• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Đường mây trong cõi mộng
  3. Trang 23

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 22
  • 23
  • 24
  • More pages
  • 55
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 22
  • 23
  • 24
  • More pages
  • 55
  • Sau

Khai thị về tịnh độ

Đa số các sĩ phu trong đời cận thế đều hướng về tai miệng, phóng túng1 đàm luận ngọn ngành, cho rằng việc tham thiền là hướng thượng nên bài bác không tu theo Tịnh Độ. Cho đến những đệ tử của tôi, đa phần tập tành theo những ngôn cú2 của chư cổ đức, chỉ có miệng lưỡi lanh lợi, và luôn hướng theo danh tướng, nên Phật pháp ngày càng suy vi. Không những thực hành chẳng được gì mà lại phỉ báng kinh điển Đại thừa, tức cho rằng văn tự danh tướng3, không muốn thân cận tu học. Gặp những kẻ tri thức u mê thì làm sao tránh được những ngọn sóng cuồng! Thật rất đáng sợ! Đa số họ không hiểu thâm sâu về thừa giáo4, và không biết rõ việc độ sanh của chư Phật, vì phương tiện nên mới thuyết ra nhiều pháp môn, nhưng xoay về cội nguồn thì không hai. Thế nhân phải biết môn hạ5 của chư Tổ sư, dùng việc ngộ đạo làm tối thượng và ngộ tâm làm bổn ý6. Muốn ra khỏi sanh tử, niệm Phật chẳng phải là pháp xuất ly sanh tử hay sao? Tham thiền đa số khó ra khỏi sanh tử, mà niệm Phật thì chắc chắn sẽ xuất khỏi sanh tử7, không nghi ngờ chi. Tham thiền phải rời bỏ vọng tưởng. Niệm Phật thì chuyên giữ tại tư tưởng.

1 Phóng túng: tùy tiện, thiếu suy xét thấu đáo.

2 Ngôn cú: câu nói, phát ngôn.

3 Văn tự danh tướng: ý nói cho rằng kinh điển, giáo pháp chỉ là kinh sách, không phải thực tu để đi đến giác ngộ.

4 Thừa giáo: ý nói Tiểu thừa, Đại thừa.

5 Môn hạ: các vị đệ tử.

6 Bổn ý: tâm ý có từ trước, ý chỉ.

7 Ý nói pháp tu niệm Phật dễ vận dụng hơn tham thiền.

Chúng sanh đã lâu nhiễm sâu trong vọng tưởng, nên rất khó xa rời chúng. Nếu chuyển được vọng niệm ô uế thành vọng niệm thanh tịnh thì đó là cách dùng độc trị độc, tức là pháp hoán đổi. Tham cứu thiền rất khó ngộ, mà niệm Phật lại dễ thành. Nếu như tâm thiết tha vì sanh tử, dùng tâm tham cứu8 mà niệm Phật, thì lo gì một đời không cắt được sanh tử! Đối với pháp môn Tịnh Độ, thế nhân dùng mắt mà cân nhắc đo lường, nào biết đó là pháp môn chân thật vi diệu. Hãy xem rõ ngài Phổ Hiền, dùng pháp giới làm thân9, và tu mười đại hạnh nguyện, mà chỉ muốn quy về Tịnh Độ. Tổ sư Mã Minh truyền tâm ấn cho chư Tổ sư và dùng hàng trăm bộ kinh Đại thừa để viết bộ Luận Khởi Tín, mà cuối cùng lại quy kết về Tây Phương. Chư Tổ sư truyền đăng ở cõi Đông Độ10, tuy không nói rõ về Tịnh Độ, nhưng lúc đã ngộ tâm tức đã xuất sanh tử; các ngài nếu không quy về Tịnh Độ, thì há trở thành đoạn diệt sao!

8 Tâm tham cứu: có thể hiểu là tâm cầu đạo, mong muốn tự mình giác ngộ.

9 Dùng pháp giới làm thân: Phổ Hiền là vị Bồ Tát Đẳng giác có năng lực hiện thân khắp mười phương pháp giới, tùy mong cầu của chúng sanh mà hiện thân hóa độ.

10 Đông Độ: tên gọi khác của Trung Hoa để phân biệt với Tây Trúc (tức Ấn Độ), là cách gọi của các thiền sư Phật giáo, vì vậy Thiền tông Trung Hoa cũng được gọi là Thiền Đông Độ.

Ngài Vĩnh Minh hiểu thấu ý nghĩa của cả Đại Tạng kinh chỉ quy về nhất tâm, lại cũng quy hướng về Tịnh Độ. Vào lúc Thiền tông cực thịnh, ngài Trung Phong cũng cực lực tán dương cõi Tây Phương. Huống nữa pháp môn này do Đức Bổn Sư Thích Ca vô vấn tự thuyết11, và mười phương chư Phật đồng tán dương! Há chư Phật, chư Bồ Tát, chư đại Tổ sư lại nói những lời vọng đàm như chúng sanh, nghiệp cấu12 hiện thời sao! Tịnh Công trung niên xả ái mà xuất gia. Đầu tiên theo Đại sư Tử Bá tham thiền, và thọ yếu chỉ thiền cơ. Ngày nay, đối với pháp môn Tịnh Độ, nguyện tu mà chưa quyết chắc. Vì vậy, lão nhân bảo rằng việc này không cần phải hỏi người khác, chỉ xem tự mình có vì việc sanh tử hay không. Tâm phải vì sự sanh tử, như cứu lửa cháy đầu, và chí muốn giải quyết cho xong trong một đời. Ví dụ, một kẻ bệnh nặng chắc phải chết. Có người tìm được phương thuốc có thể cứu chữa. Nếu người nào dùng thang thuốc này, thì có thể cải tử hoàn sanh. Song, chỉ do người bệnh có tâm quả quyết, tin phục vào thang thuốc kia. Không cần phải tìm thang thuốc khác, mà chỉ dùng thang thuốc này, thì tức khắc xuất hạn mồ hôi, rồi bèn sống lại. Lúc ấy mới tin diệu dụng của thang thuốc này. Thế nên, phải tin chắc pháp môn này mà chuyên tâm nhất chí. Đến lúc lâm chung, bèn tự biết cõi đó. Hà tất phải hỏi người khác! Hãy cố gắng mà hành. Quyết chẳng để người khác lừa!

11 Vô vấn tự thuyết: không người thỉnh cầu mà tự thuyết giảng.

12 Nghiệp cấu: nghiệp ô nhiễm, nghiệp phiền não (ví dụ sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối).