Đã có rất nhiều tranh cãi về các chi tiết chung quanh cuộc đời Fidel, ngay cả năm sinh chính xác của ông. Ðã có lúc xảy ra những bất đồng kéo dài nhiều năm về việc ông sinh năm 1926 hay 1927, (nếu căn cứ theo bức thư gửi Tổng thống Mỹ Roosvelt năm 1940 khi còn là cậu bé 12 tuổi thì lại là năm 1928). Bản thân vị Tổng Tư Lệnh cam đoan năm 1926 là đúng - có lần, ông đã nói vui là ông thật sự ước gì mình đã sinh trễ một năm để “tôi có thể trở thành người đứng đầu chính phủ trẻ hơn, ba mươi mốt chứ không phải ba mươi hai tuổi, khi cuộc Cách Mạng của chúng tôi thắng lợi.” Ngay cả báo chí Liên Xô vào năm 1963 cũng đã in sai năm sinh của ông trong một bài viết dài về tiểu sử của ông, và khi báo chí Cuba in lại cũng đã không sửa lại lỗi sai này. Câu chuyện nhầm lẫn này phát xuất từ sự thay đổi trong hồ sơ nhập học của ông khi Fidel bị trễ học mất ba tháng vì biến chứng do mổ ruột thừa. Fidel chào đời lúc 2 giờ sáng ngày 13 tháng 8, nặng bốn cân rưỡi và tên ông được đặt theo tên của Fidel Pino Santos - một chính trị gia rất giàu có ở Oriente, bạn của cha ông. Thoạt tiên, lúc ban đầu chưa có cái tên lót Alejandro, song khi viết các bài báo chống Batista sau cuộc đảo chính năm 1952, ông đã dùng Alejandro làm bút danh của mình. Tên này còn được dùng làm bí danh khi đấu tranh bí mật và khi chiến đấu du kích ở Sierra.
Fidel có vẻ như muốn tạo ấn tượng mạnh và bí ẩn về hoàn cảnh chào đời của ông. Ông nói với một thầy tu dòng Dominica người Brazil là “Tôi sinh ra đã là du kích, vì ra đời vào ban đêm, khoảng hai giờ sáng... Có thể đêm đã ảnh hưởng tới tinh thần du kích của tôi, trong hoạt động cách mạng.” Cũng theo ý nghĩa ấy, ông nhấn mạnh đến sự quan trọng của con số 26, đúng theo cung cách truyền thống mê tín và tâm linh của người Cuba. Năm sinh của ông là 1926, ông cho biết ông hai mươi sáu tuổi lúc mưu đồ chống Batista năm 1952 (ông còn chú thích năm mươi hai là gấp đôi của hai mươi sáu). Ngày tấn công trại lính Moncada do Fidel chọn là ngày 26 tháng 7 năm 1953 và phong trào cách mạng của ông cũng mang tên Phong Trào Ngày 26 Tháng 7. Con tàu Granma đổ bộ vào Cuba năm 1956 (ít nhất cũng có con số 6). Bạn bè Fidel nói ông thường chọn ngày 26 trong tháng để quyết định và hành động những việc quan trọng, thí dụ như năm 1962, ông chọn đúng ngày 26 tháng 3 để phát biểu một bài diễn văn quyết định có ý nghĩa triệt hạ những phần tử phản động chống lại ông vào ngày ông xuất hiện sau thời gian tự cách ly (ông hoàn toàn vắng bóng trước công chúng trong một tháng). Fidel có lần cũng đã nói: “Có thể có những bí ẩn nào đó quanh con số 26.”
Ngay chính cái tên của nhà lãnh đạo cách mạng tương lai này cũng rất hợp về phương diện tiên tri và chính trị: chữ Fidel theo tiếng La tinh có nghĩa là “trung thành” và có một âm ngân vang chắc nịch. Trong một đất nước mà người lãnh đạo nổi tiếng luôn được nhân dân biết đến và gọi thân mật bằng tên thì khi tất cả cùng reo hò thì thật khó có cái tên nào nghe nhịp nhàng hơn tên Fidel. Chỉ với cái tên Fidel, ông cũng đã có được điểm xuất phát vượt trội khác thường hơn các đối thủ chính trị khác trên đảo quốc này.
Bản thân Fidel cũng cảm thấy tự hào về tên của mình: “Tôi hoàn toàn hợp với tên của tôi, vì lòng trung thành và vì niềm tin... Ai đó còn cần đến niềm tin tôn giáo; nhưng tôi đã luôn là người của niềm tin, của sự tin cậy và lạc quan.” Fidel còn chú ý ngày 24 tháng 4 là ngày thánh của ông - thánh San Fidel – và ông nói rằng đó là ngày “vị thánh của tôi”, vì có một vị thánh tên là San Fidel; trước kia, có một vị thánh khác, tôi muốn quí vị hiểu điều này.”
Ông giải thích, tuy mình được đặt tên theo nhà triệu phú Fidel Pino Santos song ông này thật ra không phải là cha đỡ đầu của ông. Ðến năm lên sáu, Fidel mới được đặt tên thánh vì cả linh mục chịu trách nhiệm vùng này lẫn nhà chính trị quá bận rộn Fidel Pino Santos đã không thể đến Brián cùng một lúc được. Câu hỏi về việc cha mẹ ông đã kết hôn với nhau chưa khi ông chào đời đã không được đề cập trong phần nhắc về tuổi thơ của ông, và ông trả lời ông được đặt tên thánh là vì “cha mẹ tôi có thể chờ sáu năm để đặt tên thánh cho tôi, nhưng không thể chờ sáu năm để đặt tên cho tôi.”
Fidel kể rằng vì khi còn bé ông không có tên thánh nên bọn trẻ ở Brián gọi ông là “thằng Do Thái”. Mặc dầu lúc đó ông không hiểu “thằng Do Thái” mang ý nghĩa gì, ông cũng hiểu là từ đó mang một nghĩa xấu vì ông không được làm phép rửa tội. Ở Oriente có một loài chim mỏ đen gọi là Judío (có nghĩa là Jew: Do Thái) và đã có lúc Fidel nghĩ rằng vì lý do gì đó lũ trẻ đã gọi ông là loài chim này. Với ký ức chọn lọc của ông, thật thú vị khi thấy ông nhớ rất rõ vết thương lòng vì đã là đứa trẻ không được đặt tên thánh. Cuối cùng ông cũng được làm lễ rửa tội tại nhà thờ Santiago, nơi ông đang sống và đi học lúc đó. Cha mẹ đỡ đầu của ông là ông Luis Hibbert, lãnh sự ở Haiti, và vợ ông này là bà Belén Feliú, cả hai là người da trắng lai da đen. Bà Belén là chị của cô giáo dạy piano cho ông hồi tiểu học. Không ai chắc chắn là bố mẹ đỡ đầu của ông có hiện diện trong ngày ông được rửa tội hay không nữa.
Thời thơ ấu của Fidel có vẻ rất êm đềm và hạnh phúc, và chắc chắn là được hưởng những ưu đãi như con cái của những điền chủ giàu có thời đó. Bọn trẻ nhà Fidel được cha mẹ thương yêu, dù Ángel Castro vốn nóng tánh và lũ trẻ lại rất nghịch ngợm. Dù tuổi tác cách biệt, song bảy đứa con của bà Lina rất thân nhau. Theo lời Juana Castro, con gái thứ năm của gia đình, thì Raúl là con cưng rất được mẹ thương yêu (và cô cũng rất thương người anh này), bởi tính nết “dịu dàng và tình cảm.” Và Fidel có lẽ là đứa con quả quyết, năng nổ nhất nhà và luôn biết cách đạt được ý mình. Khó mà nói rằng ý thức nổi loạn của ông là do tuổi thơ ông đã không được quan tâm nhiều hoặc sống trong một môi trường gia đình luôn hằn học với ông.
Quyển album gia đình còn lưu lại một bức ảnh chụp ông lúc lên ba tuổi. Trông ông có vẻ nghiêm nghị trong bộ quần áo trẻ em nhã nhặn: một chiếc quần soọc và cái áo khoác có cổ tròn lớn, mái tóc ông được chải cẩn thận, rẽ ngôi phải và trên tay ông đang cầm một quyển sách, đôi mắt nâu của ông mở lớn nhìn thẳng vào người chụp. Ở tấm hình khác, Fidel đang ngồi trên một bức tường, giữa chị Ángela và anh Rámon đang đứng trên nền đất. Ngồi cao và ở giữa hai anh chị, ông trở thành tâm điểm của bức ảnh.
Lên bốn tuổi, Fidel vào trường tiểu học công lập ở Marcané nơi Ángela và Ramón đang theo học. Cậu bé đã được học đọc và viết khi chưa đầy năm tuổi và tiếp tục học ở đây sau khi đã năm tuổi. Ngôi trường “nhà trẻ” này có khoảng từ mười lăm cho đến hai mươi học sinh. Và rồi, cha mẹ Fidel quyết định chuyển cậu đến Santiago, thủ phủ của Oriente, để theo học hai anh em nhà Marist vốn rất nghiêm khắc. Theo lời Fidel thì chẳng qua cha mẹ ông đã phải chào thua tánh nghịch ngợm của ông ở trường Marcané. Dường như ngay từ thuở nhỏ, Fidel đã tỏ ra có tính cách và phản kháng trước mọi hành động độc đoán, mặc dầu cậu bé lại biết nghe lời trước những cử chỉ dịu dàng và quan tâm. Khi không được làm theo ý mình, cậu phản ứng rất dữ dội với mọi người, kể cả cha mẹ hay thầy cô.
Giây phút sung sướng nhất của cậu bé Fidel lúc đó là được chơi ngoài trời, leo đồi, bơi trên sông Birán và cưỡi ngựa. Lớn hơn một chút, Fidel hay đi săn, mang theo cây súng cùng bốn chú chó. Cậu là vận động viên bẩm sinh. Niềm say mê hoạt động thể lực của Fidel ngay từ thuở nhỏ – khi còn sống ở nông trang và sau này trong những chuyến về nhà nghỉ hè khi đang học ở Santiago và Havana – đã giúp ông nhiều trong cuộc sống gian nan, khổ cực của một du kích quân sau này ở Sierra.
Fidel còn học bắn súng bằng khẩu súng trường shotgun và thích được bắn gần như vào mọi mục tiêu trong tầm nhắm của mình. Theo đoạn viết ngắn về thời trẻ trong phần tiểu sử của ông đăng trong tạp chí Revolución thì chàng trai Fidel thích tập nhắm bắn vào lũ gà trong trang trại “và nếu có em gái nào dọa mách mẹ, Fidel sẽ thuyết phục các em gái cùng bắn để khỏi ai mách mẹ được nữa.” Trong bất cứ việc gì ông làm, theo tiểu sử đăng trong Revolución, chơi đùa, bơi lội, học tập hay làm việc – “không bao giờ ông chịu thua mà lúc nào cũng nghĩ ra cách nào đó để thắng cho bằng được.” Cũng trong tiểu sử này thì Fidel “thường xuyên thay đổi vị trí các vật dụng, chẳng hạn như ở bàn ăn “cậu sắp xếp các ly uống rượu theo hàng ngàn tổ hợp khác nhau,” cho thấy bản năng hiếu động, chóng chán, mô phạm và cầu toàn từ thời trẻ của ông.
Các em gái ông nhớ là có lần Fidel tổ chức đội bóng chày ở Birán nên được cha mua cho gậy, găng và các vật dụng cần thiết khác (bóng chày là môn thể thao quốc gia của Cuba). Fidel thích được chơi ở vị trí của cầu thủ ném bóng nhất mặc dầu ông giao bóng tuy rất nhanh nhưng thường ít kiểm soát nên thiếu chính xác. Khi thấy đội mình bị thua, cậu lập tức dừng trận đấu lại và nghỉ chơi, đi về nhà. Chắc Fidel đã lây tính cách này của cha mình. Trò chơi Don Ángel ưa thích là domino (Fidel giờ cũng thích chơi cờ này). Ðêm nào ông cũng chơi với nhân viên hoặc với vợ, song nếu có cãi cọ hay bị thua là ông cầm lấy bàn cờ ném xuống hiên, sau đó bỏ chơi cả tuần lễ.
Năm 1959, trong một cuộc phỏng vấn rất hiếm hoi mang tính tự sự với tổng biên tập Carlos Franqui của tờ Revolución, Fidel tiết lộ khá nhiều về cá tính phức tạp của mình. Ông kể về thời gian học ở trường Birán, “Tôi nhớ là khi đó tôi rất ngỗ ngược... Cứ mỗi lần không đồng ý điều gì đó với cô giáo, hoặc khi tôi nổi khùng, là tôi cãi lại cô và ngay lập tức bỏ ra khỏi lớp, rồi cứ thế cắm đầu cắm cổ mà chạy... Một hôm, vừa mới cãi lại cô xong, tôi vụt chạy ra dãy hành lang phía sau thì bị vấp một hộp nước ổi, rồi ngã xấp lên trên miếng ván có cắm một cây đinh. Lúc té, cây đinh đâm vào lưỡi tôi. Khi tôi về tới nhà, mẹ tôi bảo: ‘Chúa phạt con vì tội đã cãi lại cô đó.’ Tôi hoàn toàn tin là như vậy thật.” Trong lúc nói về mình trong giai đoạn từ bốn đến sáu tuổi, Fidel thừa nhận “tôi học hết thầy giáo này tới cô giáo khác, với mỗi người là tôi có thái độ khác nhau. Thầy cô nào đối xử tốt và mang cho chúng tôi đồ chơi, tôi tỏ ra ngoan ngoãn, còn nếu dùng áp lực, đòn roi và hình phạt, thì tôi cư xử khác hẳn.”
Hành vi của Fidel thường được các thầy cô bỏ qua vì cha cậu là người giàu có và có ảnh hưởng trong vùng. Fidel nhớ lại: “Hồi nhỏ mọi người thường chú ý nhiều tới tôi, chiều chuộng và đối xử với tôi khác với những đứa trẻ cùng lứa. Ông nhận xét: “Những đứa trẻ kia đi chân đất còn chúng tôi mang giày; chúng thường bị đói, còn ở nhà tôi, bao giờ tới giờ ăn cũng phải ép chúng tôi ăn.”
Ông không chắc chắn là việc ông chuyển lên học ở Santiago có phải “vì tôi đã gây quá nhiều chuyện phiền toái ở nhà hoặc cô giáo đã thuyết phục gia đình là nên gửi tôi đi học ở xa” hay không nữa. Dù lý do gì thì khi lên năm hoặc sáu tuổi (ông không nhớ chính xác là tuổi nào) Fidel đã cùng chị Ángela đón xe lửa đi Santiago, rời khỏi Oriente để đi về phía nam để bắt đầu một thời kỳ mới trong cuộc đời ông. Ông nhớ lại cảm giác bỡ ngỡ trước “những phi thường” của một thành phố lớn – nhà ga với các vòm cung bằng gỗ, khung cảnh náo nhiệt và cả con người thành thị” và nhớ là tối hôm đó họ ở nhà ông bà Hibbert, chị của cô giáo ở Birán, những người không lâu sau đó trở thành cha mẹ đỡ đầu của Fidel.
Theo lời kể của Fidel cho Carlos Franqui vào năm 1959 về những năm tháng thơ dại, ông được gởi đến Santiago để theo học tại trường La Salle của hai anh em nhà Marist giàu có. Nhưng khi trả lời một cuộc phỏng vấn khác vào năm 1985, câu chuyện này đã hoàn toàn khác đi. Lần này, Fidel nói rằng trong hai năm đầu tiên ở Santiago khi sống với ông bà Hibbert, cha mẹ đỡ đầu của ông, ông đã không đi học ở trường mà mẹ đỡ đầu đã dạy ông học ở nhà và chỉ gói gọn ở việc học thuộc lòng bốn phép tính số học từ trang bìa sau của một quyển sổ tay (ông nói ông thuộc chúng như cháo đến mức lúc bấy giờ ông có thể cộng, trừ, nhân, chia nhanh “như máy tính”) và trong nhà ông bà Hibbert không có cuốn sách nào để rèn chữ và chính tả cả.
Về điểm này thật khó hiểu nguyên nhân vì sao mà ông bà Castro lại để cho tình trạng như vậy diễn ra với con trai mình, và một điều lạ khác nữa là, theo lời Fidel, cả năm sau cha mẹ ông mới nhận ra là ông đã bị đối xử tệ bạc như vậy. Sau này có dịp nhìn lại, Fidel cảm thấy rất bực bội khi gặp phải tình huống như thể cha mẹ mình và ông bà Hibbert đã bí mật sắp xếp với nhau như vậy. Ông đã dùng các câu sau khi nói về thời gian đó: “Khi cha mẹ tôi đưa tôi đến Santiago tôi còn rất nhỏ và tôi phải chịu sự thiếu thốn và phải làm việc rất nhiều...,” và một năm sau, “Cha mẹ tôi một lần nữa lại gửi tôi đến căn nhà ở Santiago.” Ở đây, Fidel cho biết: “Tôi bị bỏ đói và bị đối xử bất công,” và hai năm đó thật phí phạm vì “sống cực khổ, phải làm việc và bị hành hạ.” Ông tiếp tục phàn nàn “Tôi bị gia đình này bóc lột, dù cha mẹ tôi đã trả tiền cho việc chúng tôi ở đó.”
Tới năm thứ ba ở Santiago, Fidel mới bắt đầu vào học lớp một ngoại trú ở trường La Salle và phải học bù cho những năm lãng phí. Ông tiếp tục sống ở nhà ông bà Hibbert và trở về nhà ăn trưa (“lúc đó, tôi không còn bị bỏ đói nữa”) và rất thích thú vì “có thầy cô, lớp học, bạn bè để chơi đùa và nhiều hoạt động khác mà tôi không hề có như khi phải học một mình với những phép tính số học từ bìa một cuốn sổ tay.”
Tuy nhiên, Fidel lại nhanh chóng cảm thấy buồn vì cứ thứ năm và chủ nhật, học trò nội trú được dẫn đi biển chơi hoặc đi dạo bên ngoài còn cậu thì không được tham gia vì là học sinh ngoại trú nên cậu thấy đời mình sao mà “quá buồn tẻ”. Cậu bắt đầu thấy không ưa ông bà Hibbert. Như lời ông kể, tuy mới năm hoặc sáu tuổi ông đã có ý nghĩ phải nắm lấy vấn đề trong đôi tay mình, và “bắt đầu hành động nổi loạn đầu tiên của tôi”. Cậu bé áp dụng điều gì đó tựa như “chiến thuật du kích” để buộc cha mẹ đỡ đầu cho cậu vào học nội trú. Một ngày nọ, khi ông Hibbert “phát vào mông tôi” vì một lỗi nào đó, Fidel lập tức “nổi loạn, rủa xả mọi người, không thèm nghe lời nào hết, la hét và nói tất cả những từ bị cấm nói.” Fidel kể: “Tôi xử sự gớm ghiếc tới mức họ lập tức đưa ngay tôi tới trường và ghi tên cho tôi vào học nội trú; với tôi đó là một chiến thắng lớn lao.” Fidel là học trò nội trú thứ ba mươi; có hai trăm đứa trẻ khác học ngoại trú. Việc này làm cha mẹ cậu mỗi tháng phải trả ba mươi Mỹ kim.
Tại trường La Salle, các nam sinh phải tuân thủ chặt chẽ quy định mặc quần áo nghiêm chỉnh và đeo cà vạt. Có một bức ảnh chụp tập thể học sinh lớp hai của trường này với Fidel ngồi ở hàng đầu, cà vạt hơi xốc xếch và nét mặt trông có vẻ khinh thị. Khi lục lại ký ức của mình, ông không cảm thấy có gì “đau khổ” khi phải xa gia đình vào lứa tuổi đó cả - rõ ràng là cậu bé hài lòng vì được tự lo cho mình. Ông kể tiếp: “ngay trong kỳ nghỉ đầu tiên, chúng tôi được nghỉ hè ba tháng; tôi không cho là có điều gì đó vui sướng hơn việc này; chúng tôi đi săn bằng giàn ná, cỡi ngựa, bơi lội trong sông suối và hoàn toàn tự do trong suốt ba tháng này.” Không hề có một chữ nào nhắc nhở về gia đình.
Lúc Fidel học xong lớp ba, Ramón và Raúl cũng tới La Salle học. Ba đứa trẻ được sắp cho học chung trong một lớp học đặc biệt – điều này nghe có vẻ phi lý vì Rámon mười tuổi, Fidel tám tuổi và Raúl bốn tuổi. Fidel giải thích rằng vì gia đình họ giàu có.
Thời gian học nội trú ở trường Marist được “tô điểm” bằng những trận đánh nhau vì quyền lợi của cậu bé; và Fidel phá lệ, vẽ chân dung mình như một cậu bé thích bạo động và bướng bỉnh. Ông kể có lần, sau khi cãi nhau lúc đi chơi thuyền, Fidel đã đánh đứa bạn cùng lớp, vốn là học trò cưng của vị linh mục dạy học. Tối hôm đó, đang trong buổi lễ trang nghiêm ở giáo đường, linh mục này đã gọi Fidel ra hỏi về đầu đuôi câu chuyện, không đợi giải thích, ông ấy “tát thẳng vào mặt làm tôi choáng váng... Tôi gượng lại, ông ấy lại tát thêm một cái nữa vào má bên kia... Lúc ông ấy cho tôi đi thì tôi hoàn toàn bàng hoàng và cảm thấy đau đớn vì bị sỉ nhục.” Fidel tiếp tục: “Lần khác... chúng tôi đang bước đi thành hàng một, ông ta lại đánh tôi, lần này thì đánh vào đầu. Sau đó, tôi tự nhủ sẽ không để chuyện này xảy ra nữa. Ngày nọ, chúng tôi đang chơi bóng. Ðứa nào đứng đầu hàng thể nào cũng có được vị trí tốt nhất và trong lúc tôi đang cãi nhau giành vị trí đầu hàng với một đứa bạn thì ông linh mục từ phía sau tiến về phía tôi và đánh lên đầu tôi. Lần này, tôi phản ứng lại dữ tợn, ngay lúc đó và tại đó, ném mẩu bánh mì vào đầu ông ta, rồi lao vào đấm đá và cắn ông ta. Tôi không nghĩ là tôi có thể làm ông linh mục kia đau đớn nhưng hành động bộc phát liều lĩnh đó đã trở thành một biến cố lịch sử của trường này.”
Với những gì mà Fidel gọi là “một khoảnh khắc quyết định trong đời tôi”, Ángel Castro quyết định sau lớp bốn, đến kỳ nghỉ hè, ông sẽ không cho các cậu con trai của mình quay lại trường nữa. Ông bố không những nhận được giấy báo của trường La Salle nói rằng ba con trai ông không những không chịu học hành và “là ba kẻ đầu gấu, ương bướng nhất đã từng theo học ở đây” (Fidel nói rằng “báo cáo của trường không trung thực vậy mà ở nhà mọi người lại tin vào điều đó”) mà ông còn phát hiện ra rằng lũ con ông còn thêm tội dối trá khi chép thẳng lời giải trong quyển sách bài giải toán chúng mang từ trường về vào trong các bài toán mà ông thầy ở nông trang đã giao cho chúng làm.
Ramón Castro vui mừng được thôi học vì cậu thích đời sống ở Birán với những cánh đồng, thú vật và máy móc hơn. Cậu bé Raúl thì không có khả năng tự bào chữa nên “phải khăn gói lên đường đến một trường quân sự do một thầy giáo làng, là trung sĩ quân đội, điều hành và cũng là người cho cậu nếm mùi cực khổ.” Riêng Fidel thì quyết định phải trở lại trường học. “Tôi nhớ là đã tới gặp mẹ tôi và giải thích lý do tại sao tôi muốn được học tiếp; sẽ thật bất công nếu không cho tôi tiếp tục học. Tôi nài nỉ bà và nói tôi muốn đến trường, và nếu không cho, tôi sẽ nổi lửa đốt nhà... Vậy là cha mẹ tôi quyết định đưa tôi đi học lại. Không biết ông bà vì sợ hay là tội nghiệp cho tôi, nhưng dù sao mẹ cũng đã bênh vực tôi.”
Fidel mau chóng hiểu ra rằng sự ngoan cường đến cùng, nhất định không nhượng bộ là thứ vũ khí mạnh mẽ. Ðây có lẽ là bài học quan trọng nhất cậu rút ra từ những năm còn trẻ khi ở nông trang và tại các trường học ở Santiago. Bấy giờ, sau khi hăm he để được đi học lại, Fidel ghi danh vào học lớp năm của trường nam sinh Dolores, một trường học tốt hơn và có yêu cầu cao hơn nhiều, nằm ngay trung tâm thành phố. Ở đây, năm lên chín tuổi, cậu bé Fidel bắt đầu thụ huấn giáo lý của dòng Tên – một trong những ảnh hưởng quan trọng nhất trong đời cậu. Fidel nhận xét về trường Dolores “là trường học đặt ra các chuẩn mực rất cao. Khó khăn lắm tôi mới theo kịp những bạn học khác”.
Và một lần nữa Fidel lại phải học ngoại trú. Cậu ở với gia đình một nhà buôn mà cậu chẳng thích chút nào. Chị Ángela, đang theo học trường nữ Santiago, là người bạn duy nhất trong căn nhà đáng ghét đó. Mỗi tuần, Fidel nhận được hai mươi xu tiêu vặt từ Birán gửi đến. Cậu tiêu mười xu cho việc xem phim vào ngày chủ nhật, năm xu ăn kem sau khi xem phim xong và năm xu còn lại mua truyện tranh “Con Én” ra vào thứ năm hằng tuần. Tuy nhiên khoản tiền ít ỏi này sẽ bị cắt nếu cậu không đạt điểm cao nhất. Fidel kể: “Bởi vậy, tôi quyết định phải có cách để bảo vệ quyền lợi của mình.”
Cậu vờ nói với thầy giáo rằng mình bị mất học bạ đã ghi điểm và được thầy cho quyển khác. Fidel kể: “Từ lúc đó, tôi ghi điểm rất cao vào học bạ mới rồi mang về nhà cho cha mẹ ký tên. Còn quyển kia có điểm thật thì tôi tự ký tên và nộp lại cho trường.” Khi đó, dường như cậu đang tu dưỡng tâm tính để trở nên ngoan hiền hơn nên không có ai nghi ngờ gì hết. Một bức hình chụp cậu đang hé miệng cười, ngồi trên băng ghế gỗ tại bàn ăn dài của nhà trường. Cậu mặc đồng phục trường Delores, quần dài trắng, áo ngoài màu xanh đen, sơ mi bên trong và cổ thắt cà vạt, và lưng đeo một thắt lưng trắng; những thầy tu dòng Tên thích trường học mang bầu không khí nhà binh nên thậm chí còn có một ban nhạc, như trong một tấm ảnh khác, người ta nhìn thấy Fidel đang tiến bước dưới quốc kỳ Cuba và cờ hiệu của trường Delores.
Khi được mười tuổi, Fidel bị đau ruột thừa, phải nằm lì ở bệnh viện Colonia Espanola ở Santiago mất ba tháng vì vết mổ không chịu lành. Tuy vậy, như thường lệ, cậu lại biết tận dụng thời gian. Fidel nhớ lại: “Tôi thực tập lấy một mình, và kết bạn với những bệnh nhân khác. Tôi kể lại điều này để cho thấy là tôi có khiếu quan hệ với người khác; tôi có thiên hướng của một chính trị gia. Khi không đọc truyện tranh, tôi dành thời gian ghé thăm các bệnh nhân khác... Có người nói sau này tôi có thể làm bác sĩ được vì tôi thường chơi với mấy con thằn lằn và dao cạo Gillette. Tôi bị ám ảnh về ca mổ mà tôi đã trải qua... Các điều kiên và biện pháp vệ sinh lúc đó rất kém nên vết thương của tôi không chịu khép miệng và tôi phải nằm viện ba tháng trời. Sau đó tôi thử ‘giải phẫu’ mấy con thằn lằn – tất nhiên là chúng không sống được. Sau đó tôi thích xem cách lũ kiến khiêng xác con thằn lằn đi, cách hàng trăm con kiến cùng làm việc chung với nhau để khiêng được con thằn lằn và mang nó về tổ.”
Bệnh tật làm Fidel lỡ mất ý định học vượt lớp ở trường mà một cô giáo da đen đã khuyến khích cậu làm. Cô giáo này đã dạy cho chị Fidel và thấy cậu bé rất có tiềm năng. Fidel nói rằng chưa bao giờ ông được “thầy cô hoặc người hướng dẫn nào giúp đỡ” trong vấn đề nổi loạn hồi trẻ khi tính cách ông đang hình thành, nhưng “cô giáo da đen ở Santiago đó quả thực gần đúng với nghĩa là ‘thầy’ tôi. Cô là “người đầu tiên mà tôi quen biết đã khích lệ tôi, cho tôi một mục tiêu và truyền cho tôi lòng hăng hái học vào giai đoạn đầu đời của mình.”
Trở lại nhà người giám hộ, lúc này Fidel đã lên lớp sáu và ngày càng hận cách đối xử ở đây. Chỉ vì một nguyên do làm cho cậu bé giận là cứ mỗi lần đi học về là cậu bị nhốt trong phòng hàng giờ liền để học “giữa lúc đứa trẻ nào cũng chỉ muốn... không phải làm gì cả, nghe radio hoặc đi ra ngoài chơi.” Nhưng cậu cũng không thèm học và thay vào đó, để cho trí tưởng tượng “bay bổng đến những địa điểm và sự kiện lịch sử, và đến với các cuộc chiến tranh.” Fidel nói ông thích môn lịch sử “nhiều lắm, nhất là những câu chuyện về các trận đánh... Tôi thậm chí còn bày trận ra chơi nữa.” Những giờ bị nhốt trong phòng, với ông “là một hình thức luyện tập quân sự... Tôi lấy ra thật nhiều giấy vụn và vo chúng thành những viên nhỏ, sắp xếp chúng trên miếng bìa, rồi đặt một chướng ngại vật để coi bao nhiêu viên giấy vượt qua được và bao nhiêu không. Cũng có mất mát, thương vong. Tôi chơi trò chơi chiến tranh như vậy mỗi lần suốt mấy giờ liền.” Khi không chịu nổi sự tù tùng trong căn nhà người giám hộ này nữa, Fidel cất tiếng rủa xả mọi người trong gia đình này “quỷ tha ma bắt hết các người đi,” là y như rằng chiều hôm đó cậu trở thành “học sinh nội trú” của trường Dolores ngay lập tức. Fidel không cho biết là cha mẹ ông có ý kiến gì về chuyện đó không, nhưng luôn nhấn mạnh “Tôi phải tự nghĩ cách thoát khỏi tình huống mà tôi thấy khó chịu,” và kể ra những trận ẩu đả khi còn học ở trường La Salle và lần xung đột ở Brián về việc tiếp tục đi học.
Fidel, khi đó vừa tròm trèm mười một tuổi, nói rằng “từ đó trở đi quyết định chỉ nghe theo ý mình và phải tự lo liệu lấy vấn đề của mình chứ không xin lời khuyên của ai hết... Tôi chơi đá banh, bóng chày, jai alai - bóng ném kiểu Nam Mỹ - và các môn thể thao khác. Tất cả năng lượng trong người tôi đã dồn cho các môn chơi đó.” Ông giải thích: “Bản thân tôi phải chịu thiệt thòi vì thiếu những nhận thức sơ đẳng nhất về việc giảng dạy và về tâm lý giáo dục trẻ em,” thế nhưng, “Tôi không oán trách cha mẹ tôi, ông bà vốn đã không được hưởng nền giáo dục đúng mực; họ giao phó anh em chúng tôi cho người khác vì tin rằng những người này sẽ đối xử tốt với chúng tôi, nhưng thực tế không phải vậy.” Có vẻ như ông không thông cảm với quan điểm này của cha mẹ mình nhưng tiếp tục nhận sự trợ giúp từ gia đình cho đến lúc chuẩn bị lên tàu Granma vào năm 1956. Cô em Juana của Fidel tin rằng Fidel kính trọng cha, song hai người đàn ông cùng mang dòng máu Tây Ban Nha kiêu hãnh và bướng bỉnh này không hề biểu lộ tình cảm ấm áp đối với nhau. Sự xung khắc chính đầu tiên giữa hai cha con là lần cậu bé Fidel chín tuổi hăm đốt nhà nếu không được đi học. Năm mười ba tuổi, lúc ông bố đi thanh toán tiền học phí cho trường Delores, “ông con”, đang nghỉ hè ở nhà, không những đã dám lái chiếc xe kéo của nông trang mà còn tìm cách tổ chức công nhân đường chống lại Don Ángel. Tới năm mười tám tuổi, Fidel, đang học đại học tại trường Dòng Tên đắt tiền ở Havana, đã thường xuyên đấu tranh với cha về “chủ nghĩa tư bản” của gia đình, trách cha mình là đã “lợi dụng” công nhân “bằng những lời hứa ảo.”
Họ hàng của gia đình Castro kể lại rằng khi Fidel chỉ trích cha mình trong việc quản lý gia sản tồi, ông đồng thời cũng đòi xem xét sổ sách kế toán và phản đối việc gia đình cho một nông dân kéo dài khoản nợ 6.000 peso. Khi Fidel ngồi tù sau sự kiện Moncada, cha ông (vừa mới thanh toán xong học phí đại học cho ông) hằng tháng vẫn gửi tiền chu cấp cho con dâu Mirta, vợ của Fidel, và cháu nội Fidelito. Theo Juana Castro, trong thời gian bảy tuần ở Havana sau khi được chính quyền độc tài ân xá và đang chuẩn bị đi Mexico làm cách mạng, Fidel đã không dành thời gian ghé thăm nhà; Raúl, được thả cùng lúc, đã tìm cách về thăm nông trang khoảng một tuần lễ. Lần cuối cùng Fidel gặp cha là đầu năm 1953, trước trận Moncada. Khi Don Ángel bị bệnh mất vào tháng mười năm 1956, Fidel đang ở Mexico.
Năm Fidel lên lớp sáu ở trường Dolores, người cha một lần nữa đã thay đổi ý định giáo dục các con mình. Ramón và Raúl lại được ông gửi đi học cùng với Fidel. Một ngày chủ nhật, theo lời Raúl kể lại, khi được ra chơi ngoài bãi biển Siboney, gần Santiago, thầy dòng chịu trách nhiệm dẫn học sinh đi đã phạt hai học sinh trong đoàn không cho xuống biển bơi. Biết chuyện, Fidel tới gặp thầy dòng này và hỏi, “Thưa cha, nếu con nhảy từ tấm ván cao mười thước xuống dưới nước, cha có cho các bạn đó đi bơi được không?” Thầy dòng trả lời: “Con ơi, cao lắm đó... Con sẽ không dám đâu!” Fidel lặp lại yêu cầu đó và thầy dòng chấp thuận: “Thôi được, cha đồng ý, nếu con dám nhảy xuống.” Fidel đã thu hết can đảm và lao xuống nước, xóa lệnh cấm bơi cho hai người bạn - song cũng để chứng tỏ với bản thân rằng cậu luôn có khả năng chiến thắng được nỗi sợ.
Raúl, vốn ghét đi học, nhớ lại: “Ðối với tôi, đó là nhà tù. Trường học với tôi có nghĩa là cầu nguyện, là đeo cà vạt và sợ Chúa. Tuy nhiên, điều khiến tôi sợ chết khiếp đi được là cầu nguyện. Chúng tôi phải cầu nguyện suốt ngày, từ sáng tới tối. Nhưng Fidel thì khác. Anh ấy chế ngự được hoàn cảnh. Chuyện gì anh ấy cũng thành công. Trong thể thao, trong học hành. Và ngày nào, anh ấy cũng đánh nhau. Tánh Fidel rất dễ nổi nóng và sinh sự. Anh ấy tìm những đứa to nhất, khỏe nhất để thách thức, và khi mà bị thua, hôm sau thế nào anh cũng bắt đầu lại từ đầu. Không bao giờ anh ấy chịu bỏ cuộc.” Một lần nữa, mục đích của Fidel là tôi luyện lòng can đảm của mình.
Juan Rovira, bạn học của Fidel ở trường Belén (giờ đang sống ở Miami), kể rằng Fidel là một mẫu người hùng thể thao và là một học sinh có trí nhớ lạ thường. Rovira nói: “Mọi người ai cũng thấy phấn kích với Fidel khi có trận đấu bóng chày với đội của trường La Salle, hoặc khi thi điền kinh, vì cậu ấy chạy rất nhanh và phẩm chất thể thao của cậu ấy thật tuyệt vời. Cậu ấy xuất sắc trong mọi môn thể thao, và vì vậy cậu ấy rất được mọi người quí mến. Nói về việc học, tuy Fidel không nổi bật lắm, nhưng tới kỳ thi Fidel học miệt mài. Học sinh nội trú được phép dậy sớm vào bốn giờ sáng để học và cậu ấy có trí nhớ thật phi thường. Khi làm bài thi, cậu viết ra giấy chính xác những gì đã đọc, cứ y như đang chép lại từ sách ra, nhưng thật ra thì mọi điều cậu học đều đã được khắc ghi vào trong bộ nhớ. Fidel đạt điểm cao nhờ trí nhớ kỳ lạ đó.”
Lần đầu Fidel biết đến núi non là khi ông sống ở Dolores. Trong những chuyến tham quan dã ngoại, học sinh được xe buýt trường đưa đi leo núi, khi thì El Cobre, lúc thì Gran Piedra hoặc có khi còn tới tận chân đồi Sierra Maestra. Fidel kể: “Tôi cũng thích đi dọc theo các con sông lúc triều lên, băng qua đó, ngao du một lúc rồi mới quay về. Xe buýt bao giờ cũng phải nán lại đợi tôi... Tôi không tưởng tượng được là có ngày các dãy núi lại đóng một vai trò quan trọng như vậy trong đời mình!”
Năm mười lăm tuổi, Fidel tốt nghiệp trường Dolores (theo Fidel, năm đó “Tôi là một học sinh giỏi nhất trường”). Ở kỳ thi cuối khóa, khi được yêu cầu nêu tên một loài bò sát, cậu trả lời “rắn majá” (một loài rắn lớn, không độc ở Cuba) và khi được yêu cầu nêu thêm một tên khác, cậu đáp “rắn majá khác.”
Lòng quyết tâm hơn người và nổi trội của Fidel thật vô bờ bến. Hồi ở Santiago, đài phát thanh tài trợ một cuộc thi thơ ca do các bậc phụ huynh bình chọn. Tuy ngưỡng mộ José Martí, một nhà thơ vĩ đại của đất nước Cuba, Fidel lại hoàn toàn không có khiếu về thi ca, thế nhưng ông cũng gửi nhiều bài đến dự thi. Fidel nhìn nhận: “trong cuộc thi, mấy bài thơ của tôi không phải là những bài hay nhất, nhưng tôi đã kết bạn với tất cả bọn trẻ, và qua đây một lần nữa tôi lại thấy có lẽ trong tôi đã sẵn có thiên hướng về chính trị... Hầu như đứa trẻ nào cũng đòi cha mẹ chúng bầu cho tôi. Vậy là thư bầu chọn được gửi tới, đại loại ghi thế này: ”Bài thơ viết về các bà mẹ của bạn Elpidio rất hay và cảm động, nhưng chúng tôi bầu cho bạn Fidel...”
Sau khi cách mạng thắng lợi, Fidel Castro thường nói ý thức xã hội của ông đã ra đời dưới mái trường quê ở Marcané và nông trang Birán nơi ông đã học và chơi với lũ trẻ nghèo. Ðiều này được chứng minh trong lá thư dài ông viết từ nhà tù gửi cho người bạn gái của ông vào ngày 24/1/1954, nơi ông đang thụ án vì cuộc tấn công Moncada, có đoạn: “Các bạn học của tôi, con trai của những nông dân nghèo, đi chân đất đến trường, và, rất thường, phải mặc những bộ quần áo tàn tạ. Họ rất nghèo. Họ phải học hành trong hoàn cảnh nghèo khó ngay từ chữ cái vỡ lòng, rồi sớm bỏ học dù trí óc họ đủ thông minh lĩnh hội. Từ đó, đời họ chìm xuống tận đáy xã hội và trong bể tuyệt vọng của sự dốt nát và bần cùng - không một ai trong số họ thoát khỏi thảm họa tất yếu đó. Ngày nay, con cái của họ tiếp bước số phận đó, oằn vai gánh nặng thuyết định mệnh xã hội. Tôi thì ngược lại, có thể học, tôi vẫn tiếp tục học... Hai mươi năm sau, vẫn không có gì thay đổi... Có lẽ đã như vậy kể từ khi có nền Cộng hòa và sẽ vẫn như thế nếu không có ai thật sự làm gì để thay đổi... Lĩnh vực kỹ thuật và tổ chức giáo dục sẽ không đi tới đâu nếu không có ai cải tổ lại tình trạng kinh tế quốc gia từ trên xuống dưới... vì đó là cội rễ của bi kịch... Phải thú nhận rằng, với sự giúp đỡ của nhà nước, một thanh niên chạm tay đến được một trình độ kỹ thuật hấp dẫn, cho dù tới đó anh ta cũng sẽ bị nhận chìm với mảnh bằng của mình, như một chiếc thuyền giấy, trong những khe hẹp đáng sợ của tình trạng xã hội và kinh tế hiện thời của chúng ta...”
Trong cuộc phỏng vấn mang tính tự thuật với Carlos Franqui năm 1959, Fidel lưu ý rằng: “tất cả tình cảnh xảy ra quanh đời sống và tuổi thơ tôi, mọi thứ tôi nhìn thấy, hẳn đã được sắp xếp hợp lý để cho rằng tôi sẽ phát triển thói quen, ý tưởng và tình cảm tự nhiên đối với tầng lớp xã hội có đặc quyền nào đó và động cơ ích kỷ, rồi trở nên dửng dưng trước những vấn đề của người khác.” Ông nói tiếp, “Tuy vậy, một trong những tình cảnh đó cũng đã giúp chúng tôi phát triển một tinh thần nhân bản nào đó. Ðó chính là tất cả bạn bè chúng tôi, những người bạn đồng hành, đều là con cái các nông dân địa phương.”
Chính nhờ bối cảnh tương tự như vậy mà Fidel Castro được tiếp xúc với các giáo lý Dòng Tên, đầu tiên là ở Santiago, và sau đó là ở Havana. Sau những trải nghiệm đầu tiên với các trường Dòng Tên, ông kết luận: “Những người giảng dạy ở đây được chuẩn bị tốt hơn ở những trường khác... có tinh thần kỷ luật... việc tạo ra thói quen kỷ luật và học tập ở đây rất hay. Tôi không phản đối lối sống đó, dù hơi khắc khổ. Tôi nghĩ nhờ vậy mà Dòng Tên thường sản sinh ra những người có tính cách.”
Fidel không hề biết rằng, rất đông những cậu bé Cuba, sau này trở thành những đồng đội cách mạng thân nhất của ông, cùng lúc đó đang theo học tại các trường Dòng Tên ở Santiago, Havana và những thành phố khác. Ðối với Fidel, lúc này ông đã được mười sáu tuổi và đã sẵn sàng cho sự thay đổi lớn lao sắp đến với đời mình.