Đại sư Hám Sơn, danh Đức Thanh, hiệu Trừng Ấn, là một trong bốn vị thánh tăng đã có công phục hưng và phát triển Phật giáo trong triều đại nhà Minh (ba vị kia là Thiền sư Đạt Quán, Đại sư Liên Trì và Đại sư Ngẫu Ích). Cuộc đời hành đạo đầy gian khổ của các ngài trong hoàn cảnh lúc đó đã hé mở cho chúng ta thấy được phần nào về tình trạng Trung Hoa thời nhà Minh, cũng như hoàn cảnh suy đồi của Phật giáo thời bấy giờ. Phần lớn các nhà viết sử đã ca tụng triều Minh như là một triều đại của Phật giáo vì Minh Thái Tổ1 xuất thân là một chú tiểu ở chùa Viên Giác. Sau khi lên ngôi, vua đã cho xây cất, trùng tu hàng trăm cảnh chùa, đào tạo hàng vạn tăng sĩ. Tuy nhiên, chúng ta cần đặt câu hỏi rằng Phật giáo có hưng thịnh vì có nhiều chùa hay có đông chư tăng hay không? Phật tử không thể xét vào số lượng chùa chiền hay tăng ni mà kết luận như các nhà sử học được.
1 Minh Thái Tổ (1328 – 1398): tên thật là Chu Nguyên Chương, còn gọi là Hồng Vũ Đế, là hoàng đế thuộc vương triều nhà Minh, Trung Hoa từ năm 1368 đến 1398. Ông được xem là hoàng đế lập quốc của Trung Hoa khi chinh phục Trung Hoa, buộc người Mông Cổ phải rút vào thảo nguyên Trung Á, chấm dứt nhà Nguyên và lập ra nhà Minh.
Nếu xem xét kỹ, chúng ta sẽ thấy Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương gia nhập Minh giáo2 để chống lại triều đình, nhưng khi không tranh giành được ngôi vị thủ lĩnh Minh giáo với Trần Hữu Lượng, ông đã kêu gọi sự hợp tác của Phật giáo để chống lại phe nhóm Minh giáo của Trần Hữu Lượng. Nhờ thế, ông dẹp tan nhóm này và trở thành lãnh tụ phong trào khởi nghĩa, sau đó ông lật đổ nhà Nguyên và sáng lập triều Minh.
2 Minh giáo (hay còn gọi là Mani giáo) là một tôn giáo cổ của Iran, do Mani (216 – 277), người Ba Tư sáng lập vào khoảng thế kỷ thứ ba. Mani giáo được truyền sang Trung Hoa, chính thức được Võ Tắc Thiên công nhận vào năm 694, và phát triển mạnh vào năm 806, đời Đường.
Mặc dù nhà vua nhờ Phật giáo mà dựng nghiệp nhưng ông cũng sớm thấy rõ tiềm lực hùng hậu của Phật giáo nên chỉ vài năm sau ông đã chia rẽ Phật giáo ra làm nhiều tông phái và chỉ trọng đãi các vị tăng chuyên cúng tế, cầu nguyện theo các hình thức mê tín dị đoan của Đạo giáo mà thôi. Tuy vua cho xây cất nhiều chùa chiền nhưng lại biến nơi này thành những trung tâm giáo dục, đào tạo các học giả và quan lại cho triều đình. Xét như thế, Phật giáo chẳng thể hưng thịnh như các nhà viết sử đã kết luận mà trái lại, dưới triều Minh, Phật giáo đã dần dần suy thoái thành một thứ tôn giáo đầy những mê tín với các tăng sĩ bại hoại không giữ giới luật, chẳng hiểu ý nghĩa xuất gia mà chỉ lo “hành nghề tăng sĩ”3. Sử liệu ghi nhận rằng trong những năm đầu nhà Minh, mỗi năm có hàng chục vạn người được cấp giới điệp hành nghề tăng sĩ, nhưng trong cuốn Hám Sơn Lão nhân Tự sự Niên phổ, Đại sư Hám Sơn đã nhận xét: “Đa số tăng sĩ đều ăn mặc lòe loẹt, để tóc dài, ăn thịt, uống rượu, chẳng biết giới luật, chẳng hề tụng kinh hay tham thiền mà chỉ lo quyên tiền cúng dường và làm lễ nghi cầu đảo4 như các đạo sĩ”. Hiển nhiên, nếu không có sự hoằng pháp và chấn hưng Phật giáo của Đại sư Hám Sơn, Thiền sư Đạt Quán, Đại sư Liên Trì và Đại sư Ngẫu Ích, thì không biết tình hình Phật giáo Trung Hoa sẽ còn suy đồi đến đâu?
3 Dưới triều Minh, làm tăng sĩ là một nghề chuyên môn, phải mua giấy phép hành nghề của triều đình, tăng sĩ phải thi đọc kinh cúng lễ như các đạo sĩ.
4 Cầu đảo: lễ bái xin thần linh.
Cuộc đời hoằng pháp của Đại sư Hám Sơn đã gắn liền với những biến cố chính trị cuối đời nhà Minh. Nó không chỉ đưa ra những chi tiết độc đáo về mặt sử liệu, mà còn nói rõ về thực trạng của Phật giáo lúc đó nữa. Công phu tu hành và hoằng pháp của Đại sư Hám Sơn đã được thị giả hầu cận ngài trong suốt ba mươi năm, là pháp sư Phước Thiện, ghi lại thành cuốn Hám Sơn Lão nhân Tự sự Niên phổ vào năm 1662, khoảng một năm trước khi ngài nhập tịch. Tuy nhiên, quyển này vắn tắt, không đầy đủ chi tiết nên sau đó ít lâu, hai vị thị giả khác là thầy Phước Chân và thầy Thông Quýnh đã bổ túc thêm, rồi trao cho Lưu Khởi Tướng duyệt lại lời văn thành cuốn Hám Sơn Đại sư Mộng du tập. Theo lời thị giả Phước Chân, danh từ “mộng du” được sử dụng vì Đại sư Hám Sơn thường ví cuộc đời này như là “cõi mộng” mà trong đó chúng sinh chỉ như là những cái bóng chập chờn say mê đuổi bắt những trò hư ảo như tiền tài, địa vị, danh vọng, thế lực. Thật thế, tiểu sử của Đại sư Hám Sơn đã phản ảnh rõ nét cuộc đời tu hành của một tu sĩ Phật giáo trong hoàn cảnh chính trị nhiễu nhương lúc đó và mỗi biến chuyển trong cuộc đời tu hành của ngài là một bài học quan trọng, đáng để cho chư tăng cũng như quần chúng Phật tử đời sau suy ngẫm và học hỏi.
Bản phóng tác Đường mây trong cõi mộng này được dịch từ ấn bản tiếng Anh A Buddhist Master In Dreamland của Charles Luk, là bản dịch từ cuốn Hám Sơn Đại sư Mộng du tập, và Chan Master Han Shan’s Autobiography của Lu Kuan Yu, là bản dịch từ cuốn Hám Sơn Lão nhân Tự sự Niên phổ. Chúng tôi đã tham khảo thêm về tình hình Phật giáo thời Minh qua những cuốn A Buddhist Leader in Ming China, The Life and Thought of Han Shan Te-Ch’ing của Sung Pen Hsu, The Renewal of Buddhism in China của Chu Hung và Buddhism in China, A Historical Survey của Kenneth Ch’en. Nhận thấy những bản dịch này vẫn chưa đầy đủ nên chúng tôi đã nhờ Đại đức Thích Hằng Đạt tham cứu lại nguyên bản Hám Sơn Đại sư Mộng du tập, Hám Sơn Lão nhân Tự sự Niên phổ để bổ túc thêm. Ngoài ra, để giúp quý Phật tử tìm hiểu thêm về những lời dạy bảo của ngài, Đại đức Thích Hằng Đạt còn dịch thêm những bài giảng của Đại sư Hám Sơn được ghi lại trong những tập Hám Sơn Đại sư truyện và Hám Sơn tự truyện. Những bài này được đưa vào phần thứ hai của quyển sách.
Trong việc dịch thuật một tác phẩm quan trọng như quyển sách này, chắc chắn có nhiều sai sót, kính xin các bậc cao minh chỉ giáo và thứ lỗi cho. Nếu có được chút công đức nào thì xin hồi hướng cho tất cả chúng sinh đồng thành Phật đạo.
Ngày 15 tháng 12 năm 1997
Thích Hằng Đạt
Nguyên Phong