Tông chỉ Thiền môn là truyền tâm ấn1 của Phật, vốn chẳng phải là việc nhỏ. Khởi đầu, Tổ Đạt Ma từ Tây Thiên sang Đông Độ, đơn độc đứng ra truyền tông chỉ, rồi dùng bốn quyển kinh Lăng Già làm tâm ấn. Tuy truyền ngoài giáo lý (giáo ngoại biệt truyền2), nhưng thật ra Thiền tông lại dùng giáo để ấn chứng, mới thấy đạo của Phật Tổ không hai. Công phu tham cứu cũng từ giáo mà ra.
1 Truyền tâm ấn: trao truyền chánh pháp.
2 “Giáo ngoại biệt truyền, Bất lập văn tự, Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật” được xem là ý chỉ của Thiền tông, do Bồ Đề Đạt Ma đề xướng. “Giáo ngoại biệt truyền” có nghĩa là truyền ngoài giáo lý, nghĩa là chân lý vốn đã nằm sẵn nơi đây, ngay trong đời sống bình thường hằng ngày, thấy nghe vốn đầy đủ tất cả, chứng nghiệm thấy đúng ở ngay đây, không phải là cái mới đặt ra, chẳng còn phải tìm đâu khác nữa.
Kinh Lăng Già thuyết: “Ngồi thiền tĩnh tọa trong núi rừng, bậc thượng trung hạ nên xem xét tự tâm vọng tưởng lưu chú”3. Đây chính là bí quyết công phu của Đức Thế Tôn. Kinh lại nói: “Ý thức kia do tự tâm mà hiện; tướng của cảnh giới tự tánh vốn là hư vọng”. Sanh tử mênh mông như biển cả. Nghiệp thức mù mờ vô tri. Những việc này quyết phải độ tận hết. Đây là lời dạy của Đức Như Lai về diệu chỉ ngộ tâm4. Kinh lại thuyết: “Từ trên chư thánh, tương chuyển truyền thọ, đều dạy rằng vọng tưởng vốn vô tánh. Đó là nơi biểu thị tâm ấn bí mật5, và là chỗ ông già mặt vàng (Đức Phật) dạy người nơi tham cứu thiết yếu6. Lại nữa, Tổ Đạt Ma dạy ngài Huệ Khả (487 – 593): “Ngoài ngưng các duyên, trong không cấp bách. Tâm như tường vách, thì mới có thể nhập đạo”. Đây là lời dạy thiết yếu đầu tiên của Tổ Đạt Ma về phương pháp tham cứu. Lúc Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn (602 – 674) tầm cầu người kế thừa, vừa nghe Lục Tổ (638 – 713) nói: “Xưa nay không một vật7”, nên bèn truyền y bát cho. Đó là tông chỉ tương truyền tâm ấn.
3 Lưu chú: lưu chuyển và hấp thụ vào.
4 Diệu chỉ ngộ tâm: ý nói đến tông chỉ “Minh tâm, kiến tánh” của Thiền tông; “diệu chỉ” là ý chỉ hay tông chỉ nhiệm mầu, “ngộ tâm” là thấy được thật tánh của tâm.
5 Đó là nơi biểu thị tâm ấn bí mật: diệu pháp chính là chỗ đó.
6 Nơi tham cứu thiết yếu: nơi để tìm kiếm nghĩa lý của đạo để giác ngộ thật sự.
7 “Không một vật” nghĩa là vắng lặng, hoàn toàn thanh tịnh, không vọng động, không chướng ngại, không trụ, không dính mắc.
Sau này, khi vào Nam (tức Tào Khê), Lục Tổ lại dạy Huệ Minh: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác8, chính khi đó, gì là bản lai diện mục của thượng tọa Minh?”. Đó là bí quyết tham cứu mà Lục Tổ dạy người trong buổi đầu. Thế mới biết rõ rằng Phật Tổ chỉ dạy người liễu ngộ tự tâm, nhận ra tự tánh, mà chưa thuyết công án hay thoại đầu.
8 Ý nói không chút vọng niệm hay vọng tưởng, dù là thiện hay bất thiện.
Sau đời Tổ Hành Tư và Tổ Hoài Nhượng9, chư Tổ sư tùy theo căn cơ mà khai thị; phần nhiều đánh vào những chỗ nghi ngờ, khiến người xoay đầu chuyển não để đến nơi ngơi nghỉ10. Nếu có những kẻ chưa khai ngộ, tùy theo thời tiết nhân duyên, các ngài giáng búa kềm11. Đến đời Tổ Hoàng Bá (776 – 856), ngài bắt đầu dạy người tham khán thoại đầu. Qua đời Thiền sư Đại Huệ (1089 – 1163), ngài lại cực lực chủ trương dạy người tham khán công án của cổ nhân. Đây là nắm mũi mà gọi là thoại đầu, vì muôn người thiết thật tỉnh ngộ.
9 Hành Tư Thiền sư (660 – 740) là môn đệ hàng đầu của Lục Tổ Huệ Năng. Ngài trụ trì chùa Tịnh Cư trên núi Thanh Nguyên ở Kiết Châu. Ngài cùng với Thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng (677 – 744) là hai môn đệ được truyền tâm ấn của Lục Tổ Huệ Năng, hai ngọn đuốc sáng của Thiền tông Trung Hoa đời nhà Đường.
10 Ý nói khai thị bằng cách “đánh” thẳng vào chỗ người cầu đạo đang vướng mắc để họ ngộ ra chân lý ngay hiện tiền, là cái thấy vốn sẵn nơi mình, không cần tìm cầu ở đâu xa.
11 Tùy theo cơ duyên lĩnh hội của mỗi người lúc đó mà vị thầy dùng thủ thuật thích hợp để người học đạo chợt tỉnh ngộ. Một vài tông phái Thiền ở Trung Hoa (chẳng hạn như tông Lâm Tế) nổi tiếng với việc dùng gậy hay tiếng quát để giáo hóa thiền sinh.
Tại sao? Chỉ vì trong ruộng thức thứ tám của các học nhân chứa đầy bao chủng tử tập khí xấu xa, mà niệm niệm đã huân tập sâu dày12, nên mãi mãi bị tương tục lưu chuyển. Vọng tưởng không thể đoạn, thì chẳng làm gì được. Cứ nắm chặt một câu thoại đầu vô vị vô nghĩa13 hầu mong xả bỏ hết nội ngoại tâm cảnh vọng tưởng. Vì xả bỏ chưa nổi nên dạy đề câu thoại đầu, như chặt dây nhợ, vung một đao lên bèn đoạn đứt hết. Dòng ý thức chảy tương tục đến đây bị cắt đứt.
Đó chính là quy tắc pháp thức ngoài ngưng muôn duyên14, trong không cấp bách, tâm như tường vách của Tổ Đạt Ma. Nếu không dùng phương pháp đó mà hạ thủ công phu, thì quyết không thể thấy được bản lai diện mục của mình. Không phải dạy quý vị tham tầm suy nghĩ nơi ngôn ngữ của công án, như bàn thảo đàm luận về nghi tình. Thiền sư Đại Huệ chuyên dạy người tham khán thoại đầu, như hạ độc thủ bằng tâm lạnh lùng15. Ngài dạy đại chúng: “Tham thiền chỉ cần yếu bỏ hư tâm16. Lấy hai chữ sanh tử dán lên trán17 như nhắc mình đang bị thiếu nợ trăm ngàn đồng. Ngày đêm ba thời, lúc ăn cơm uống trà, đi đứng nằm ngồi, cùng bè bạn đối đáp, nơi náo nhiệt chỗ tĩnh lặng, đều giữ câu thoại đầu”.
12 Theo Duy Thức học trong Phật giáo, đây là loại nhận thức không còn phê phán hay phân biệt tốt xấu. Tuy thức thứ tám là loại nhận thức đã loại bỏ được những tri giác sai lầm và chấp ngã, nhưng vẫn còn vọng tưởng, vọng niệm, vẫn cần xả bỏ để tâm hoàn toàn thanh tịnh.
13 Ý nói câu thoại đầu không cần mang ý nghĩa thâm sâu, chỉ để giữ tâm luôn quay về một niệm.
14 Ngoài ngưng muôn duyên: dứt bặt mọi vọng niệm theo duyên cảnh bên ngoài.
15 Hạ độc thủ bằng tâm lạnh lùng: kiên quyết dứt bặt mọi vọng niệm bằng nhất tâm.
16 Hư tâm: tâm hư vọng, chỉ những vọng tưởng trong tâm.
17 Hai chữ sanh tử dán lên trán: luôn xem việc tu hành đi đến giác ngộ, giải thoát là ưu tiên hàng đầu, là đại sự.
Con chó có Phật tánh không? Tổ Triệu Châu (778 – 897) đáp: “Không”. Quý vị chỉ lo xem khán thoại đầu tới lui, mãi đến lúc không còn mùi vị18, như đánh vào tường vách19. Cuối cùng, như chuột chui vào sừng trâu, bao điên đảo đều đoạn dứt. Phải lập tâm20 lâu dài cùng tự nhắc nhở tiến bước, thì tự nhiên hoa tâm khai sáng, chiếu khắp mười cõi quốc độ. Một lần ngộ bèn ngộ tận cùng triệt để. Trên đây là búa chày21 tầm thường mà lão nhân Đại Huệ hằng dùng. Ý chỉ này dạy quý vị dùng thoại đầu để cắt đứt ý căn22, hạ vọng tưởng. Nơi vọng tưởng lưu chú không hành23, phải nhìn lại bản lai diện mục của mình, chứ không phải dạy quý vị tham tầm suy nghĩ về công án, rồi cho là nghi tình, mà khởi tâm phân biệt thảo luận24.
18 Đến lúc không còn mùi vị: cho đến khi tâm hoàn toàn thanh tịnh, không còn chút vọng động.
19 Tâm như tường vách: không còn bị ngoại cảnh tác động.
20 Lập tâm: tức định tâm.
21 Búa chày: ý nói những thủ thuật, phương cách để định tâm.
22 Ý căn (thức thứ bảy): là loại nhận thức còn chấp ngã, nên còn gọi là nhiễm ô thức. Cắt đứt ý căn: đoạn trừ chấp ngã.
23 Nơi vọng tưởng lưu chú không hành: nếu vẫn còn bất cứ vọng tưởng nào ngoài chủ tâm.
24 Ý nói mục đích của tu hành là để đi đến giác ngộ, nhìn thấy được bản lai diện mục của tâm, chứ không sa đà vào việc thảo luận giáo pháp. Thảo luận về giáo pháp thì dễ sinh tri kiến, chấp trước, không khéo hạ vọng tưởng lại sinh thêm vọng tưởng.
Lại nữa, bảo rằng hoa tâm được khai sáng, tức là chẳng do từ người ngoài mà được. Đó là mỗi mỗi lời chỉ dạy của Phật Tổ răn nhắc quý vị phải tham cứu chính mình, chứ không tìm kiếm diệu ngữ của người khác. Ngày nay, tham thiền tạo công phu, người người đều bảo tham khán thoại đầu, phát khởi nghi tình, mà không biết hướng vào gốc25 để tham cứu, cứ lo tầm cầu trên thoại đầu. Cầu đến cầu lui, rồi chợt lóe ra một tia sáng, bèn bảo là đã liễu ngộ, liền thuyết kệ trình câu cú. Vì cho là rất hiếm được nên nghĩ rằng đã đắc đạo, mà không biết hoàn toàn đọa trong lưới của vọng tưởng tri kiến. Tham thiền như thế có phải là làm cho mắt của người hậu thế bị mù lòa chăng? Những kẻ thiếu niên ngày nay ngồi bồ đoàn chưa vững mà dám xưng ngộ đạo. Nói càn nói bậy, đùa giỡn với con quỷ tri kiến; xem việc tham thiền như là món đồ chơi. Khi cơ phong26 chợt vụt lên, thì tưởng rằng dùng ý kệ đó để đối đáp với cổ nhân. Đấy chỉ là từ vọng tưởng mà ra, như trong mộng chợt thấy cổ nhân. Nếu ngộ đạo quá dễ dàng như người đời nay, thì người xưa chắc đã bất tài hết rồi. Ngài Trường Khánh ngồi rách cả bảy chiếc bồ đoàn. Triệu Châu trong ba mươi năm không dụng tâm tạp loạn. Nếu dựa vào dữ kiện này, thì căn tánh của người xưa chắc rất đần độn, và chắc cũng không xứng để cầm đôi giày cỏ của người đời nay. Cứ mãi tăng thượng mạn khinh người, và chưa được mà tự bảo đã được. Thật rất đáng sợ.
25 Hướng vào gốc: quay về bên trong, tức bản tâm thanh tịnh.
26 Cơ phong: bản lĩnh có bởi năng lực và mức độ hiểu biết, ở đây ý nói tự tin rằng cơ phong đã đủ.
Thuở xưa, khi Thiền tông thịnh hành, nơi nơi đều có các bậc minh nhãn thiện tri thức. Thiên hạ đầy rẫy những kẻ tham cứu thiền cơ, cho đến nơi đây cũng còn khai phát, thì hà huống bảo rằng không có thiền. Thật ra, chỉ vì hiếm tìm được thiện tri thức. Ngày nay, nhà thiền vắng vẻ hoang tàn đã lâu. Đôi khi, có nhiều người phát tâm tham cứu, rồi may mắn gặp được thiện tri thức xem xét huyền cơ, tùy theo đương tình mà ấn chứng. Song, những học nhân còn tâm thức thô thiển, tự cho rằng đã đạt đạo. Lại nữa, họ không tin thánh giáo của Như Lai, chẳng tầm cầu đường lộ chân chánh27, chỉ u mê tu hành, tức lấy dấu ấn rẻ mạt mà cho là chân thật, nào biết tự mình lầm lạc và kéo người khác lạc theo. Có phải đáng sợ lắm không! Y cứ theo quyển Truyền Đăng Lục, có rất nhiều vị tể quan và cư sĩ đạt đạo. Song, người trong trần lao vào thời nay, giới thô không giữ28, lại xúc loạn vọng tưởng, ỷ mình thông minh. Vừa xem qua pháp tắc cơ duyên của người xưa, mỗi mỗi đều tự phụ, cho mình là bậc thượng thượng căn, rồi ganh tỵ cơ phong, cũng tự bảo là đã ngộ đạo. Kẻ mù dẫn đoàn người mù, tệ hại đến thế!
27 Đường lộ chân chánh: chỉ pháp tu chân chánh, cũng có thể hiểu là Bát Chánh đạo.
28 Giới thô không giữ: ý nói những giới luật căn bản không lo giữ gìn.
Ngày nay, lão nhân đề khởi tôn trọng nơi dụng công phu chân chánh thiết thật của Phật Tổ để cùng mọi người thương lượng29. Các bậc cao minh đạt sĩ, mỗi người hãy tự sửa mình chân chánh.
29 Thương lượng: thảo luận, đàm đạo.