Hơn ba mươi năm sau ngày José Martí, “Ông Tổ” của nền độc lập Cuba, hy sinh trong trận chiến chống quân Tây Ban Nha vào năm 1895, Fidel Alejandro Castro Ruz lúc ấy mới chào đời tại một nông trang ở tỉnh Oriente, cách trận địa Dos Ríos hai mươi lăm dặm. Về lịch sử thì khoảng thời gian ba thập niên thật ngắn ngủi, chỉ tương đương với quá trình cách mạng của Fidel. Song ngay từ thời thơ ấu, cuộc đời Fidel đã gắn liền với các cuộc đấu tranh và biểu tượng quá khứ của Cuba.
Martí, vị anh hùng yêu nước và nhà tư tưởng vĩ đại nhất của đảo quốc này, là một tấm gương mẫu mực đối với Fidel, và khi cùng với đội quân nổi dậy của mình đổ bộ vào bờ biển Cuba để đánh đuổi chế độ độc tài, Fidel đã hoàn thành qui tắc của Martí. Ngày 29 tháng giêng năm 1895, Martí, nhà lãnh đạo Ðảng Cách Mạng Cuba, đã phát động cuộc chiến giành độc lập quyết định từ tổng hành dinh của mình ở New York và hai tháng sau, ông vào bờ biển Oriente trên chiếc thuyền chèo để cùng du kích quân chiến đấu chống lại người Tây Ban Nha. Chỉ ít tuần sau khi về nước, ông đã hy sinh trên lưng con bạch mã. Vị anh hùng đề xướng cuộc cách mạng, một con người mảnh khảnh mang vẻ mặt sầu muộn với chòm râu dê và bộ ria cá chốt, sức khỏe lại thường xuyên sa sút, qua đời khi mới bốn mươi hai tuổi.
Vì vậy cũng rất tự nhiên khi Fidel tìm kiếm những gì có thể đã gắn bó cuộc đời mình với vị anh hùng Martí này. Ngay sau khi cách mạng thành công, ông đã thực hiện chuyến hành hương đến địa danh Playitas, bãi biển đổ quân lịch sử vào ngày 2 tháng 4 năm 1895. Chuyến hành hương này được quay thành một bộ phim tài liệu màu dài một tiếng, được trình chiếu trong rạp và trên truyền hình, cho thấy một Fidel rất ấn tượng trong bộ đồ chiến trận, đứng lẻ loi trên dải cát trắng có hình móng ngựa, cất giọng kể câu chuyện về sự hy sinh của Martí. Kế đó, ống kính máy quay phim theo chân ông đến một căn nhà đơn sơ, nghe ông hỏi chuyện nhân chứng duy nhất còn sống, một ông cụ 90 tuổi có dáng người khỏe mạnh, về tất cả những gì ông cụ còn nhớ về biến cố xúc động đó.
Có rất nhiều điểm tương đồng giữa năm 1855 và 1956 cũng như những điểm bắt nguồn về chính trị, tri thức và tình cảm giữa Fidel và Martí... Martí sau bao cố gắng lật đổ ách cai trị của Tây Ban Nha, đã kết luận rằng cuộc cách mạng ở Cuba chỉ có thể thành công bằng chiến tranh du kích mở rộng; đó cũng là kết luận của Fidel sau khi ông thất bại trong lần đột kích trại lính Moncada vào năm 1953. Martí hiểu là một khi đứng ra lãnh đạo cuộc cách mạng ông phải chấp nhận những hiểm nguy khôn lường cho bản thân. Trước ngày hy sinh Martí viết cho một người bạn: “mỗi ngày khi dâng hiến đời tôi cho tổ quốc và cho bổn phận là tôi biết mình đang đối diện với sự nguy hiểm”; còn Fidel tuyên thệ trước lúc lên đường xâm nhập Cuba rằng “chúng ta sẽ tự do hoặc chết cho tổ quốc.” Cả hai đều sớm có kinh nghiệm chính trị. Năm mười bảy tuổi Martí đã bị thực dân Tây Ban Nha cầm tù vì đã chống lại chế độ. Ông bị kết án lao động khổ sai và lưu đày. Riêng Fidel thì chưa đầy hai mươi mốt tuổi đã định hình tư tưởng nổi loạn chính trị khi đang học ở đại học Havana. Những nguyên tắc căn bản đã thúc đẩy cả hai con người này. Nhiều năm sau đó Fidel đã nhận xét: “ý thức danh dự cá nhân đều có trong hầu hết những người Tây Ban Nha.” Ðây chính là dòng máu lưu truyền trong những đứa con nổi loạn của đất nước Tây Ban Nha.
Nhà thơ bi thương này tin rằng cho dù ông có phải hy sinh thì cuộc cách mạng giải phóng cũng sẽ thắng lợi (một số nhà viết tiểu sử khẳng định rằng Martí cố tình đi tìm cái chết để tạo hào quang cho sự hy sinh của mình trong cuộc chiến giành độc lập), và ở điểm này những sự kiện diễn ra đã chứng minh là ông đã đúng. Fidel đã nhiều dịp cho thấy – đáng chú ý là sự kiện Moncada và Alegría de Pío – là ông cũng sẵn sàng chết vì chính nghĩa, nhưng phong thái thể hiện của ông chủ yếu phát xuất từ tính khí cũng như niềm tin của ông rằng các lãnh tụ cách mạng phải dẫn dắt người của mình. Những người con của đất nước Tây Ban Nha, cả Martí lẫn Fidel đều đại diện cho dòng dõi lãng mạn và bí ẩn Iberia* kết hợp với yếu tố chủ nghĩa dân tộc mạnh mẽ của Tân Thế Giới. Hơn nữa, cả hai đều hiểu vấn đề thực sự của Cuba là phải thực hiện một cuộc cách mạng xã hội sâu sắc, chứ không chỉ thay đổi hiện trạng chính trị. Martí đã biết rõ cảnh bần cùng ở nước mình và Mỹ La tinh, nên chủ trương chia đất cho dân cày (nhưng không lấy đất từ người khác và phân phối tài sản quốc gia hợp lý. Theo ông: “nước nào chỉ có một số người giàu không phải là nước giàu; nước giàu là nước trong đó mỗi người dân đều có được chút ít của cải.”
* các dân tộc sống trên bán đảo Iberia – phần đất phía Tây nam châu Âu, phân cách với các quốc gia châu Âu khác bởi dãy núi Pyrénnée, bao gồm Tây Ban Nha, Bồ ào Nha và Gibraltar (thuộc Anh) – và dân tộc Georgia thuộc khu vực Caucase)
Martí viết rằng chính phủ có bổn phận phải cung cấp cho người dân một nền giáo dục cần thiết bởi “biết đọc là biết đi.” Một trong những nhiệm vụ cách mạng lớn mà Fidel thực hiện đầu tiên sau năm 1959 là chiến dịch xóa mù chữ cấp tốc trên khắp đảo quốc. Tuy nhiên Martí chống lại việc biến đổi xã hội tận gốc rễ và ông tin vào “chủ nghĩa xã hội thận trọng” để không sa vào chủ nghĩa cực đoan.
Xuất hiện trong một bối cảnh chính trị Cuba nhiều thập niên sau đó và trong một thế giới hoàn toàn thay đổi, tính triệt để trong việc thay đổi xã hội của Fidel, việc từ chối bầu cử trực tiếp của ông – yếu tố cơ bản trong đời sống chính trị mà Martí khẩn thiết kêu đòi trong thế kỷ thứ 19 – dường như là những điểm khác nhau nổi bật nhất trong cương lĩnh chính trị về cách mạng của họ. Ðiểm khác nhau về ý thức hệ này được giải thích là bắt nguồn từ sự cấu thành tâm lý và tính cách nổi trội của họ. Martí, một nhà thơ trữ tình yêu nước, một nhà văn chính luận, tin vào một chính phủ cai trị dân sự được sự đồng lòng của người bị trị. Fidel là một nhà lãnh đạo quân sự Tây Ban Nha thuần túy, phân tích hợp lý rằng một cuộc cách mạng thực sự là điều không thể thông qua hệ thống bầu cử và sự chuyên chính là một công cụ cần thiết để thực hiện cuộc cách mạng này. Trong một bài diễn văn đọc vào giữa thập niên 1960, ông tuyên bố rằng sở dĩ Carlos Manuel de Céspedes, một địa chủ giàu có lãnh đạo cuộc khởi nghĩa yêu nước đầu tiên vào năm 1868 và José Martí không là những người theo chủ nghĩa Marx-Lenin chỉ “vì trong thời đại mà họ đang sống và trong những điều kiện lịch sử mà cuộc đấu tranh cao thượng của họ phát triển thì họ không thể nào.” Kế đó ông nói tiếp một câu và ngay lập tức câu này trở thành một khẩu hiệu chính thức: “Chúng ta ở vào lúc đó, cũng sẽ giống như họ - và họ nếu ở vào thời điểm như bây giờ, cũng sẽ giống chúng ta”. Fidel hiểu rằng nếu thiếu nền độc lập và thiếu nền tảng của Martí, không một hệ thống chính trị nào sẽ được nhân dân Cuba chấp nhận.
Dù phương tiện để đạt tới mục đích giữa Martí và Fidel có khác nhau, Fidel vẫn là người thật sự kế thừa trực tiếp tư tưởng chính trị và triết lý của Martí. Ðó là các quan điểm về thuyết cấp tiến, cải cách ruộng đất, bình đẳng sắc tộc và công bằng xã hội. Fidel và Martí cùng chung nỗi lo và nghi ngại nước Mỹ cùng ý định của Mỹ đối với Cuba. Quốc gia Bắc Mỹ này đã thèm muốn sáp nhập hoặc thậm chí mua Cuba (như đã mua tiểu bang Louisiana từ người Pháp) ngay từ những ngày đầu của thế kỷ trước. Năm 1833, một lãnh sự của Mỹ ở Havana đã viết: “Khi thời gian chín mùi, Cuba, Tây Ban Nha và chúng tôi sẽ chung một ý thức, không cần phải bàn cãi, làm cách mạng hay tiến hành chiến tranh gì - chắc chắn Cuba sẽ được nhập vào nước Mỹ.”
Martí đã từng bị thực dân Tây Ban Nha lưu đày nhiều năm ở Mỹ. Ông đã rất sợ sau cuộc chiến giành độc lập, Mỹ sẽ nắm lấy đảo quốc này từ tay người Tây Ban Nha. Trong bức thư viết một ngày trước khi mất, Martí nói rằng ông chiến đấu chống lại người Tây Ban Nha, giành độc lập cho Cuba để cản trở Mỹ bành trướng lãnh thổ sang các quốc gia thuộc quần đảo Antilles ở phía nam Florida. Ông viết rằng thời gian lưu đày ở Mỹ ông đang sống “trong lòng quỷ dữ” và ông lo ngại “chủ nghĩa đế quốc kinh tế” của Mỹ khi nhận xét rằng “sự miệt thị của một quốc gia láng giềng đáng sợ không hề biết đến chúng ta là nguy cơ tồi tệ nhất đối với châu Mỹ chúng ta.”
Dĩ nhiên, Fidel Castro từ lâu đã thấm nhuần tất cả những tình cảm này trước khi trải qua những kinh nghiệm thực tế và xung đột với “nước láng giềng đáng sợ” này.
Thời đại của José Martí trùng hợp với thời gian xuất hiện thuyết Ðịnh mệnh Bành Trướng của Mỹ*. Thậm chí trước cuộc đấu tranh giành độc lập của Martí hai mươi năm, sự hiện diện kinh tế của Mỹ ở Cuba đã khá nặng nề. Thương mại giữa Cuba với Mỹ lớn hơn với Tây Ban Nha gấp sáu lần và Martí nhận ra rằng sự gần gũi tự nhiên về địa lý và kinh tế chắc chắn sẽ dẫn đảo quốc tới nguy cơ chịu sự thống trị hoàn toàn của Mỹ về chính trị.
* (nguyên lý Sô Vanh hiếu chiến, cho rằng sự bành trướng lãnh thổ của M không chỉ là không thể tránh khỏi mà còn là một sứ mệnh thiêng liêng. Câu này đầu tiên được một nhà báo kiêm nhà ngoại giao John Louis O’Sullivan sử dụng vào năm 1845 trong một bài xã luận ủng hộ việc sáp nhập bang Texas. Sau này các chính trị gia chủ trương bành trướng lãnh thổ thuộc mọi đảng phái ở M sử dụng để minh chừng cho việc sáp nhập bang California, Oregon Territory và Alaska. ến cuối thế k 19, học thuyết này lại được mang ra áp dụng cho những đề nghị thôn tính nhiều hòn đảo khác thuộc Biển Caribê và Thái Bình Dương)
José Antonio Saco, một triết gia và là một nhà yêu nước vĩ đại đầu tiên của Cuba, đã lên tiếng cảnh giới vào năm 1847 rằng Cuba: “quan trọng đến mức chỉ chiếm hữu được quốc gia này thôi cũng đã rất đáng giá cho một cuộc chiến tranh... việc chiếm hữu sẽ giúp cho uy quyền của Mỹ lớn mạnh hơn rất nhiều. Khi ấy, Anh và Pháp không những thấy rằng khả năng tồn tại các thuộc địa của họ ở châu Mỹ đang bị đe dọa mà ngay cả ảnh hưởng thế lực của họ đối với các nơi khác trên thế giới cũng trở nên suy yếu.”
Tuy Mỹ chưa bao giờ chính thức tuyên bố thôn tính Cuba, song nỗi sợ của các nhà yêu nước thuộc thế kỷ mười chín cũng là điều dễ hiểu. Năm 1898, Mỹ đã tuyên chiến với Tây Ban Nha, sau khi chiến hạm Maine của Mỹ vô cớ nổ tung ở cảng Havana. Sự kiện này thật thích hợp để tạo ra một “cái cớ gây chiến” cho một cuộc xung đột công khai với Madrid – dẫu sao trong thâm tâm Mỹ cũng đang hậm hực họ lắm rồi. Lúc Theodore Roosevelt cùng lính biệt động của ông tấn công Ðồi San Juan ở Santiago và quân Mỹ đổ bộ vào bờ biển Cuba, quân Tây Ban Nha sức tàn lực kiệt đã nhanh chóng thất trận (do suốt ba năm qua, họ đã phải vất vả chiến đấu chống lại nghĩa quân Cuba). Cuối năm đó, Mỹ và Tây Ban Nha ký hiệp định hòa bình Paris, chuyển quyền kiểm soát Cuba cho Washington. Ðồng thời, Mỹ cũng thâu tóm trong tay Puerto Rico, Philippin và đảo Guam.
Cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Cuba đã bắt đầu từ năm 1868, khi Carlos Manuel de Céspedes, một điền chủ ở Oriente có bằng tiến sĩ luật Ðại học Madrid, đọc Lời Hiệu Triệu Yara – bản tuyên ngôn tự do phát đi từ tỉnh Yara do lực lượng nổi dậy của ông chiếm được – tuyên bố phát động cuộc chiến tranh cách mạng chống lại chính quyền thực dân Tây Ban Nha “thối nát và mục ruỗng”. Một hội đồng quân sự cách mạng, và kế đó là chính quyền tỉnh được thành lập. Một hiến pháp được soạn thảo và một quốc hội được thành lập có quyền phủ quyết các quyết định của tổng thống. Nhưng lực lượng nổi dậy, dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Céspedes, lãnh tụ quốc hội Ignacio Agramonte và tư lệnh quân đội Tướng Máximo Gómez và Tướng Antonio Maceo không thể đánh đuổi được thực dân Tây Ban Nha ra khỏi đảo quốc. Nguyên nhân là vì lực lượng Cuba đã không đồng lòng với nhau trong việc lập kế hoạch và tiến hành cuộc chiến giải phóng: Céspedes cách chức vị tướng sinh trưởng ở nước Cộng hòa Dominic, Gómez, sau đó đến lượt ông bị hạ bệ và cuối cùng bị quân Tây Ban Nha giết năm 1874. Tướng Gómez được phục hồi chức vụ, và rồi lại bị cách chức. Cuộc chiến giành độc lập đầu tiên, sau mười năm, đã chấm dứt khi hai bên ký Hòa Ước Zanjón. Vị tướng da đen Maceo vẫn tiếp tục cầm súng chiến đấu thêm một năm nữa. Một thời gian ngắn sau đó, Maceo cùng với Tướng Calixto García phát động một cuộc chiến, được biết với cái tên “Cuộc Chiến Nhỏ” kéo dài suốt năm 1880, và một lần nữa phải chịu sự thất bại. Cuộc đấu tranh vì độc lập cuối cùng là của Martí và Tướng Gómez xảy ra vào năm 1895 – và Mỹ can thiệp trục xuất người Tây Ban Nha ra khỏi Tân Thế Giới vào năm 1898. Ðối với chàng sinh viên sử học Fidel Castro, những phân hóa gây ra từ các cuộc chiến tranh giành độc lập càng nhấn mạnh thêm sự cần thiết phải đoàn kết lực lượng cách mạng, tập trung sự lãnh đạo vào tay một người, và vì mục đích giải phóng Cuba thoát khỏi sự kiểm soát của người Mỹ.
Khi Cuba rõ ràng chịu sự chiếm đóng của quân Mỹ, đảo quốc này đang trong tình trạng tan hoang sau các cuộc chiến tranh kéo dài suốt ba mươi năm qua. Cuộc đấu tranh giành độc lập nghe có vẻ hão huyền khi nền kinh tế Cuba phụ thuộc toàn bộ vào quốc gia láng giềng phương bắc, thậm chí hệ thống giáo dục cũng hoàn toàn bị Mỹ hóa đến nỗi văn hóa và ngôn ngữ của đất nước bị lãng quên. Như đã xảy ra với cư dân ở Puerto Rico, Mỹ có ý định một ngày nào đó sẽ biến dân Cuba thành những người Mỹ tốt bụng. Không thể tránh khỏi là việc chiếm đóng trong bốn năm này đã thiết lập những cơ sở để biến đất nước Cuba tối thiểu cũng trở thành một đất nước trên thực tế được Mỹ bảo hộ ở khu vực Caribê trong sáu mươi năm nữa.
Ðịa vị bảo hộ này được nhào nặn ra bằng cách cưỡng bức đưa vào trong hiến pháp Cuba một điều khoản gọi là Tu Chính Án Platt. Ðây là khúc dạo đầu để xin Mỹ “ban ơn” cho Cuba được độc lập, đồng thời thông qua việc ép buộc thực thi các cuộc dàn xếp về đầu tư và giao thương cho phép Mỹ quan tâm đến việc điều hành hoàn toàn tự do Cuba. Tu Chính Án này do Nghị Sĩ Mỹ Orville H. Platt thảo ra nằm trong luật phân bố ngân sách của Quân đội Mỹ, cho tổng thống Mỹ quyền “để lại quyền cai quản” Cuba cho chính nhân dân đất nước này, với điều kiện là hiến pháp Cuba phải thừa nhận rằng “Hoa Kỳ có thể sử dụng quyền can thiệp đối với việc gìn giữ nền độc lập của Cuba, quyền duy trì một chính phủ đối với việc bảo vệ sinh mạng, tài sản và tự do cá nhân...” Nhân dân Cuba, được cho quyền chọn lựa hoặc chấp nhận Tu Chính Án Platt trong hiến pháp của họ hoặc có thể phải muôn đời chịu sự chiếm đóng của quân Mỹ, đã lao vào một cuộc tranh luận sôi nổi để rồi cuối cùng cúi đầu chấp nhận.
Ngày 20 tháng 5 năm 1902, Cuba, thuộc địa cuối cùng ở châu Mỹ tuyên bố là một quốc gia cộng hòa độc lập - một nền độc lập giả tạo như viên tổng quản cuối cùng Leonard Wood đã viết trong thư gửi tổng thống Mỹ William McKinley: “tất nhiên, chỉ có một ít hoặc không có sự độc lập nào ở Cuba dưới Tu Chính Án Platt cả.” Một năm sau, nghị sĩ Chauncey Depew tuyên bố: “Một ngày không xa nữa, Cuba sẽ giống hệt Mỹ về hiến pháp, luật pháp và các quyền tự do... sẽ có từ năm đến sáu triệu người được giáo dục về lối sống Mỹ và xứng đáng với mọi quyền công dân Mỹ. Khi đó, với đề xuất từ phía Cuba, chúng ta có thể đón mừng thêm một ngôi sao khác in trên lá cờ Mỹ quốc.”
Tuy nhiên, ngày đó đã không bao giờ đến; thay vào đó, sự bất ổn chính trị trong nước liên tục diễn ra trong thời gian Mỹ chiếm đóng quân sự lần thứ hai từ năm 1906 đến năm 1909, khi hải quân Mỹ đổ bộ vào Cuba để bảo vệ quyền lợi Mỹ và công dân Mỹ năm 1910, và một lần đổ quân khác vào năm 1917 để thuyết phục Cuba tham gia Thế Chiến Thứ Nhất. Với lý do bảo vệ tài sản người Mỹ ở Oriente trước sự bạo động và phá hoại của người lao động, hải quân Mỹ lưu lại Cuba cho đến năm 1923 – ba năm trước ngày Fidel chào đời. Suốt giai đoạn này, chính phủ Mỹ đã rất miệt thị người dân Cuba. Lúc đó cũng hơi ngạc nhiên là nền cộng hòa son trẻ lại trưởng thành trong sự mặc cảm tự ti đến tê liệt và tư tưởng chống Mỹ mà sau này thế hệ Fidel trở thành những người kế tục.
Dù Tu Chính Án Platt được tổng thống Franklin D. Roosevelt hủy bỏ vào năm 1934 theo chính sách mới “Láng giềng Tốt” đối với khu vực châu Mỹ La tinh thì thòng lọng kinh tế và chính trị của Mỹ tròng vào Cuba vẫn không biến mất cho tới cuộc cách mạng vĩ đại của Fidel. Việc lật đổ chế độ độc tài Batista năm 1959 đã cho phép Fidel và những người rậm râu của ông thực sự giành được độc lập cho Cuba - nền độc lập mà sáu mươi bốn năm trước, José Martí đã vì nó mà hy sinh và đã bị người Mỹ từ chối vào năm 1898 và năm 1902. Tuy nhiên tầm vóc lịch sử của cuộc cách mạng này vượt quá tầm hiểu biết của người Mỹ, cùng với sự nhận thức ra rằng dân tộc Cuba đã phải sống nhục nhã bấy nhiêu năm tháng trong cái mà Fidel gọi là “nền cộng hòa giả hiệu”.
Là một khu vực chăn nuôi gia súc và trồng mía rộng lớn, nông trang Manacas nằm ngay thành phố Birán, thuộc vùng Mayarí bên bờ biển bắc Oriente. Nông trang này nằm cách Vịnh Nipe hai mươi lăm dặm về hướng nam và cũng với khoảng cách gần bằng như vậy về hướng đông là Dos Ríos, nơi mà José Martí đã hy sinh trong trận phục kích của quân đội Tây Ban Nha năm 1895.
Chính tại Manacas này, Fidel Alejandro Castro Ruz đã ra đời ngày 13 tháng 8 năm 1926. Và đến tuổi chuẩn bị cắp sách đến trường, Fidel đã thuộc lòng các truyền thuyết về Martí. Ðó là một phần sinh hoạt của mọi trẻ em Cuba, nhất là ở tỉnh Oriente kiêu hãnh và đã từng nổi loạn này. Truyền thống cách mạng ở nơi Fidel ra đời một lần nữa lại được đề cao hơn khi em trai ông là Raúl Castro, lãnh đạo Ðội quân Nổi dậy từ Sierra Maestra tới Sierra Cristal ở phía đông bắc để lập Mặt Trận Thứ Hai cho du kích quân, phải hành quân ngang qua nhà họ ở Birán vào tháng 4 năm 1958. Raúl đặt nặng việc đề cập đến sự kiện này trong bản báo cáo dài gửi Fidel nói về diễn tiến các cuộc hành quân của ông trong khu vực Mayarí. Người em trai út này có lẽ là người quan tâm tới gia đình nhất trong đại gia đình nhà Fidel.
Ðứng đầu đại gia đình này là Ángel Castro Y Argiz, một di dân đến từ làng Áncara, gần tỉnh Lugo, phía tây bắc vùng Galicia của Tây Ban Nha. Khi đến Cuba, Ángel chỉ là đứa trẻ mười ba tuổi mồ côi, nghèo khổ. Sinh vào khoảng 1874, Ángel trải qua thời thơ ấu với người chú trong ngôi làng hoang vắng, nghèo nhất Galicia. Trước cuộc chiến tranh giành độc lập cuối cùng ở Cuba, Ángel mới bảy tám tuổi. Do bị đối xử ngày càng tồi tệ ở quê nhà, Ángel rời bỏ Tây Ban Nha tới ở với người chú khác đang sinh sống tại đảo quốc Caribê xa xôi. Ít nhất cũng có một lần Fidel đã kể rằng cha ông là lính Tây Ban Nha được đưa đến Cuba khi cuộc chiến giành độc lập ở đây nổ ra vào năm 1895; và sau chiến tranh ông được lệnh hồi hương, nhưng vì yêu hòn đảo này nên đã di cư đến đây dù không một xu dính túi trong những năm đầu của thế kỷ 20. Lời giải thích này mơ hồ, và có lẽ thiếu chính xác vì hai cô em gái của Fidel nhìn nhận là chưa bao giờ nghe kể về những kinh nghiệm chiến tranh của cha mình.
Ðiều đáng ngạc nhiên là Fidel Castro dường như (và cũng tự thừa nhận) là mình biết rất ít về thân thế cha mình, đây hẳn là một cách bày tỏ thẳng thắn hoặc ngấm ngầm cho thấy vai trò của cha ông không tác động nhiều đến ông. Trong cuộc phỏng vấn năm 1985 với một thầy tu dòng Dominica người Brazil, Fidel nhìn nhận: “Tôi không biết gì nhiều về những năm đầu của cha mình, vì lúc có dịp để hỏi thì tôi lại không cảm thấy tò mò như bây giờ...” Ở một nơi khác trong cuộc phỏng vấn, Fidel tự nhận xét rằng dù cha ông có tư tưởng “điền chủ”, song ông cụ vẫn là người “vô cùng đáng kính” vì ông không bao giờ từ chối giúp đỡ người khác. So với những lời dành cho mẹ nồng ấm và yêu thương thì nhận xét của ông về cha mình có vẻ gượng gạo và xa cách.
Chú của ông Ángel Castro làm chủ lò gạch ở tỉnh Santa Clara thuộc miền trung Cuba và ông Ángel được đưa vào đó làm (vì không có thời gian hoặc cơ hội được đi học). Tuy nhiên, khoảng năm năm sau, chàng trai Ángel chán lò gạch của ông chú và bỏ đi tự lập. Cậu đi về hướng đông, có lẽ phần lớn là đi bộ, và vì những lý do gì đó mà gia đình không còn nhớ nữa, cậu chọn vùng Mayarí ở Oriente để thử vận may. Hẳn cậu đã đến nơi này khi chế độ Tây Ban Nha sắp kết thúc và thời Mỹ sắp bắt đầu. Ángel không bao giờ kể nhiều về hồi trẻ. Ông cụ mất năm 1956, thọ tám mươi hai tuổi và quá khứ cụ cũng rơi vào quên lãng.
Mayarí là vùng đất màu mỡ, lý tưởng để trồng mía, thuốc lá và nuôi gia súc. Thị trấn chính cũng mang tên Mayarí, nằm bên bờ sông cùng tên. Bãi biển và các ngư dân đánh cá ở Vịnh Nipe ở cách đó chỉ bốn dặm đường. Ít lâu sau khi chàng trai trẻ Ángel Castro đến Mayarí, thị trấn im lìm với những ngôi nhà gỗ có từ thế kỷ mười chín, đã biến thành trung tâm thương mại với các hoạt động nhộn nhịp do vốn của Mỹ đổ vào. Khi cuộc chiến tranh giành độc lập nổ ra ở nhiều nơi và cuộc chiến Mỹ - Tây Ban Nha kết thúc, đất nước bị tàn phá này mở rộng cửa cho các nhà đầu tư Mỹ, được bảo đảm an toàn bởi lính Mỹ chiếm đóng. Trên khắp Cuba, số tiền đầu tư đã tăng gấp ba lần trong tám năm, từ 50 triệu Mỹ kim vào năm 1898 lên tới 160 triệu vào năm 1906, chủ yếu trong lãnh vực đất đai. Và tỉnh Oriente trù phú là nơi được các nhà tư bản Mỹ chú ý hơn cả.
Phát biểu bằng một giọng vô cùng căm phẫn về tình hình kinh tế trong thời gian gọi là “độc lập” này, Fidel Castro nhận xét trong bài diễn văn kỷ niệm vào năm 1968, một thế kỷ sau cuộc khởi nghĩa đầu tiên chống lại ách cai trị Tây Ban Nha: “người nào đó tên Preston năm 1901 đã mua 75.000 héc ta đất trong Vịnh Nipe với giá 400.000 đô la, có nghĩa là, đất này có giá chưa tới sáu đô la một héc ta.” Ông nói thêm: “các khu rừng phủ kín các loại gỗ quí đã bị đốt trụi trong các lò nấu đường, đáng giá gấp nhiều lần, rất rất nhiều lần so với tổng số tiền này... chúng đến đất nước này với những đồng đô la rủng rẻng trong túi, đất nước đã bị bần cùng hóa bởi ba mươi năm chiến tranh, để mua những mảnh đất tốt tươi nhất với giá chưa tới sáu đô la một héc ta.” Khi cách mạng ban hành lệnh quốc hữu hóa vào năm 1959, tài sản của Preston và Boston trong công ty United Fruit ở Mayarí vẫn là những bất động sản và nhà máy đường chủ yếu do nước ngoài làm chủ ở Cuba.
Năm 1926, lúc Fidel chào đời, giới tư bản Mỹ đã đầu tư vào đây hơn 1,6 tỉ đô la. Khi giá đường thế giới sụt giảm một cách khủng khiếp vào năm 1920 (sau khi giá đường tăng vọt lên gấp 10 lần vào những năm trước), lợi tức của Mỹ có thể hoặc đã trở về tình trạng rẻ rúng. Các ngân hàng nước ngoài kiểm soát 80 phần trăm sản lượng mía; các công ty Mỹ hoàn toàn chiếm lĩnh trong lãnh vực đường sắt, nhà máy điện, điện thoại và lượng tiền của dân Cuba gửi vào các ngân hàng Mỹ trên đảo tăng vọt từ 20% năm 1920 lên 69% vào năm 1921, vì hầu hết ngân hàng do người Cuba làm chủ biến mất do không thể cạnh tranh với quyền lực chính trị và nguồn tiền dồi dào của các chủ ngân hàng Mỹ.
Tổng thống Cuba năm 1926 là Gerardo Machado y Morales, một bạn hàng lớn thân Mỹ (Washington đã ép buộc ông ta phải từ chức một năm sau khi ông trở thành một nhà độc tài bạo ngược, dẫn đến việc dân Cuba nổi dậy chống lại ông ta đe dọa tình hình kinh tế ổn định ở đảo quốc này). Ông ta cũng tham nhũng thối nát như tổng thống tiền nhiệm, cai trị “nền cộng hòa giả hiệu” bằng cách câu kết với các “giai cấp giàu có” trong xã hội Cuba.
Tuy vậy, thế hệ mới ở Cuba đã bắt đầu phát triển tinh thần dân tộc chống Mỹ mới. Dân chúng Cuba không chỉ đau khổ bởi Tu Chính Án Platt và sự bá quyền kinh tế của Mỹ mà còn chứng kiến sự can thiệp quân sự của Mỹ vào Mexico và Nicaragua nữa. Ðảng Cộng Sản Cuba đã được bí mật thành lập trước khi Fidel Castro ra đời. Ðảo quốc này bắt đầu dậy sóng.
Vùng Mayarí, nơi Fidel lớn lên, có lẽ là nơi Mỹ hiện diện và kiểm soát nhiều hơn bất cứ nơi nào khác ở Cuba. Công ty United Fruit, một công ty khổng lồ đặt trụ sở ở Boston và hoạt động trong khắp khu vực châu Mỹ La tinh, có nhiều dinh cơ đặc biệt ở Mayarí dành cho các nhân viên người Mỹ (và một số ít người Cuba), bệnh viện, trường học (dạy con em của các thành phần giàu có trong ngành sản xuất đường), các cửa hàng đầy ắp hàng hóa Mỹ, bưu điện và sau này có cả hồ bơi và một câu lạc bộ Polo. Ngoài lực lượng Vệ binh Nông thôn, cảnh sát Cuba được Mỹ huấn luyện, công ty này còn được sự bảo vệ bởi chính đội cảnh sát vũ trang của nó để bảo đảm trật tự và để ngăn chặn những kẻ gây rối người Cuba.
Công ty này còn có uy quyền chính trị lớn lao ở Cuba, thậm chí còn lớn hơn các công ty và ngân hàng Mỹ khác. Việc mua đồn điền mía có diện tích khá lớn đầu tiên ở Cuba được tiến hành bởi nhà đầu tư Mỹ ở Boston tên là E. F. Atkins vào năm 1882 (nhà máy đường đầu tiên thuộc quyền sở hữu của Mỹ là năm 1818). Theo chân Atkins là công ty Boston Fruit, khởi thủy kinh doanh chuối, đến năm 1898 đổi tên thành United Fruit khi công ty bắt đầu mua được nhiều đồn điền mía khổng lồ. United Fruit và các công ty khác chi phối hoàn toàn nhiều nhà chính trị Cuba có uy tín (hoặc trả lương cho họ). Người đại diện cho công ty Ðường Cuba-Mỹ, do một dân biểu Texas thành lập vào đầu thế kỷ 20, tại đảo quốc này lại chính là Mario G. Menocal, tổng thống Cuba được Mỹ đưa lên từ năm 1912 đến 1920. Công ty United Fruit đã được chính phủ cách mạng của Tổng thống Ramón Grau San Martín cứu không bị quốc hữu hóa một nửa số đất cho thuê vào năm 1934 khi Bộ Trưởng Nông Nghiệp Carlos Hevia, bất đồng ý kiến với các bộ trưởng khác, can ngăn tổng thống Grau đừng làm như vậy. Hevia, sau này có một nhiệm kỳ tổng thống ngắn ngủi, tiến hành việc bảo vệ công ty United Fruit khi đứng ra làm người thương lượng giữa chính phủ của ông và đại sứ Mỹ ở Havana. United Fruit là một công ty bất khả xâm phạm: liên tiếp các đời chính phủ ở Cuba thay nhau bảo vệ nó khỏi tình trạng người lao động gây rối, đóng thuế cao, hoặc bất kỳ sự can thiệp nào vào những đặc quyền của nó cho đến khi cách mạng thành công. Công ty này cũng sở hữu các đồn điền trái cây cho thuê rộng mênh mông, chủ yếu là chuối, ở gần hết các quốc gia Trung Mỹ là những nơi công ty này cũng có thế lực chính trị mạnh như vậy. Năm 1954, United Fruit đã bắt tay với CIA để lật đổ chế độ cánh tả của Ðại tá Jacobo Arbenz Guzmán ở Guatemala, sau khi sự thống trị kinh tế của công ty bị chính quyền bản địa đe dọa.
Ở Cuba hết tốp này đến tốp khác, một năm hàng ngàn thợ cắt mía và công nhân nhà máy đường phải sống cùng gia đình trong những túp lều rách nát suốt bốn tháng mùa thu hoạch, thường chỉ để nhận không tới một Mỹ kim một ngày (đôi lúc chỉ được 40 hoặc 45 xu, không nuôi ăn). Trong những tháng còn lại trong năm – “thời gian chết” đầy hung hiểm ở Cuba – khi không có việc làm, những người nông dân cố gắng sống cầm hơi. Tình cảnh xã hội này đã in sâu trong trí Fidel Castro ngay từ thời thơ ấu và trỗi dậy trong tâm thức chính trị của ông lúc trưởng thành.
Lúc ông Ángel Castro mới đến Mayarí, thỉnh thoảng Công ty United Fruit cũng cần nhân công làm trên tuyến đường ray mới mà họ đã xây dựng giữa các nhà máy với cảng Antilla trên Vịnh Nipe. Ông đã làm ở đây một thời gian ngắn, sắp đặt các đường ray, một công việc như nhiều công việc lao động phổ thông khác, để sinh sống. Có lẽ đến năm hai mươi lăm tuổi, ông quyết định bắt đầu công việc kinh doanh riêng. Ngược xuôi khắp thị trấn Mayarí ông làm nghề bán hàng rong cho những thợ xẻ gỗ và công nhân cắt mía.
Oriente là một vùng quê xinh đẹp, cảnh trí đơn sơ, mộc mạc nhưng hấp dẫn với những cụm cây cọ vươn cao kiêu hãnh giữa những cánh đồng mía và thảm cỏ xanh ngắt. Còn phải kể đến những cánh rừng sâu hun hút, trải rộng vươn về phía các dãy núi dốc ở hướng nam. Những con sông ở đây ngày đêm lầm lũi, không khi nào quên mang nước về tưới cho các cánh đồng. Khi chiến tranh chấm dứt và đồng vốn tư bản Mỹ đổ vào, những cột ống khói của các nhà máy đường mới liên tiếp mọc lên trên khắp Orienta, hiện sừng sững trên đường chân trời. Ngày càng xuất hiện nhiều trâu bò thả rong trên các đồng cỏ và những người nông dân, đầu đội mũ rơm, chễm chệ trên lưng các chú ngựa bé nhỏ để canh chừng chúng.
Công việc kinh doanh ban đầu của Ángel Castro là bán nước chanh. Mỗi sáng, ông chất lên chiếc xe lừa kéo những chiếc thùng to và nhiều ly vại và đánh xe qua các cánh đồng và khu rừng ở Mayarí để bán cho những ai đang khát. Với chút tiền lời ít ỏi, ông bắt đầu mua sỉ nhiều loại hàng hóa khác nhau, rồi chở đi bán cho các nông trang ở vùng quê. Fidel nhớ lại, lúc đó ông Ángel thuê một toán nhân công địa phương và hợp đồng đốn cây cho những người khai khẩn những cánh đồng trồng mía mới và cung cấp củi đốt cho các nhà máy đường lớn. Hẳn ông cũng đã hợp đồng với một công ty đường Mỹ. Là dân Tây Ban Nha di cư, rất nghèo nhưng lại đầy quyết tâm, Ángel Castro đã không ngừng làm lụng để kiếm tiền, chắt chiu dành dụm và mày mò học chữ.
Có lẽ vào khoảng năm 1910, lúc bước vào tuổi ba mươi lăm, ông Ángel bắt đầu thuê đất của Công ty United Fruit trong khu vực Birán, cách thị trấn Mayarí ba mươi sáu cây số về hướng tây nam, đem số tiền kiếm được từ việc kinh doanh đường mía chuyển sang việc sở hữu những mảnh đất nhỏ. Sau đó, ông Ángel chuyển sang trồng mía bán cho các nhà máy của công ty này, một việc mà United Fruit khuyến khích để bắt các tiểu nông phải phụ thuộc vào nó. Ông bắt đầu thuê công nhân và dần dà trở thành Ngài (Don) Ángel Castro, một điền chủ ngày càng giàu có ở Oriente.
Thời gian này, ông Ángel Castro kết hôn với người vợ đầu tiên là bà María Argota. Không thông tin nào về bà còn lưu lại ngoài nghề nghiệp trước đó của bà là giáo viên tiểu học ở Mayarí. Họ có với nhau hai người con là Pedro Emilio và Lidia (sinh năm 1915). Năm 1985 cả hai vẫn sống ở Havana và thỉnh thoảng Fidel, em cùng cha khác mẹ ghé thăm. Lidia khi còn rất trẻ đã bỏ nhà theo một sĩ quan quân đội nhưng vài năm sau thì trở thành góa bụa. Bà đã dành phần đời còn lại giúp Fidel rất nhiều trong giai đoạn bí mật, tù đày và cuộc chiến ở Sierra. Còn Pedro Emilio là nhà chính trị không tên tuổi trước cuộc đảo chính của Batista vào năm 1952, và rồi đã chuyển sang lãnh vực chính của ông: nghiên cứu Hy Lạp và La tinh.
Có điều gì đó còn bí ẩn về Phu nhân Castro đầu tiên và về hoàn cảnh dẫn đến cuộc hôn nhân thứ hai của ông Ángel Castro. Tất cả những thông tin công khai nói về gia đình của Fidel đều rất sơ sài nhưng đều xác nhận là bà María Argota de Castro qua đời không lâu sau khi sinh người con thứ hai. Tuy nhiên, Juana Castro, em gái Fidel lại quả quyết là cha mình hoặc đã ly dị hoặc đã bỏ người vợ đầu, và bà này sống cho đến khi cách mạng thành công mới mất.
Vợ thứ hai của ông Ángel Castro, mẹ ruột của Fidel và sáu anh chị em khác, bà Lina Ruz González, là một phụ nữ trẻ hơn điền chủ Birán hai mươi lăm tuổi, chào đời tại Pinar del Río, một tỉnh cực tây của Cuba. Theo lời kể của cô con gái Emma thì bà là “một người Cuba lâu đời,” hiểu theo ý này thì bà không phải là thế hệ di dân Tây Ban Nha đầu tiên. Juana nói rằng mẹ mình xuất thân từ “một gia đình bình dân,” nhưng không biết khi nào và vì lý do gì đã đến sống ở Oriente. Theo những thông tin mới được công bố thì bà Lina là người giúp việc, phụ trách nấu ăn, trong gia đình Castro khi bà María Argota de Castro còn là bà chủ ở đây.
Theo lời kể của Fidel thì thân sinh của bà Lina cùng các con đã “đi xe kéo cả ngàn cây số” từ Pinar del Río đến Oriente vào hồi đầu thế kỷ 20. Cả hai ông bà nghèo vô cùng và cha Lina cùng với hai anh trai kiếm sống bằng cách đánh xe bò chở mía từ cánh đồng tới nhà máy. Không biết chuyện gì xảy ra với ông ngoại Ruz, song Fidel chỉ nhớ là bà ngoại ông sống ở một nơi khác cách căn nhà Birán một cây số và sau cách mạng năm 1959, cụ đã đến Havana sống với Lina.
Fidel, có rất nhiều kỷ niệm về mẹ, thường kể là hồi nhỏ bà “thực sự mù chữ” và chỉ khi trưởng thành, bà mới bắt đầu tự học chữ. Cả bà ngoại và mẹ ông đều rất sùng đạo và “lòng sùng đạo này xuất phát từ truyền thống gia đình.” Do ở Birán không có nhà thờ cũng không có linh mục, mẹ Fidel thường cầu nguyện ở nhà. Trong cuộc chiến Sierra, cả hai người phụ nữ này đã không ngớt cầu nguyện với Chúa và Thánh Thần để Fidel và Raúl được bình an. Ngày cách mạng thắng lợi, bà Lina - đầu trùm khăn đen, đã quỳ trước bệ thờ ở giáo đường Santiago để tạ ơn Chúa đã cho các con trai bà sống sót và thắng lợi. Fidel nhớ lại mỗi lần bà ngoại và mẹ ông nói cho ông nghe về những lời khấn hứa và lòng tin, ông kính cẩn chú ý lắng nghe. “Dù thế giới quan của tôi khác hẳn, tôi không bao giờ bàn những vấn đề đó với các cụ, vì tôi thấy bà và mẹ tôi tìm thấy trong tôn giáo và tín ngưỡng của hai người sức mạnh, nguồn động viên và sự an ủi. Việc chúng tôi còn sống sau cuộc chiến chắc chắn đã làm hai cụ thêm tin tưởng hơn.” Về cha mình, Fidel nói: “Tôi thấy ông hay lo những chuyện khác như chính trị, chuyện phải vật lộn với miếng ăn hàng ngày... Gần như không bao giờ nghe cha tôi nói gì tới tôn giáo. Có lẽ ông cụ không mấy tin vào tôn giáo. Cha tôi là như vậy.” Có vẻ như Fidel cảm thấy buồn khi cha mình không cùng với mẹ mình khấn hứa, cầu nguyện cho sự an nguy của ông.
Nhiều nhà văn nước ngoài cho rằng ba người con đầu của ông bà Ángel và Lina là Ángela, Ramón và Fidel đã ra đời ngoài giá thú trong thời gian Lina làm hầu gái hoặc đầu bếp trong nhà. Cả ba người đều giữ im lặng về câu chuyện này. Rất có thể người vợ đầu vì vậy đã quyết định ra khỏi nhà và sau đó gia đình cũng để bà đi vào quên lãng (dù Pedro Emilio và Lidia có đến sống chung với bà ở nơi nào đó một thời gian).
Dẫu sao, sau khi Fidel ra đời, Ángel Castro và Lina đã làm lễ kết hôn tại nhà thờ dưới sự chứng kiến của linh mục Enrique Pérez Serantes, bạn chú rể, và nhiều năm sau này khi trở thành giám mục, chính ông đã đứng ra làm trung gian để cứu Fidel khỏi tay bọn lính Batista. Ángela, Ramón và Fidel sau đó được làm lễ rửa tội, lấy họ cha là Castro Ruz. Dẫu có những lời đồn đãi không tốt về nguồn gốc của Fidel nhưng xã hội Cuba vốn bao dung nên hầu như ông không gặp lời đàm tiếu hoặc rắc rối nào.
Vào thời gian Ángel Castro kết hôn lần đầu, căn nhà hai tầng với những trụ bằng gỗ đang xây dở trên đỉnh đồi của nông trang Brián. Căn nhà khá rộng có các cửa sổ phòng ngủ hướng về dãy núi phía nam, còn gia súc và trại bò sữa ở bên dưới tòa nhà. Năm 1899, khi Ángel mới đến, làng Birán chính thức có chừng 530 cư dân và khi lũ trẻ nhà Castro ra đời thì dân số trong làng đang tăng nhanh. Thị trấn Marcané gần đó phần nào có tiếng tăm vì có cả trường học và một bác sĩ. Tất cả khu này đều nằm trong phạm vi của “đế chế” Công ty United Fruit.
Fidel cho rằng cha ông xây nhà trên các trụ gỗ và bên dưới được dành làm chuồng trại để nuôi gia súc vì đây là kiểu kiến trúc thường thấy của các điền chủ giàu có ở Galicia. Ángel Castro, vốn ra đời trong ngôi nhà trệt, làm bằng đá đơn sơ ở Tây Ban Nha, rất muốn hưởng sự sung túc do chính tay ông gầy dựng nhờ cần cù làm việc nơi xứ lạ. Fidel còn lưu giữ một tấm ảnh chụp ngôi nhà ở Galicia mà ông thường đưa cho khách xem để cho thấy thuở ban đầu đơn sơ của gia đình.
Hồi Fidel còn nhỏ, ngôi nhà Brián được nới rộng để tạo thêm một văn phòng cho cha ông và sau đó một chuồng bò được cất lên cách tòa nhà chính khoảng một trăm thước, tiếp theo là một lò mổ nhỏ và một xưởng sửa chữa. Từ hồi đó, Ángel Castro đã cho xây một cửa hiệu và một tiệm làm bánh. Cuối cùng, chỉ còn có bưu điện và ngôi trường quê nhỏ ở Birán là không thuộc sở hữu của cha ông. Gần nhà ông là một sân đá gà. Vào mỗi chủ nhật trong mùa thu hoạch nơi đây đều tổ chức các trận đá gà. Fidel kể: “Nhiều người nghèo đã đặt cược số tiền ít ỏi kiếm được vào đó; nếu thua thì họ trắng tay; còn nếu thắng, họ liền mua rượu và mở tiệc.”
Nông trang Manacas của gia đình Fidel nhanh chóng lên tới con số 26.000 mẫu (1.920 mẫu là của riêng cha ông, số còn lại được cha ông thuê vĩnh viễn) gồm khoảng 300 gia đình sinh sống và làm việc ở đó. Ða số là công nhân cắt mía Haiti nghèo khổ được đưa tới Cuba từ đảo Hispaniola, qua eo biển, để làm việc trên các cánh đồng mía. Mía của nông trang này được bán cho nhà máy Miranda của Công ty United Fruit gần đó. Ngoài ra, Don Ángel còn trồng cây ăn trái, nuôi gia súc và sở hữu các cánh rừng ở Pinares de Mayarí, nơi đây nhà máy cưa của ông sẽ chế biến thành gỗ để bán với số lượng lớn. Ông còn sở hữu một mỏ nicken (khu Vịnh Nipe là nơi có nhiều mỏ nicken và các loại khoáng sản khác).
Ángel Castro cảm thấy hứng thú trong vai trò người đứng đầu một gia đình Cuba gốc Tây Ban Nha có sản nghiệp. Ông có dáng người bệ vệ, cao hơn một thước tám và trên đầu luôn đội chiếc nón rộng vành để che đi cái đầu hoàn toàn trọc lóc – do chính tay vợ hoặc con gái ông dùng tông đơ để hớt cho đến khi không còn tóc và bóng láng. Mãi đến tuổi bốn mươi, ông mới để râu song sau đó cũng cạo đi.
Don Ángel là người lúc nào cũng cần cù làm lụng ngay cả khi đã trở nên giàu có. Ngày nào ông cũng dậy thật sớm, tự tay mang bữa sáng đến cho thợ cắt mía và những người gieo trồng trên đồng. Vào đêm Giáng Sinh và các ngày lễ lớn khác, ông thường ngồi ở chiếc bàn ngoài trời trước cửa nhà kho, giáp với khu nhà chính, để phát phiếu mời công nhân đi dự tiệc xem như là quà tặng của ông chủ. Dẫu Ángel Castro là người từ tâm nhưng các con ông vẫn nhớ ông còn là người cực kỳ nóng tính và hay nổi giận bất ngờ – những tính khí mà ông đã di truyền trọn vẹn cho con trai Fidel của mình.