Thiền nhân Hải Dương từ xa đến Lô Sơn, cầu thọ giới pháp, được đặt pháp danh là Thâm Ngu, rồi dâng hoa cầu pháp: “Đệ tử phát nguyện cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ. Thế nên, cùng giao kết với cả ngàn pháp lữ, đồng hội tụ một nơi, chuyên tu tịnh nghiệp. Xin nguyện từ bi, dạy bảo pháp yếu”. Lão nhân vì đó mà bảo rằng Phật thuyết pháp tu hành xuất sanh tử, phương tiện tuy có nhiều môn, mà chỉ có pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh là thẳng tắt1. Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, pháp môn viên diệu, Phổ Hiền diệu hạnh, rốt ráo chỉ quy Tịnh Độ. Mã Minh, Long Thọ2, cùng chư đại Tổ sư ở cõi này như Vĩnh Minh Diên Thọ, Trung Phong3, đều cực lực chủ trương pháp môn Tịnh Độ. Pháp môn này do Phật tự thuyết, vốn bao trùm ba căn, độ khắp bốn chúng, chẳng phải vì kẻ hạ căn mà quyền thiết.
1 Thẳng tắt: thẳng đến đích, không lòng vòng.
2 Mã Minh và Long Thọ là hai trong hai mươi tám vị Tổ sư Phật giáo Nguyên thủy từ Ấn Độ.
3 Trung Phong Minh Bổn (1263 – 1323) là một thiền sư lỗi lạc của Trung Hoa vào đời Đường.
Kinh nói: “Nếu muốn tịnh cõi Phật, thì phải thanh tịnh tự tâm”. Ngày nay, tu hành tịnh nghiệp thì phải lấy việc thanh tịnh thân tâm làm gốc. Muốn tịnh tự tâm, trước nhất là phải thanh tịnh giới căn. Vì mười việc ác của thân, miệng, ý vốn là nhân khổ của ba đường ác, nên nay phải cần trì giới, khiến cho ba nghiệp được thanh tịnh, tức tâm tự tịnh. Nếu thân không giết hại, ăn cắp, tà dâm, nói láo thì thân nghiệp thanh tịnh. Nếu miệng không nói láo, nói lưỡi hai chiều, nói lời ác độc, nói lời thêu dệt thì khẩu nghiệp thanh tịnh. Nếu ý không tham lam, sân hận, si mê, thì ý nghiệp thanh tịnh. Mười việc ác này mãi đoạn đứt, ba nghiệp trong sạch, đó là điều thiết yếu của sự tịnh tâm. Trong lúc thanh tịnh thân tâm, phải dấy khởi tâm chán khổ nơi cõi Ta Bà, mà phát nguyện vãng sanh về miền an dưỡng; lập chánh hạnh niệm Phật; tâm niệm Phật phải thiết tha vì sanh tử. Đầu tiên, ngoài đoạn ngoại duyên4. Kế đến, bên trong đề khởi nhất niệm. Dùng một câu “A Di Đà Phật” làm mạng căn5. Niệm niệm không quên, tâm tâm chẳng đoạn. Trong mười hai thời, đi đứng nằm ngồi, cử động gân cốt, xoay mình cúi ngửa, động tịnh6 đều quên. Trong mọi thời, không u mê không ngu muội, lại chẳng làm duyên khác7. Dụng tâm như thế, lâu ngày thuần thục, cho đến trong mộng, cũng không quên mất; thức ngủ như nhau, tức là công phu liên tục; dệt thành một phiến8, tức là lúc công phu được đắc lực. Nếu niệm đến nhất tâm bất loạn, thì lúc lâm chung, cảnh giới Tịnh Độ hiện ra trước mắt; tự nhiên không bị sanh tử trói giữ, bèn cảm nhận Phật A Di Đà phóng quang tiếp dẫn.
4 Đoạn ngoại duyên: cắt đứt vọng tưởng, dính chấp vào duyên cảnh bên ngoài.
5 Ý nói dùng câu “A Di Đà Phật” là cội gốc để tu hành.
6 Động tịnh: là đến đi, ý nói mọi hành động, dùng để chỉ những thứ thuộc về hình tướng hay trần cảnh bên ngoài.
7 Chẳng làm duyên khác: không tạo thêm duyên, vì theo lý nhân duyên, tạo thêm duyên tức là thêm nghiệp.
8 Niệm Phật hay tham thiền thành phiến có nghĩa là nhất tâm niệm Phật hay thiền quán cho đến cùng, với tất cả tinh thần và ý chí, không để tạp niệm hay vọng tưởng xen vào làm gián đoạn.
Đây là việc chứng nghiệm quyết định vãng sanh9. Nhất tâm chuyên niệm đó là chánh hạnh, rồi phải dùng tư lương10 quán tưởng11 để xem xét rõ. Xưa kia, Phật vì Hoàng hậu Vi Đề Hy mà thuyết ra Mười sáu phép Quán vi diệu, nên giải quyết xong một đời. Hiện nay, quán kinh vẫn còn tồn tại. Lúc kết duyên với các tịnh lữ mà đồng tham học, thì dẫu ai có chí nguyện gì, nơi mười sáu phép quán, hãy tùy duyên mà chọn một: hoặc chỉ quán Phật cùng diệu tướng của Bồ Tát, hoặc tùy ý mà quán tưởng cảnh giới cõi Tịnh Độ, giống như kinh Di Đà thuyết về liên hoa bảo địa. Nếu quán tưởng rõ ràng, tức trong mười hai thời, thì hiện tiền như sống tại cõi Tịnh Độ. Đi đứng nằm ngồi, nhắm mắt mở mắt, như tại trước mặt. Nếu quán tưởng thành tựu như thế, thì lúc lâm chung, nhất niệm bèn vãng sanh. Thế nên bảo rằng sanh tức quyết định sanh, mà đi thật chẳng phải đi12. Đây là ý chỉ vi diệu về lý duy tâm Tịnh Độ. Dụng công như thế, cùng tinh nghiêm hành trì giới hạnh, thì sáu căn cùng tâm địa được thanh tịnh13, và mãi đoạn trừ ác nghiệp phiền não. Quán niệm tương tục, thì diệu hạnh dễ dàng thành tựu. Hạt nhân chân chánh vãng sanh qua cõi Tịnh Độ không ngoài cách này. Nếu xưng niệm Phật, cầu vãng sanh Tịnh Độ, mà không trì tịnh giới, phiền não không thể đoạn trừ, tâm địa vẫn còn cấu uế, thì Phật bảo người này mãi chẳng thành tựu. Vì vậy, hỡi hành nhân14, việc thiết yếu bậc nhất là phải lấy trì giới làm căn bổn; phát nguyện làm nhân duyên phụ trợ; niệm Phật và quán tưởng làm chánh hạnh. Tu hành như thế, nếu không được vãng sanh, thì Phật sẽ đọa vọng ngữ!
9 Quyết định vãng sanh: nghĩa là quyết định sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc, để tiếp tục cầu học, tiếp tục tu để giác ngộ. Theo tông Tịnh Độ, nếu một người có trọn đủ ba món tư lương Tín, Nguyện, Hạnh (tức Tín tâm, Ý nguyện muốn sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc, và Nhất tâm chuyên niệm), người đó quyết định vãng sanh.
10 Tư lương: là vốn liếng Bồ Đề, tức hành trang không thể thiếu của người tu.
11 Quán tưởng: quán tưởng và trì danh (niệm danh hiệu Phật) là hai pháp tu trọng yếu trong pháp môn Tịnh Độ. Quán tưởng là quán chiếu, soi rọi bên trong mình hay quán chiếu một sự vật, hiện tượng để thấu rõ được chân tánh của sự vật, hiện tượng. Quán tưởng là nhất tâm ở một niệm.
12 Đi thật chẳng phải đi: vãng sanh cũng có nghĩa là giải thoát ngay trong đời sống hiện tại. Cho nên, khái niệm “sanh về cõi Tịnh Độ” nghĩa là không phải “đi”, mà là trở về bản tâm thanh tịnh, là trạng thái tịnh độ của tâm. Đó là trạng thái tâm hoàn toàn giải thoát, không còn dính chấp vào sanh, diệt nên gọi là “vãng sanh”.
13 Sáu căn thanh tịnh: tức sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) không nhiễm theo, không dính mắc sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp).
14 Hành nhân: người đi đường, ở đây có nghĩa là hành giả hay người tu hành.