì đó chẳng qua là phần phước đức của mình. Thế nên, sao lại khổ sở đắm chấp, lao tâm nhọc sức, lo lắng u sầu những việc được mất, thậm chí vọng tích bao oán thù! Nếu là người thông minh sáng suốt, thì phải thâm tín nhân quả báo ứng, mà không chấp trước vào những việc được thua trong hiện tại, chỉ nên căn cứ theo điều kiện hiện hữu, để trồng nhân lành vào ruộng phước cho tương lai. Ví như người nông dân, phải biết chọn đất phì nhiêu để gieo trồng giống tốt, rồi siêng năng cấy cày, thì nhất định sẽ thu hoạch được đầy ắp lúa mạ trong mùa thu. Đây là việc hiển nhiên. Có khác biệt chăng trong sự thu hoạch là do việc bỏ phân bón ít hay nhiều.
Đức Phật đã dạy: ‘Cúng dường Phật - Pháp - Tăng thì gọi là gieo nhân lành vào ruộng phước thù thắng5. Hiếu thảo với mẹ cha thì gọi là gieo nhân lành vào ruộng phước cung kính. Cứu giúp những kẻ nghèo cùng khốn khổ thì gọi là gieo nhân lành vào ruộng phước tâm thức’. Tôi hy vọng quý vị sẽ không u sầu về những sự được thua, còn mất trong quá khứ, mà chỉ lo gieo nhân lành vào ruộng phước cho tương lai. Nếu quý vị giảm bớt tiêu xài vào những việc phung phí hay vô ích, cũng như biết tiết chế chi tiêu trong việc ăn mặc, rồi dùng những phần được tiết kiệm trồng vào trong ba loại ruộng phước ở trên, thì không những đời vị lai được tăng phước đức trang nghiêm mà hiện thế thân an tâm lạc, và trở thành người có phước lành bậc nhất. Nếu thường gieo giống lành vào ba loại ruộng phước bên trên, lại còn biết lưu tâm đến Phật pháp, như biết cách niệm Phật để dẹp trừ tâm vọng tưởng, dùng từ bi để chuyển hóa sân si, dùng nhu hòa để cảm hóa cường bạo, dùng khiêm tốn để chiết phục6 ngã mạn, thì đó là hạnh của bậc Bồ Tát phát đại tâm. Nếu có tín tâm chân thật, thì mới xứng đáng được gọi là đại trượng phu dũng mãnh tối thắng.”
5 Thù thắng: vượt hơn, siêu việt, đặc biệt tốt đẹp.
6 Chiết phục: bẻ gãy, khuất phục.
Các quan nghe xong vui mừng kính phục. Từ đó, họ thường ghé lại học hỏi về Phật pháp với ngài. Nghe thế, Lý Thái hậu rất vui mừng nói với các quan trong triều nội:
- Lành thay, giáo pháp cao đẹp của Đức Thế Tôn đã được truyền bá khắp chốn kinh đô như thế này. Nếu toàn thể triều đình biết quy y Phật, toàn dân một lòng tin theo Phật, và thực hành những lời Phật dạy thì lo gì cả nước không an hưởng cảnh thái bình.
Bà bèn xin cho toàn thể hoàng gia được quy y Phật, nhận pháp danh với ngài và thỉnh ngài vào hoàng cung để bà cúng dường y cà sa bằng gấm tím cho ngài. Tuy biết lòng Lý Thái hậu rất thành khẩn nhưng ngài cũng biết rằng việc này không phải do ý muốn của Hoàng đế, nên ngài từ chối viện lý do là giới luật cấm tăng sĩ không được vào hoàng cung (chỗ ở của các cung nữ). Lý Thái hậu cho người mời ba lần nhưng ngài đều lễ phép từ chối. Tuy nhiên, ngài chấp nhận việc làm lễ quy y và ban pháp danh cho mọi người trong hoàng tộc, nhưng chỉ nhận tổ chức tại chùa Đại Từ Thọ mà thôi. Từ trước đến nay, Lý Thái hậu chỉ liên lạc với ngài qua thư từ hoặc qua các quan nội sử chứ chưa hề biết mặt ngài. Lần này thấy ngài nhất định không chịu vào cung nên bà càng cảm phục. Bà bèn sai người vẽ chân dung của ngài rồi đem vào cung cho bà xem. Khi quan nội sử mang hình của ngài vào hoàng cung cùng với pháp danh của Lý Thái hậu, bà bèn ra lệnh rằng hình của ngài phải được treo ngay trong đại sảnh tại hoàng cung. Sau đó, bà cho tổ chức một buổi lễ quy y nhận pháp danh rồi mời Hoàng đế Vạn Lịch đến dự lễ. Bà yêu cầu Hoàng đế cùng bà cúi mình đảnh lễ hình ngài để thọ nhận pháp danh. Mặc dầu hiếu thảo với mẹ nhưng dù sao Hoàng đế cũng là một vị Thiên tử, bị mẹ bắt buộc Hoàng đế đành chịu, nhưng trong thâm tâm ông không thể dằn được nỗi tức giận với ngài Hám Sơn.
Lúc đó Phật giáo rất suy vi, số tăng sĩ biết giảng kinh rất hiếm mà đa số chỉ biết lo cúng vái nên ngài nhận thấy đây quả là cơ hội hy hữu để phục hưng Phật giáo. Trong thời gian ba năm liền, ngài thường đi lại hoằng pháp tại Bắc Kinh. Số người tìm đến xin quy y và học hỏi với ngài lên đến hàng ngàn. Ngài cho mở các khóa giảng kinh thường xuyên, chư tăng kéo đến học hỏi rất nhiều nên danh tiếng của ngài mỗi ngày một vang xa. Lý Thái hậu vui mừng bèn thỉnh ngài đến ở hẳn chùa Đại Từ Thọ để giảng giới luật cho chư tăng tại đó.
Chùa Đại Từ Thọ còn được gọi là chùa Đâu Suất Sơn, là nơi triều đình xây để cầu siêu cho vua Long Khánh và cầu phước cho vua Vạn Lịch. Nói cách khác, đây là ngôi chùa riêng của triều đình dành cho vua chúa tới lễ bái mà thôi. Vì là chùa của vua nên phòng phương trượng được trang hoàng bằng những vải lụa sặc sỡ. Vật cúng dường chư Phật gồm có những món ăn, trái cây hiếm có và kỳ lạ, được mang từ khắp nơi đến. Y phục, thức ăn, pháp khí và những vật cần dùng của phương trượng được cung cấp bởi bộ Lễ. Vào ngày lễ lớn, những đồ lễ vật của vua mang đến cúng dường được quân lính mang từ bộ Lễ đến chùa, đi trên đường phố dài như một dòng suối khiến cho người xem đứng chật cả đường. Vì kính trọng ngài Hám Sơn, những phẩm vật được Lý Thái hậu và các quan trong triều cúng dường nhiều đến nỗi không thể tính đếm hết được. Tất cả trẻ em con cháu nhà vua vào chùa lễ Phật đều được tặng quà. Tiền bạc và thức ăn cúng dường được lấy từ quốc khố của triều đình. Các thùng và giỏ phước sương trong chùa đều đựng đầy tiền cúng dường. Kho chứa của chùa luôn luôn đầy ắp y phục và lúa gạo. Mỗi ngày, người trong hoàng tộc đến lễ Phật được dùng thức ăn chay tịnh nhưng thịnh soạn được nấu trong chùa. Mồng tám tháng Chạp, Lý Thái hậu cúng dường cho ngài một chiếc mũ Phật Tỳ Lô Giá Na, một bộ y cà sa bằng gấm màu tím, một đôi giày Bảo Chí, cùng vải lụa che thân7. Tuy nhiên, ngài nhất quyết từ chối, không chịu nhận những phẩm vật cúng dường này. Sau ba lần cầu thỉnh, cuối cùng ngài đành phải nhận, nhưng không bao giờ mặc những đồ đó.
7 Những tặng phẩm này thường chỉ được cúng dường đặc biệt cho các vị cao tăng hộ pháp. Chiếc mũ được gọi là mũ của Phật Tỳ Lô Giá Na, tức pháp thân của chư Phật. Đôi giày Bảo Chí là do lấy tên của Thánh tăng Bảo Chí.
Năm 1593, ngài được bốn mươi tám tuổi. Lúc đó có nạn đói xảy ra tại Sơn Đông, người chết đầy cả đường. Hoàng đế Vạn Lịch tuy biết thế nhưng vẫn mải lo xây cất thêm cung điện, tuyển thêm nhiều cung phi để vui chơi, chẳng lo cứu giúp gì cả. Một số quan triều có lòng hảo tâm quyên góp cứu trợ được chút ít nhưng khi đem ra phân phát cũng đều rơi vào túi các tham quan ô lại địa phương. Thấy vậy, ngài bèn ra lệnh lấy tất cả thức ăn, lương thực của chùa mang ra phân phát cho các dân nghèo đói khát. Tuy kho chứa đồ ăn của chùa rất nhiều nhưng vẫn không thể đủ, nên ngài đích thân đi thuyền đến Liêu Đông mua hàng trăm tạ gạo chở đến Sơn Đông để cứu đói. Nhờ thế dân chúng trong bốn xã quanh đó không có ai bị chết đói. Vì ngài đích thân đi tận nơi để cứu trợ, các tham quan ô lại không thể chấm mút gì được nên rất căm giận. Tiếng đồn về ân đức của ngài vang xa khắp nơi nhưng các quan lại tham ô trong triều lại rất khó chịu và để tâm tìm cách hãm hại ngài.
Vào tháng Ba năm 1594, quan phủ tỉnh Sơn Đông là Trịnh Côn Nhai đến núi Lao Sơn tham vấn Phật pháp. Ngài Hám Sơn thuyết lời phương tiện cho ông ta hiểu Phật pháp. Ông tỉnh ngộ, bèn xin quy y với ngài và từ đó trở thành hộ pháp giúp đỡ ngài rất nhiều.
Vào dịp lễ đông chí, ngài từ Lao Sơn vào kinh đô làm lễ cầu an chúc mừng cho Lý Thái hậu. Được biết bà đã dành dụm đủ số tiền để sửa sang chùa Báo Ân nên ngài xin bà cho khởi sự công việc trùng tu chùa ngay. Tuy nhiên, đúng vào lúc đó, Nhật Bản đã xua quân xâm lăng Cao Ly mà xứ này lại là nước được Trung Hoa bảo hộ nên triều đình phải lo mộ binh qua giải cứu. Các tham quan ô lại biết nội cung đang chuẩn bị mang tiền ra trùng tu chùa Báo Ân nên mật báo cho Hoàng đế biết. Vốn không ưa ngài Hám Sơn nên Hoàng đế Vạn Lịch ra lệnh trưng dụng số tiền tích trữ của Lý Thái hậu vào quốc khố để dùng vào việc hưng binh sang Cao Ly. Vì đây là việc quốc sự nên ngài không thể bàn tính hay phản ứng gì được, do đó việc trùng tu chùa Báo Ân lại bị đình hoãn vô hạn định và cuộc du hành lên Bắc Kinh với mục đích trùng hưng chùa Báo Ân của ngài không mang lại kết quả như ý muốn. Trong quyển Hám Sơn Lão nhân Tự sự Niên phổ, ngài đã viết rằng nếu không vì mục đích trùng tu chùa Báo Ân thì ngài sẽ chẳng đến kinh đô để chúc mừng Lý Thái hậu, và nếu không đến thăm viếng Bắc Kinh trong suốt mấy năm liền như thế thì chắc ngài đã không bị dính líu vào những chuyện tranh chấp, rắc rối xảy ra sau này.
Thật ra việc trưng dụng số tiền của Lý Thái hậu chỉ là một phần nhỏ của cuộc tranh chấp quyền hành trong triều nội mà thôi. Lúc đó, nhà vua đã củng cố quyền hành trong tay và thẳng tay diệt trừ những quan lại thuộc nhóm của Tể tướng Trương Cư Chánh. Ngoài ra, việc lập thái tử nối ngôi là việc rắc rối nhất đối với vua vì phải chọn lựa giữa Chu Thường Lạc, người được Lý Thái hậu cầu tự tại núi Ngũ Đài, và Chu Thường Tuân, con của Trịnh Quý phi, người được vua sủng ái. Do đó, sau nhiều lần tính toán ngược xuôi, mọi sự giận dữ nhà vua đều trút hết lên đầu ngài Hám Sơn vì chính ngài là người đứng ra tổ chức việc cầu tự. Theo sử nhà Minh, một hôm nọ, Lý Thái hậu đã hỏi Hoàng đế về lý do tại sao không lập Chu Thường Lạc lên ngôi Thái tử. Hoàng đế trả lời là Chu Thường Lạc chỉ là con của một cung phi. Lý Thái hậu tức giận bảo: “Thì ngươi cũng chỉ là con của một cung phi thôi chứ có khác gì!”. Hoàng đế nghe thế trong lòng rất khó chịu và về sau nhất định không chịu vào cung thăm mẹ nữa.
Lúc trước, khi Tể tướng Trương Cư Chánh còn sống, Hoàng đế không dám làm theo ý mình. Dù sao Trương Cư Chánh cũng là thầy dạy học của vua và là người được Hoàng đế Long Khánh, cha của vua, trối trăng nhiệm vụ trông nom, dạy dỗ vua. Trương Cư Chánh là một vị quan thanh liêm chính trực, đã điều khiển guồng máy quốc gia từ khi vua còn nhỏ nhưng ông cũng giáo huấn nhà vua rất nghiêm khắc không thua gì Lý Thái hậu. Ông Tể tướng này thường tỏ ra không vui khi thấy vua còn nhỏ tuổi mà đã quá ham mê tửu sắc. Ông luôn luôn than phiền việc vua tuyển quá nhiều phi tần, cung nữ, lấy công quỹ để xây dựng dinh thự cho những người này, và suốt ngày chỉ lo yến tiệc, không chịu học hành. Sau khi Tể tướng Trương Cư Chánh qua đời, Lý Thái hậu là nhân vật có thế lực nhất mà Hoàng đế phải đương đầu. Sự tranh chấp về quyền hành của một vị Hoàng đế, muốn ban phát ngôi vị đông cung Thái tử cho con của một bà phi mà ông sủng ái, thay vì cho con của bà vợ chính, đã khiến cho tình mẹ con nhà vua bị sứt mẻ rất nặng. Do đó, sau vụ cầu tự ở núi Ngũ Đài và việc bị bắt buộc phải quỳ lạy hình ngài Hám Sơn, Hoàng đế chỉ chờ cơ hội thuận tiện để bắt tội ngài mà thôi.
Sau khi Tể tướng Trương Cư Chánh qua đời, nhà vua đích thân củng cố quyền hành của mình bằng cách thay thế những quan lại thuộc nhóm Trương Cư Chánh (nhóm cựu trào, gồm các vị quan già trung thành với Lý Thái hậu) bằng những người trung thành với vua hơn (các quan trẻ, đa số được Trịnh Quý phi tiến cử vào cung) và cuộc tranh chấp giữa các phe phái trong triều bắt đầu. Nạn nhân đầu tiên của cuộc tranh giành thế lực này chính là quan nội sử thân tín của Lý Thái hậu, thường qua lại giao thiệp với ngài. Trên nguyên tắc, các quan nội sử làm việc trong cấm cung, không được tham dự vào việc triều chính bên ngoài. Nhưng Lý Thái hậu lại phái ông này mang mấy ngàn nhân công đến tu sửa chùa chiền trên Ngũ Đài cho ngài. Sau đó, chính ông này lại liên lạc với ngài để xin lập pháp hội cầu Thái tử, và sau cùng chính ông này tuân lệnh Lý Thái hậu đem Đại Tạng kinh đến Lao Sơn, Phổ Đà, Nga Mi và Lô Nha. Hiển nhiên dưới mắt các quan lại thuộc nhóm Trịnh Quý phi (phe đạo sĩ) thì ông này là người thuộc phe tăng sĩ. Do đó, họ đã ghép tội ông này đã làm những việc “không cần thiết”, gây phí tổn cho công quỹ quốc gia. Nhà vua chỉ chờ có thế, bèn ra lệnh xử chém quan nội sử để làm gương răn chúng.
Việc xử trảm quan nội sử khiến cho mâu thuẫn giữa Lý Thái hậu và Hoàng đế Vạn Lịch càng ngày càng trầm trọng. Lý Thái hậu cho triệu vua vào cung để hỏi cho ra lẽ, nhưng vua viện cớ bận lo việc nước nên không chịu vào thăm mẹ. Lý Thái hậu cho triệu các vị quan cựu trào vào cung để bà bàn việc, nhưng Hoàng đế đã ra lệnh bãi chức ngay những người này để chặt vây cánh của mẹ mình. Lợi dụng việc nhiều chức vị quan lớn tự nhiên bỏ trống, những ông quan nịnh bợ liền tìm kiếm cơ hội tâng bốc Hoàng đế để được thăng chức. Họ biết Hoàng đế không ưa gì ngài Hám Sơn nên tìm cách vu cáo cho ngài đủ mọi tội trạng.
Cảnh Nghĩa Lan vốn là một kẻ bất lương vô lại tại Sơn Đông, đã tham dự vào việc tranh chấp chùa chiền đất đai tại Lao Sơn. Chính hắn đã xúi người làm đơn kiện ngài và bảo rằng có đầy đủ bằng cứ để chứng minh chùa Hải Ấn thuộc quyền sở hữu của các đạo sĩ. Tuy nhiên, vì có sự điều tra công minh của quan phủ trong vùng nên việc vu cáo không thành. Thấy yếu thế, hắn muốn rút lui nhưng lại đòi ngài phải đút lót tiền bạc để hắn hủy bỏ chứng cớ. Biết hắn là loại người vô lại nên ngài từ chối không đưa tiền, nên hắn để tâm báo thù. Sau khi quan huyện đuổi những kẻ bất lương ra khỏi núi, hắn lang thang kiếm sống rồi trôi dạt lên kinh đô. Tại đây hắn gặp lại một số đạo sĩ quen biết từ trước đang luồn cúi cửa quan xin ân huệ, nên hắn liền thuật lại chuyện ở Lao Sơn cho những ông đại quan nịnh bợ này nghe (Vào cuối triều Minh, tham quan ô lại hoành hành rất nhiều, còn quan quân thanh liêm thì rất ít). Những ông quan nịnh bợ kia nắm ngay lấy cơ hội này, họ chỉ dẫn cho hắn cách thức vu oan giá họa ngài. Hôm sau, hắn cùng một số đạo sĩ dâng biểu nghị lên Hoàng đế tố cáo ngài đã tham lam quyên góp tiền bạc, can thiệp vào việc triều chính, xây cất chùa chiền trái phép v.v...
Trên nguyên tắc, các sớ biểu phải qua các cửa quan điều tra kỹ lưỡng trước khi đem đến trình cho vua, nhưng vì đã có âm mưu từ trước nên ngay tối hôm đó, tờ sớ đã được đem đến tay vua. Đọc qua bài sớ vu khống đó, và sẵn đã hận ngài Hám Sơn từ trước nên vua sai người bắt ngài lên kinh đô xét xử ngay.
Trong triều, những đại quan vẫn có cảm tình với ngài Hám Sơn đã vội vã can thiệp, xin vua cho điều tra sự việc cẩn thận trước khi triệu ngài lên kinh đô. Vừa nghe vậy, Hoàng đế đã nổi trận lôi đình quát tháo ầm ĩ nên không ai còn dám hở miệng để bào chữa cho ngài nữa. Nghe tin Hoàng đế ra lệnh bắt mình đem vào kinh đô để phán xử, ngài Hám Sơn điềm nhiên chuẩn bị tư tưởng, và vân tập các tín chúng đệ tử, khuyên dạy:
- Đức Phật vì muôn loài chúng sanh, không xả bỏ chúng sanh trong ba đường ác (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh) mà ra đời dạy dỗ con đường thoát khổ, giải thoát. Là con của Phật, ta cũng theo gương Ngài mà hoằng pháp lợi sanh. Ngay cả miền Lao Sơn Đông Hải, là vùng biên địa hoang vu kém phước, xưa kia dân tại đây chưa từng nghe đến danh hiệu Tam Bảo, nhưng từ ngày ta đến đây giáo hóa, hơn mười hai năm nay, ngay cả đứa bé ba tuổi cũng đã biết niệm Phật. Biết bao người đã cải tà quy chánh, hằng ngày đảnh lễ chư Phật, quyết bỏ việc ác, chỉ làm điều lành. Lời nguyện hoằng pháp của ta đã hoàn mãn nên ta chẳng chút sợ chết. Duy chỉ còn một việc đau buồn là dự định trùng tu lại chùa Báo Ân chưa hoàn thành như ý nguyện mà thôi.
Khi quan quân dẫn ngài từ chùa Hải Ấn đến thành Tức Mặc, tức cửa ngõ dẫn lên kinh đô thì dân chúng trong vùng nghe tin đã bỏ hết mọi việc kéo đến tiễn đưa. Quan thân sĩ thứ, già trẻ lớn bé, hàng ngàn người đứng đầy hai bên đường gạt lệ chia tay. Điều này chứng tỏ rằng ngài Hám Sơn đã chiếm được trọn vẹn cảm tình của dân chúng trong vùng.
Khi ngài vừa được dẫn đến Bắc Kinh, Hoàng đế ra lệnh ngầm cho quân sĩ phải tra tấn ngài thật nặng để bắt ngài cung khai tội trạng trước khi ra công đường cho phán quan chất vấn. Hoàng đế hy vọng rằng ngài sẽ nhận hết mọi tội trạng, nhưng dù bị đánh đập đau đớn suốt mấy ngày liền, ngài vẫn không cung khai gì mà chỉ một lòng niệm Phật. Tại nhà giam, ngài bị hai võ sĩ lực lưỡng thay phiên nhau đánh đập bằng gậy sắt. Phán quan nhận lệnh Hoàng đế, đã gán cho ngài tất cả tội lỗi, như tham lam tiền bạc, lấy của chùa làm của riêng, và xây cất chùa trái phép. Ông ta chất vấn ngài về việc Lý Thái hậu cúng dường vài trăm ngàn đồng vàng cho chùa. Tuy bị tra tấn cực hình nhưng ngài vẫn cố nhẫn chịu, không nói rõ hết vì sợ liên lụy đến Lý Thái hậu.
Những hình phạt vào đời Minh lúc đó rất tàn bạo, như đánh bằng côn sắt có gai nhọn, nung lửa nướng vào gan bàn tay hay bàn chân, khoét thịt rồi đổ dầu nóng lên trên khiến cho tội nhân đau đớn vô cùng, chết đi sống lại, và dù không có tội cũng phải nhận tội để được chết sớm. Trong vụ này, vì đích thân Hoàng đế đã ra lệnh nên các phán quan càng tra khảo đánh đập ngài dã man hơn. Dù đau đớn khôn cùng, ngài vẫn một lòng niệm Phật và giữ vững chánh niệm, không một chút oán hận. Sau này, trên đường bị giải vào Lĩnh Nam, trong tập thơ Tụng kinh Viên Giác, ngài đã viết về việc tra khảo này như sau:
“Cửa sắt khóa chặt khó mà mở
Xiềng xích trùng trùng thật khổ thay
Rên rỉ thương thay khách đêm dài
Chẳng biết nhân nào đưa đến đây.”
- Chúng sanh tướng
“Gậy đánh máu tuôn rất vô tình
Xúc đến thuận dạy đoạn sống chết
Chạm tới tâm can đau thấu mũi
Mới biết vương pháp thật phân minh.”
- Thọ giả tướng
Ra trước công đường, khi bị phán quan hỏi, ngài đã nói:
- Tôi là tăng sĩ, quyết giữ giới không vọng ngữ, dù chết cũng vẫn cam lòng, nhưng tiếc thay sẽ làm tổn thương đến lòng đại hiếu của Hoàng đế8.
8 Nếu như ngài từ chối hết tất cả những tội bị gán ghép thì có khác gì gián tiếp bảo rằng Hoàng đế hoàn toàn sai lầm vì không chuẩn y lệnh xây cất chùa chiền của Lý Thái hậu, tức chẳng làm tròn chữ hiếu đối với mẹ. Việc này rất cấm kỵ đối với một quốc gia mà đạo hiếu là trọng như Trung Hoa.
Phán quan ra lệnh treo ngược ngài lên cao rồi cho người lấy kìm sắt nung đỏ, xẻo từng miếng thịt ngài ra để ngài phải cung khai. Ngài vẫn nhất quyết giữ thái độ im lặng không nói gì. Sau đó, ngài trả lời:
- Nếu tôi tuân theo lời quan, dùng ý của mình mà bóp méo sự thật để phù hợp với lời khai hầu mong lợi ích cho mình, thì thật không đúng với giới hạnh của người xuất gia, là không vọng ngữ. Nếu tôi nghe theo lệnh của Hoàng đế để gia hại nền đạo đức luân lý, thì thật không hợp với tâm của người quân tử. Trăm năm sau, không biết lịch sử sẽ viết gì về việc này9?
9 Nếu như ngài nhận hết tất cả những tội bị gán ghép thì ngài đã không nói thật và như thế là trái với giới luật. Nếu ngài tuân lệnh Hoàng đế và nói sai sự thật thì trái với lẽ phải và gián tiếp gia hại nền tảng đạo lý. Tất cả Hoàng đế Trung Hoa đều muốn để lại tiếng thơm sau này, nên rất sợ việc các sử gia thanh liêm chính trực viết gì về mình.
Do đó, ngài giữ thái độ im lặng không khai báo gì dù bị cực hình khảo đả. Mãi về sau, khi vấn đề “lạm dụng ngân khoản triều đình” được đề cập đến thì ngài mới khai rằng có nhận tiền cúng dường của dân chúng là bảy trăm đồng để chi dùng cho việc tổ chức các đàn quy y, còn số tiền ba ngàn lạng vàng thuở xưa do Lý Thái hậu cúng dường cho chùa ở núi Lao Sơn thì đều được dùng vào việc cứu trợ dân chúng tỉnh Sơn Đông bị chết đói vì thiên tai hoạn nạn. Vì việc đó có thể tra xét trong sổ bộ của quốc khố nên ngài yêu cầu Hoàng đế nên thẩm tra lại số tiền được ghi lại trong sổ biên nhận của triều đình. Sau khi thẩm tra sổ bộ, kiểm tra lại biên nhận thì phán quan thấy rõ số tiền “của triều đình” này được dùng vào việc cứu trợ nạn nhân nghèo đói. Dĩ nhiên Hoàng đế không còn cách nào để bắt tội ngài nữa mà đành phải xử ngài vô tội. Tuy nhiên, nhà vua cũng không thể tha bổng cho ngài được vì sẽ bị mất mặt với triều thần và dân chúng, nên sau cùng vua đành quay ra lấy việc tranh chấp đất đai chùa chiền giữa Phật giáo và Đạo giáo tại Lao Sơn làm nguyên nhân chính. Hoàng đế phán rằng ngài đã phạm tội “tự ý xây chùa Hải Ấn mà không có giấy phép”10. Kết quả là vua ra lệnh cho phá hủy toàn bộ chùa Hải Ấn. Phần ngài là tăng sĩ phạm luật nên bị bắt phải hoàn tục, làm thường dân (cấm cạo tóc và mặc tăng bào) và bị lưu đày đi lao động vùng biên cương thuộc Lôi Châu, tức là đất Lĩnh Nam. Đây là nơi các vua Trung Hoa thường đày các tù nhân chính trị đến, vì đất này thuộc vùng lam sơn chướng khí, ít ai đến đó mà còn sống sót trở về. Việc này cũng chứng tỏ rằng triều đình luôn coi ngài như là một tù nhân chính trị đã can thiệp vào việc tranh chấp ngôi vị đông cung Thái tử giữa hai bà phi. Trong cuốn Hám Sơn Lão nhân Tự sự Niên phổ, ngài đã kể: “Ta gặp khó khăn trong công cuộc hoằng pháp vì làm khơi dậy sự tức giận của Hoàng đế. Âm thanh tức giận đó chát chúa như sấm sét. Ta nghĩ rằng nếu mẹ ta mà biết được thì chắc sẽ sợ hãi lắm. Mạng sống của ta sở dĩ còn cũng là nhờ từ ân của Hoàng đế, nên không bị giết, chỉ bị lưu đày đến Lôi Châu mà thôi”.
10 Chùa này được Lý Thái Hậu bảo trợ, ra lệnh xây chứ không phải Hoàng đế cấp giấy phép.
Tháng Ba năm đó, khi tin ngài Hám Sơn bị cầm tù loan ra, chư tăng trong nước đều hết sức xúc động. Tất cả tự viện, chùa chiền khắp nơi đều tụng kinh bái sám, cầu nguyện chư Phật, chư Bồ Tát gia hộ cho ngài. Đa số tăng sĩ đều thay phiên nhau đốt hương cúng dường, cầu nguyện cho ngài được tai qua nạn khỏi. Tại đất Ngô, công tử Phạm Khê, con của quan Đại Tư Mã An Túc Trịnh, tuy chưa từng gặp mặt ngài, nhưng vẫn cho thiết lập một buổi tiệc, mời quý khách trưởng lão trong vùng đến trợ giúp trong việc cứu ngài. Với những giọt lệ u sầu, công tử Phạm Khê nói rõ sự vô tội của ngài và viết thư xin triều đình nghĩ đến công ơn hoằng pháp lớn lao của ngài mà ân xá. Tất cả những người tham dự buổi tiệc đều chia sẻ nỗi buồn cho Phật pháp. Việc này biểu hiện sự cảm thông giữa chư tăng và nhân tâm thời bấy giờ.
Ngài bị giam trong ngục tối tám tháng liền. Trong lúc đó, chỉ có thị giả Phước Thiện là người duy nhất được mang cơm nước cho ngài. Mãi cho đến tháng Mười, triều đình mới tuyên án bắt ngài phải hoàn tục làm lao công và lưu đày vào miền Lĩnh Nam nhưng phải rời kinh đô ngay. Mặc dầu ngày đi của ngài được giữ kín, nhưng cũng có một số quan triều cùng sĩ phu ở kinh đô đã đi tống biệt ngài đến tận bờ sông. Tháng Mười Một, khi ngài được giải qua Nam Kinh, cha mẹ ngài cũng ra thăm ngài bên bờ sông. Ngài quỳ xuống chia tay từ biệt thân mẫu. Ngài hỏi mẹ:
- Khi nghe con tránh được cái chết trong lằn tơ kẽ tóc, mẹ có mừng không?
Mẹ ngài đáp:
- Mẹ đã biết chết sống là định nghiệp, thì làm sao lại lo vui hay buồn? Ngay chính mạng sống của mình còn không biết thế nào thì lo lắng có ích lợi chi? Thật ra mẹ không thể nghĩ rằng mình sẽ gặp lại được con như thế này. Nay thấy con khỏe mạnh là mẹ mừng lắm rồi.
Đến chiều tối, ngài quỳ xuống từ biệt mẹ mình lần cuối. Mẹ ngài bảo:
- Này con, hãy vì Phật pháp mà bảo trọng. Phải biết tự trọng, chớ làm điều gì trái với lương tâm.
Ngài đáp:
- Con xin vâng lời mẹ. Chỉ ngại vì mẹ tuổi tác già nua, mà con thì sống xa xôi nơi biên giới, không thể lo lắng cho mẹ được.
Mẹ ngài mỉm cười đáp:
- Con chớ quá lo lắng cho mẹ làm chi. Thật ra mẹ đã chuẩn bị hành trang từ lâu rồi. Mẹ chỉ mong muốn gặp mặt con lần cuối. Nay gặp lại con ở đây là mẹ đã mãn nguyện lắm rồi. Hiện tại cũng sắp đến lúc mẹ phải ra đi đây, nên hôm nay là ngày mà mẹ con ta vĩnh biệt. Con hãy tự bảo trọng.
Nói xong, bà vui vẻ, ung dung bỏ đi không hề quay đầu lại. Sau này, ngài có viết bài thơ “Mẫu tử” như sau:
“Tình mẹ và con
Nam châm hút sắt
Thiên nhiên huyền diệu
Bổn gốc tròn đầy
Tôi thấy mẹ mình
Như gỗ phụt lửa
Khi gỗ cháy xong
Lửa lại vô ngã
Sống không quyến luyến
Chết cũng chẳng màng
Xét thấy thân mình
Là con của đá.”
Xưa kia, ngài Hám Sơn cùng Thiền sư Đạt Quán, vì thấy sự suy đồi của Thiền tông, nhất là mạch nguồn tại Tào Khê bị mai một, nên đồng có ý phục hưng lại nơi này. Do đó, Thiền sư Đạt Quán đến Lô Sơn trước đợi ngài Hám Sơn cùng đi vào miền Nam. Lúc ở đây, nghe tin ngài bị nạn, Thiền sư Đạt Quán bảo:
- Cuộc đời của ngài Hám Sơn có thể đã chấm dứt, nhưng chí nguyện đến Tào Khê của ngài chẳng dừng.
Khi biết ngài Hám Sơn được giải qua đây, Thiền sư liền đến Hạ Quan chờ đợi. Khi gặp nhau, Thiền sư Đạt Quán tỏ ý muốn đến kinh đô dùng hết sức lực để giãi bày nỗi oan khuất cho ngài Hám Sơn, nhưng ngài ngăn lại:
- Này sư huynh, vua như cha, dân như con. Chúng ta không thể làm nghịch lời. Hơn nữa, đây là định nghiệp của đệ. Sư huynh chớ nên nhọc sức giãi bày làm chi.
Trước khi giã từ, Thiền sư Đạt Quán nói:
- Nghe sư đệ bị nạn, huynh liền phát nguyện tụng một trăm bộ kinh Pháp Hoa để cầu nguyện chư Phật gia hộ cho sư đệ. Tâm huynh tức là lưỡi của sư đệ vậy11.
11 Ngài yêu cầu Thiền sư Đạt Quán chớ giãi bày làm chi, vì thường nếu bị bắt tội oan ức thì phải dùng lưỡi mà giãi bày. Vì ngài không chống lệnh triều đình, nên tâm của Thiền sư Đạt Quán sẽ thay thế lưỡi của ngài để cầu nguyện chư Phật gia hộ cho ngài vậy.
Ngài Hám Sơn đa tạ lòng thành của Thiền sư Đạt Quán rồi từ biệt. Thiền sư Đạt Quán tặng ngài bài thơ Tống Khách Thuyết, rồi cầm tay ngài than vãn:
- Đệ mà chết đi thì đại pháp nương vào ai! Nếu đệ không sống thì ta cũng không có ngày sanh nhật.
Sau đó, Thiền sư phó chúc cho ngài Hám Sơn:
- Chắc huynh sẽ mất trước đệ. Vậy nhờ đệ hãy lo giùm việc hậu sự.
Mặc dầu ngài Hám Sơn đã khuyên can nhưng Thiền sư Đạt Quán là người trực tánh, ông nhất định trở lại kinh thành tận lực vận động tìm cách giải nỗi hàm oan cho ngài. Là người cương quyết, không hề biết sợ hãi, Thiền sư đã đi khắp các cửa quan để vận động triều đình xét lại tội trạng cho ngài. Dù biết rõ sự thật, nhưng chẳng ai dám can thiệp vì lúc đó việc tranh chấp giữa các phe phái trong triều đang diễn ra khốc liệt. Đi suốt mấy tháng không có kết quả gì nên Thiền sư Đạt Quán rất buồn, vì không hoàn thành được hai nguyện vọng là trùng hưng lại mạch nguồn Thiền tông và cùng ngài Hám Sơn soạn thảo lại bộ Truyền Đăng Lục. Thiền sư đã than với các đệ tử: “Ngài Hám Sơn không trở về, ta xuất thế vô ích. Tập Truyền Đăng Lục chưa làm xong, huệ mạng của ta thật vô tích sự. Vì thất bại hai việc này, ta sẽ không đến thành Vương Xá”. Sau đó, Thiền sư viết một bài kệ nói về tổ Khương Tăng Hội12 để mượn lời mà tán thán ngài Hám Sơn.
12 Khương Tăng Hội là một thiền sư lỗi lạc. Tổ tiên của ngài là người nước Khang Cư (hay Khương Cư, thuộc vùng Sogdia cổ xưa ở Trung Á, ứng với lãnh thổ Uzbekistan và Tajikistan ngày nay), nhưng nhiều đời sống ở Thiên Trúc (Ấn Độ). Thân phụ của ngài vì việc bán buôn mà chuyển sang sinh sống tại Giao Chỉ (tức nước Việt xưa). Năm hơn mười tuổi, sau khi song thân qua đời và thọ tang xong, ngài thế phát xuất gia, nghiêm cẩn tu hành. Ngài là người có trí tuệ vượt chúng, giỏi cả Phạn văn lẫn Hán văn; không những tinh thông Ba Tạng Phật giáo, mà còn uyên bác cả Nho học và Lão học, lại giỏi cả thiên văn, đồ vĩ, kiêm tài ăn nói, viết văn. Ngài đến Trung Hoa năm 247 và ở đó trong ba mươi ba năm cuối đời. Một trong những người được Khương Tăng Hội truyền đạo cho chính là Tôn Quyền, là người sáng lập chính quyền Đông Ngô dưới thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ngài được truyền tụng là người đầu tiên đưa dòng phái thiền vào Việt Nam, là Sư Tổ của Thiền tông Việt Nam.
Mặc dầu lúc đó Hoàng đế đã trì hoãn việc lập ngôi Thái tử cho Chu Thường Lạc và đa số những quan triều ủng hộ việc lập Chu Thường Lạc đều bị bãi chức hay bị tù đày, nhưng Hoàng đế vẫn không tìm được thêm chứng cớ gì để gán tội cho ngài Hám Sơn nên sau cùng vua đành vào cung chịu tội với mẹ. Lý Thái hậu khuyên vua phải lập Thái tử ngay để tránh nạn tranh chấp ngôi vị thường xảy ra trong lịch sử. Cuối cùng, bất đắc dĩ Hoàng đế đành phải lập Chu Thường Lạc làm Thái tử vào năm 1601, lúc đó Chu Thường Lạc vừa được hai mươi tuổi.
Để bảo vệ ngôi vị Thái tử, Lý Thái hậu tìm ngay một tiểu thư con nhà quan để làm vợ cho cháu mình, và hôn lễ của Chu Thường Lạc đã được tổ chức ngay vào dịp đó. Hơn chín triệu đồng vàng được dùng vào buổi lễ này và để bảo tồn công quỹ, Hoàng đế Vạn Lịch lại ra lệnh tăng thuế khóa tối đa, gây nhiều bất mãn trong dân chúng.
Tuy vua Vạn Lịch đã lập Chu Thường Lạc làm Thái tử nhưng sự tranh chấp ngôi vị vẫn chưa chấm dứt. Để tránh cảnh nồi da xáo thịt, anh em trong nhà tranh giành lẫn nhau, vua bèn phong cho Chu Thường Tuân chức Phúc Vương, cho giữ đất Lạc Dương, nhưng ông này từ chối đi Lạc Dương nhận đất thái ấp. Thật ra ở tại kinh đô, lợi dụng quyền thế của cha, Chu Thường Tuân đã làm giàu bằng cách cho sung công đất đai, tiếp thâu nhà cửa của nông dân quanh vùng. Mẹ của Chu Thường Tuân, tức bà Trịnh Quý phi, cũng là nhân vật lớn chỉ huy nhóm quan trông coi việc thâu thuế “khoáng vật” trong toàn quốc, gồm có việc thâu thuế hầm mỏ và cho người đào lấy vàng bạc từ những ngôi mộ cổ xưa, cùng những châu báu của người khác. Chính bà đã đưa ra chính sách đem tội nhân đày ra biển để đi mò ngọc trai cho triều đình, cũng như việc chiếm đất của dân làm ruộng, bắt họ phải đi khai thác hầm mỏ và đặc
biệt đánh thuế tối đa những thương buôn cùng các công xã khoáng chất. Vì Chu Thường Tuân không chịu đi nhận thái ấp mà vẫn ở tại kinh đô nên dư luận vẫn nghi ngờ là ông này đang âm mưu chiếm đoạt ngôi vị Thái tử của Chu Thường Lạc.
Một buổi sáng nọ, có kẻ vô danh nào đó viết bài văn Quốc Bổn Du Quan rải khắp kinh thành, nội dung trách vua Thần Tông không cương quyết, vẫn còn muốn thay đổi ngôi vị Thái tử và nghị luận việc Trịnh Quý phi dự định truất phế Chu Thường Lạc để đưa Chu Thường Tuân lên làm Thái tử. Bài văn này tuy chỉ có hơn một trăm chữ mà đã gây xáo động tình thế lúc đó nên người đời sau thường gọi là văn “yêu thư”13.
13 Chữ “yêu” ở đây có nghĩa là yêu quái.
Khi triều thần dâng bài này lên thì vua Thần Tông nổi trận lôi đình, sai quan quân và mật thám đi lùng bắt kẻ viết bài đó. Sự việc nghi kỵ phát sinh khắp kinh thành, tất cả những người lạ mặt ở kinh đô đều bị theo dõi bắt bớ. Lúc đó, Thiền sư Đạt Quán đang ở kinh đô vận động giải oan cho ngài Hám Sơn, nên các quan triều có cảm tình với ngài đã khuyên Thiền sư hãy rời kinh đô đi lánh nạn. Thầy Đạo Khai cũng viết một lá thư bằng máu, khuyên thầy mình hãy rời kinh đô càng sớm càng tốt. Cư sĩ Dương Nghĩa cũng khuyên Thiền sư “bỉ thế nhập sơn thủy diệu”, nghĩa là “xuống tóc vào núi trước là điều hay nhất”. Tuy nhiên, Thiền sư nghĩ rằng nếu tự nhiên bỏ đi thì triều đình sẽ cho mình là người viết bài “yêu thư” đó. Vả lại, dẫu chạy trốn đến đâu, nhà vua cũng có thể sai người đi tầm nã tới đó. Do đó, ngài cứ an nhiên tự tại ở lại kinh đô, và dĩ nhiên chỉ vài hôm sau bị nha môn đến bắt nhốt vào ngục. Thật ra trong lúc quan quân đi lùng xét nhà dân thì họ tìm được một lá thư của Thiền sư Đạt Quán viết cho một người bạn cũ tên là Trầm Linh Dự, trong đó Thiền sư chỉ trích việc triều đình phá chùa Hải Ấn và đày ải ngài Hám Sơn. Ngoài ra, họ còn tìm được một số thư từ khác, viết đã lâu, đề cập đến việc vua trưng dụng tiền để dành để xây chùa của mẹ mình (Lý Thái hậu) bỏ vào công khố chi dùng cho chiến tranh.
Lúc đó, vì triều đình không tìm ra manh mối kẻ nào viết bài “yêu thư” nên Thiền sư Đạt Quán trở thành đối tượng bị tình nghi chủ yếu. Đề sư Vương Chi Trình, chỉ huy cơ quan tư pháp trong triều đích thân ra phán đường vấn tội Thiền sư:
- Thầy là một vị tăng, sao không ở trong núi thẳm rừng sâu tu hành, lại đến kinh đô kết giao với các sĩ phu, tham dự vào việc công?
Thiền sư đáp:
- Ta vốn chẳng muốn ở lại kinh đô lâu, lại không ngờ sự việc xảy ra như thế này. Hôm nay bị các ông bắt vì là đối tượng tình nghi chính yếu, cũng là nghiệp báo, nên thâm tâm không có chút gì hối tiếc hết.
Đề sư Vương Chi Trình hỏi:
- Thầy nghĩ mình là ai mà dám quở trách thánh thượng trong bức “yêu thư” đó?
Thiền sư đáp:
- Bần tăng vốn là người huyện Tô Giang tỉnh Tô Châu, xuất gia từ lúc trẻ, mang ơn thánh thượng vô cùng, sao lại dám viết bài “yêu thư” đó?
Đề sư Vương Chi Trình đập bàn quát lớn:
- Thầy chớ có ngụy biện. Sự việc đã đến nước này mà còn chối cãi. Thầy tưởng triều đình không có biện pháp gì để tìm ra manh mối sự việc này hay sao?
Nói xong, Vương Chi Trình lấy ra những lá thư mà Thiền sư viết gởi cho một người bạn cũ là Trầm Linh Dự cách đó mấy năm, rồi bảo:
- Phải chăng đây là lá thư tự tay thầy viết?
Thiền sư thấy lá thư của mình viết về nhà vua từ năm xưa trong đó có một đoạn: “Lý Thái hậu muốn để dành tiền để xây chùa dựng tháp mà Hoàng thượng lại không thích, đã thế lại lấy tiền của mẹ sung vào công quỹ chiến tranh như thế, ngài có phải là người con chí hiếu không?”. Vào lúc đó, phê bình Hoàng đế là một tội rất nặng, có thể bị xử trảm, huống chi đưa ra một điều hết sức cấm kỵ như bàn về đạo hiếu của một vị vua như thế. Do câu này mà nhà vua nổi trận lôi đình, vì vua thường dùng chữ “hiếu” để trị vì thiên hạ, mà Thiền sư lại dám nói là nhà vua bất hiếu. Dù biết Thiền sư không phải là người viết bức “yêu thư”, nhưng nhà vua cũng không thể tha tội cho ông được. Vương Chi Trình lại hỏi:
- Trong thư, thầy lại dám gọi vua Mục Tông là “phu”. Tuy là người xuất gia, nhưng thầy vẫn là quần thần của triều đình, tại sao lại dám xem thường tiên hoàng như vậy?
Thiền sư đáp:
- Những lời trong thư đó, bần tăng đều căn cứ theo luân lý ngũ thường dạy người đời làm những điều tốt mà thôi.
Tuy không tìm ra đủ bằng cứ là Thiền sư Đạt Quán viết bức “yêu thư” đó, nhưng triều đình cũng không thể thả Thiền sư ra, do đó các quan bàn nhau nên nhốt ngài trong ngục tối vĩnh viễn để việc này không lọt ra bên ngoài.
Thật ra các quan triều đều có ý muốn giết Thiền sư Đạt Quán, một phần để làm gương cho những kẻ có ý chống lại phe nhóm của họ, phần khác vì họ đã không làm hại được ngài Hám Sơn nên dồn hết cơn giận dữ lên đầu Thiền sư. Biết thế, Thiền sư nói với học trò: “Thế pháp như vầy, sống lâu ở đây làm gì?”. Thiền sư viết thư cho đệ tử của mình là Lục Vân Đài, có nội dung: “Nơi ngục đây rất tối tăm. Xin ngài hãy mua giùm tôi bảy cây đèn lưu ly để tôi làm lễ, ngõ hầu đem lại ánh sáng vô tận cho mọi chúng sanh”. Lục Vân Đài liền gởi đèn đến. Hôm sau, Thiền sư thắp đèn lên và thuyết kệ, phó chúc14 cho thị giả là Tánh Điền:
14 Phó chúc: dặn dò, giao phó.
- Ta ra đi đây! Cảm tạ lòng chân thành của chư hộ pháp vùng Giang Nam.
Nghe lời này, thị giả Tánh Điền òa lên khóc. Thiền sư quở:
- Ngươi đã theo ta hai mươi năm, sao đến bây giờ vẫn không nhìn thấu sự việc nữa?
Nói dứt lời, Thiền sư ngồi xếp bằng, an nhiên mà tịch. Ngài thọ được sáu mươi mốt tuổi, và được bốn mươi hạ lạp.
Sau này, có người hỏi ngài Hám Sơn rằng Thiền sư Đạt Quán là người như thế nào, ngài Hám Sơn trả lời: “Nếu là đời Chánh pháp15 thì Thiền sư Đạt Quán chính là ngài Đức Sơn của tông Lâm Tế. Nếu là đời Mạt pháp thì không có ai sánh bằng Thiền sư này”. Việc Thiền sư Đạt Quán nhập tịch trong ngục, sử liệu nhà Minh có ghi rằng “Thiền sư Đạt Quán bị tra khảo dã man trong ngục tối đến chết”.
15 Theo Phật giáo Đại thừa, Tịnh Độ tông, Phật pháp được chia thành ba thời kỳ là thời Chánh pháp, thời Tượng pháp, và thời Mạt pháp. Thời Chánh pháp (kéo dài năm trăm năm, sau khi Đức Phật đã diệt độ) chỉ giai đoạn mặc dầu Đức Phật đã diệt độ nhưng pháp nghi vẫn không thay đổi. Thời Tượng pháp chỉ giai đoạn tuy vẫn có giáo pháp, có sự hành trì, nhưng số người chứng đắc quả vị thì rất ít. Thời Mạt pháp chỉ giai đoạn các giáo lý mà Phật dạy (pháp) trở nên mai một và chỉ còn hình thức.