Đầu năm 1958, quân nổi dậy của Fidel tăng đều. Quân nổi dậy ngày càng lo “cải cách ruộng đất trên qui mô nhỏ” trao cho dân trong nội bộ “Lãnh Thổ Tự Do” ở Sierra Maestra cũng như giúp việc ở nông trại, bảo vệ các gia đình nông dân khỏi bọn chủ đất và vệ binh, áp dụng “công lý cách mạng” đối với bọn cướp đoạt và bóc lột, mở trường học và viện xá. Họ đã trở thành bạn của dân.
Với trách nhiệm cách mạng xã hội, nông dân đã đáp lại, hết lòng ủng hộ quân nổi dậy, nhờ vậy mà Fidel mới còn sống trong những tháng đầu ở Cuba. Thoạt tiên, nông dân giúp ông theo bản năng, sau đó là vì cảm phục cách cư xử của quân nổi dậy. Sự ủng hộ này càng quan trọng khi cuộc chiến du kích bước vào giai đoạn mới trong năm 1958. Nông dân đem thức ăn cho quân nổi dậy, giúp họ lấy vũ khí, xây kho chứa vũ khí và cất đồ (mà không lấy tiền), làm thành mạng lưới thông tin khi quân đội Batista xâm nhập vùng núi và thông tin liên lạc giữa Fidel với các lãnh đạo Phong Trào, trong đó nhiều thông tín viên là phụ nữ. Nông dân cũng là nguồn tuyển dụng chính của Quân Nổi Dậy - họ biết đường đi lối vào, kiên cường, tin tưởng vào đường lối của Fidel và dễ hòa nhập với quân du kích hơn các tình nguyện viên từ thành thị. Lúc này, Fidel cần những chiến binh tích cực để mở rộng cuộc chiến.
Tháng Ba năm 1958, Raúl Castro đưa sáu mươi lăm người đến Sierra Cristal, dọc theo bờ biển phía bắc tỉnh Oriente, để lập mặt trận mới. Họ định lập ra “khu vực tự do” ở Oriente để chuyển cuộc chiến về phương bắc và tăng sức ép với quân Batista. Mặt trận thứ hai này được Fidel đặt tên là Frank País, để tưởng nhớ anh, và lực lượng của Raúl là “Quân Ðoàn 6” để tạo cảm giác là Quân Nổi Dậy có nhiều đơn vị. Cùng lúc đó, Juan Almeida được phái đi lập ”Mặt Trận Thứ Ba” với quân đoàn khác ở phía đông Sierra Maestra, phía tây bắc Santiago. Tháng Tư, Camilo Cienfuegos di chuyển về phương bắc, hướng tới Bayamo để khuấy nhiễu quân Batista ở đó. Guevara với “Quân Ðoàn 4” đã hoạt động ở trung tâm Sierra Maestra từ tháng Tám năm 1957. Ðến giữa mùa xuân năm 1958 thì Quân Nổi Dậy đã nắm giữ hoặc điều khiển hầu hết vùng núi Oriente. Chiến lược của Fidel là thoát ra khỏi những thành lũy mà quân nổi dậy đã đi chuyển lòng vòng suốt một năm qua và chiếm thêm lãnh thổ của kẻ thù. Tuy vậy, Fidel vẫn thận trọng nói với Che rằng chỉ tấn công khi các đơn vị khác trong quân nổi dậy sẵn sàng hỗ trợ.
Dần dà, quân du kích trở thành lực lượng có kỷ cương và được trang bị tốt hơn. Sang tháng 4, Fidel có chiếc xe jeep Toyota mới và quân nổi dậy đã chiếm được thêm lãnh thổ đủ để ông lái xe chứ không còn phải đi bộ trong vòng mười, mười lăm dặm nữa - hầu hết những lối đi trong núi đều đi xe được và bây giờ Fidel còn kiểm soát vài con đường nữa. Cứ hai ba ngày, họ lại di chuyển từ chỗ này qua chỗ khác vì lý do an ninh - Fidel vẫn rất thận trọng. Sợ máy bay dò ra, ban đêm họ di chuyển không đèn, Fidel và Celia cầm đèn lồng theo để dùng khi cần thiết. Cuối tháng tư và đầu tháng 5, Fidel bỏ thời gian kiểm tra lực lượng để chuẩn bị tấn công kẻ thù trên diện rộng. Ông cho xây công sự ở lối vào Sierra Maestra để nếu có mất một phần lãnh thổ thì chừng nào còn chế ngự được phần chính của dãy núi, họ vẫn sẽ thắng.
Khắp nơi tinh thần lên rất cao. Trong vùng núi thuộc khu vực của Guevara, quân nổi dậy lập ra bệnh xá cho những người bị thương nặng, nơi này ẩn kín trong rừng cây lá nên từ trên cao nhìn xuống sẽ không thấy được, song hơi cực cho bệnh nhân vì không khí quá ẩm. Một bệnh xá khác cũng được dựng trên sườn phía tây Sierra Maestra cùng với các trạm xá rải rác khắp khu du kích. Thuốc men thường xuyên được đem từ miền dưới lên. Một đài phát thanh sóng thấp được lập ở vùng thuộc Guevara hồi tháng Hai nhưng chỉ một số gia đình trong vùng và đội tuần tra nghe được. Guevara còn chế ra các thiết bị gây nổ như M-26 và dựng một lò mổ để mổ xẻ các con thú rừng bắt được cùng với một xưởng làm xì gà nhỏ.
Tinh thần nâng lên nhờ kỷ luật chặt chẽ cộng với cấp lãnh đạo luôn nêu gương. Fidel, Raúl, Che và vài anh em khác luôn đi tiên phong, không bao giờ để cho quân phải liều thân. Guevara chỉ ngồi xuống ăn khi thấy quân du kích có đủ phần ăn y như mình. Universo nhớ đã dùng chung phần cơm gà trên dĩa với Fidel, khi cả hai ăn xong phân nửa phần mình, còn lại một miếng thịt thì không ai chịu ăn hết. Guevara nhớ thứ duy nhất không bao giờ thiếu là cà phê, bởi họ luôn xin được ở chòi của nông dân. Che Guevara thường xuyên viết bài và nhật ký với sự quan sát nhạy bén, nên hiếm khi bỏ sót chi tiết nào về cuộc chiến ở Sierra.
Ðối với Fidel bây giờ cần có tổng tấn công, trong đó kêu gọi đoàn kết cách mạng. Faustino Pérez, lúc này là đại diện của Ban Chỉ Huy Phong Trào Quốc Gia ở Havana, đầu tháng Ba trở lại Sierra họp với Fidel và các thành viên khác, đã cùng ký bản “Toàn Quốc Kháng Chiến Chống Chế Ðộ Bạo Tàn” kêu gọi tổng tấn công. Bản Tuyên Ngôn cũng xác định Phong Trào đã chọn Manuel Urrutia Lleó làm người đứng đầu chính phủ lâm thời sẽ được thành lập sau khi Batista đổ, với sứ mệnh chuẩn bị bầu cử quốc gia.
Urrutia năm mươi tám tuổi, là chánh án Tòa Thượng Thẩm Oriente, đã từng bỏ phiếu bất đồng khi hai đồng nghiệp của ông kết tội quân viễn chinh trên chiếc Granma và những nhà hoạt động Phong Trào bị bắt trong cuộc nổi dậy thất bại ở Santiago hồi tháng 11 năm 1956. (Phán quyết buộc quân nổi dậy lãnh án tám năm tù). Urrutia sau đó đã viết rằng đối với ông, các bị cáo là “mẫu mực của nhân phẩm và lòng yêu nước” và ông bất đồng với án phạt vì “trong điều 40 Hiến Pháp Cuba vào thập niên 1940 có nói đến ‘quyền thiêng liêng chống kẻ áp bức’” Urrutia cũng là người đồng cảm với Phong Trào 26 tháng Bảy.
Lúc Fidel mới có ý định về chính phủ lâm thời, ông nghĩ tới Raúl Chibás và Felipe Pazos, những người cùng ký bản Tuyên Ngôn tháng Bảy năm 1957, làm ứng cử viên chủ tịch. Tuy nhiên, Chibás từ chối còn Pazos thì Fidel thấy quá dấn sâu vào chính trị truyền thống. Sau đó, ông nghĩ tới Urrutia và tới tháng Mười Một ông cử phái viên tới Santiago trao cho ông này quyền chủ tịch đại diện cho Phong Trào. Urutia đồng ý, từ chức quan tòa và đi Mỹ vào cuối tháng mười hai để đợi ngày được gọi về nhận trách nhiệm “dẫn dắt đất nước đi tới dân chủ, tự do và một chế độ công bằng” theo như Bản Tuyên Ngôn khi Batista bị lật đổ.
Bản Tuyên Ngôn “Toàn Quốc Kháng Chiến” nói rằng ngày 1 tháng 4, tất cả xe cộ trên xa lộ và đường cái phải ngưng lưu thông và xe nào chạy sẽ bị bắn. Sau ngày đó, sẽ cấm đóng thuế ở Cuba – ai đóng sẽ bị coi là “không yêu nước và chống cách mạng.” Lúc này Quân Nổi Dậy có không quá ba trăm người nhưng Fidel vẫn tuyên bố “từ phút này trở đi, cả nước phải đấu tranh chống chế độ bạo tàn, cả nước nhất định tự do hoặc tàn lụi!”
Ngày 9 tháng 4 đã định là ngày tổng tấn công. Các đại diện Phong Trào được lệnh tăng cường các hoạt động bí mật và Quân Nổi Dậy sẵn sàng phối hợp. Cuối tháng ba, quân Fidel được tăng cường một máy bay hai động cơ C-47 từ Costa Rica đến với vũ khí và đạn dược cùng với hai viên chức quan trọng là Pedro Miret, cố vấn quân sự chính và Huber Matos, người đã tổ chức chuyến bay và đưa thư của Fidel cho tổng thống Costa Rica.
Tuy nhiên, cuộc tấn công thảm bại vì tổ chức kém, nhất là ở Havana, các nhóm phối hợp không tốt, định thời gian sai, dân chúng đáp ứng và tham gia không đủ.
Chính phủ tăng cường thêm bảy ngàn quân và sẵn sàng để đè bẹp cuộc tấn công. Hôm đó, ít nhất một trăm người Cuba bị cảnh sát giết và nhiều trăm người bị bắt. Tổng Tư Lệnh Batista kết luận rằng thời cuộc đã thay đổi và sau khi bại trận hoàn toàn, quân nổi dậy ở Sierra Maestra sẽ bị quân đội dẹp tan.
Lúc bấy giờ, chính Batista quyết định tổng chiến. Cuối năm 1957, quân đội Batista tấn công để cô lập Sierra Maestra với bên ngoài. Họ định bao vây Sierra và từ từ thắt chặt vòng vây lại, rồi đánh đòn cuối cùng vào trụ sở Fidel ở La Plata ngay trung tâm Sierra Maestra. Quân Batista có mười ngàn lính với pháo binh, trực thăng, máy bay và hải quân bao vây tứ phía.
Quân đoàn 1 của Fidel Fidel có 280 quân vũ trang, rồi sau đó tăng cường thêm vài chục người từ “Mặt Trận Thứ Ba.” Batista đông quân và hỏa lực hơn song Fidel đã biến núi thành pháo đài mà ông có thể bảo vệ với ít quân hơn, vì mọi người đã quen thuộc từng hóc hẻm trong rừng và từng nhà nông dân với các ngõ ngách. Cả hai bên đều biết đây là trận chiến quyết định và Fidel thấy đây là cuộc mạo hiểm. Ông chuẩn bị nhường lãnh thổ tới một mức nhất định, bảo vệ trụ sở La Plata rồi phản công bằng cách mai phục và chiến đấu đến cùng.
Cuộc tấn công của Batista kéo dài bảy mươi sáu ngày thì bị quân Fidel đẩy lùi. Nhiều lần quân nổi dậy suýt thua do nhiều vị trí và làng mạc quanh La Plata bị chiếm, song Fidel liều mọi cách ngăn quân Batista xâm nhập những chóp núi quan trọng, ở đó quân du kích có thể triển khai bắn xuống để đẩy lui kẻ thù. Fidel, khi đi xe jeep khi thì đi bộ, di chuyển từ điểm này qua điểm nọ cùng Celia và một trợ lý nữa. Fidel cũng lần đầu tiên áp dụng chiến tranh tâm lý. Ông cho lắp loa phóng thanh hát vang quốc ca, những bài ca yêu nước và những lời hô hào cách mạng đển làm đoàn quân Batista đang đuối sức mất nhuệ khí. Rồi cuộc tấn công cũng kết thúc.
Có điều thú vị là Fidel đã cư xử theo tinh thần mã thượng với vài sĩ quan chính trong quân đội Batista. Lúc bắt đầu cuộc tấn công, tướng Eulogio, chỉ huy trưởng khu vực trong quân đội Batista có gửi một thông điệp yêu cầu Fidel đầu hàng. ông phúc đáp ngay, “Tôi tôn trọng anh. Tôi trân trọng anh là đối thủ. Tôi cảm kích những tình cảm cao thượng của anh với chúng tôi, dù sao cũng là đồng hương chứ không phải kẻ thù của nhau, vì chúng tôi không chiến đấu chống lại quân vũ trang mà chống lại chế độ độc tài. Chắc khi nào xong cuộc chiến, nếu chúng tôi còn sống, tôi sẽ lại viết thư nói rõ cho anh biết ý tôi và cho anh biết tôi nghĩ sao về anh, về quân đội anh và chúng ta có thể làm việc vì lợi ích của Cuba...”
Ðầu tháng 7, quân nổi dậy đẩy lùi cuộc tấn công của Batista, Fidel đánh bại một đạo quân do thiếu tá José Quevedo cầm đầu, đổ dọc theo bờ biển để ập vào Sierra từ thượng nguồn sông La Plata. Quân đội chính phủ đã đầu hàng quân nổi dậy ở trận El Jigue, và Fidel đã viết thư cho viên thiếu tá, vốn cùng là sinh viên trường luật hồi ở Havana rằng “tôi không bao giờ nghĩ là có ngày, chúng ta lại chiến đấu chống lại nhau, dù thật ra tình cảm của chúng ta với tổ quốc đâu có gì khác nhau. Tôi trách cứ hành động của quân đội nói chung, nhưng tay tôi hoặc đồng đội tôi không bao giờ vấy máu hay xử tệ với tù binh hết. Tôi viết những dòng này trong lúc cấp bách không phải để yêu cầu anh gì cả mà chỉ để chào và chân thành chúc anh may mắn.” Năm ngày sau, Fidel gởi cho Quevedo một thông điệp khác rằng, “quân của anh đã bị bao vây, họ không có hy vọng nào được cứu thoát. Trong tình cảnh này, tôi cho anh được đầu hàng trong danh dự. Tất cả người của anh sẽ được đối xử tử tế và tôn trọng. Các sĩ quan sẽ được giữ vũ khí.” Tuy nhiên, Quevedo vẫn tiếp tục chiến đấu. Sau đó, Fidel phái người tới yêu cầu anh ta đầu hàng để bảo toàn mạng của cả hai phía. Hai ngày sau, Quevedo đầu hàng, quân nổi dậy nhận 220 tù binh, Fidel nhắn Guevara chuẩn bị bữa ăn trưa cho các tù binh trước khi thả họ. Ba ngày sau, tù binh được chuyển giao cho hội chữ thập đỏ quốc tế và Che Guevara ngồi trên lưng con lừa nhỏ đến nơi để quan sát. Fidel lại băng qua núi để chiến đấu ở Santo Domingo.
Ngày 12 tháng 8, Fidel và Che lại có mặt ở Las Mercedes để quan sát việc chuyển giao khoảng 100 tù nhân của một đơn vị Batista khác cho hội chữ thập đỏ. Họ gặp viên đại tá quân đội đại diện cho phía bên kia ở đây, mọi người dùng cà phê và nói chuyện thân mật. Viên đại tá nói ông ta nghĩ cuối cùng quân nổi dậy sẽ thắng, “nhưng các anh sẽ nhận một đất nước Cuba đã bị tàn phá.” Khi ấy, Fidel chú ý tới chiếc trực thăng của viên đại tá đậu bên ngoài, viên sĩ quan mời họ bay thử với ông ta. Fidel cùng với Che, Celia cùng với một đại úy quân nổi dậy bay phía trên Sierra chừng 15 phút. Lần đầu tiên, Fidel đi máy bay trực thăng còn các phụ tá thì hết sức lo lắng cho sự an toàn của ông. Tuy nhiên, bản tinh của Fidel là như vậy. Rời Las Mercedes, Fidel trở về hoạch định cuộc phản công và đó là đợt tấn công cuối cùng trong cuộc chiến. Celia luôn ở bên cạnh ông. Lần duy nhất họ rời nhau là khi Fidel nhờ cô giải quyết vài việc của quân nổi dậy ở La Plata trong khi ông tham gia vào một trận đánh đột ngột. Túi áo của Celia luôn đầy ắp những giấy tờ tài liệu của Fidel và quân nổi dậy - cô y như một văn phòng di động.
Batista thua trong “cuộc tấn công mùa hè” với gần 1.000 lính chết lẫn bị thương, cộng với 400 tù binh mà quân nổi dậy cứ bắt rồi lại thả. Fidel thu được 500 vũ khí hiện đại, trong đó có hai xe tăng. Với 321 quân, họ đã đẩy lùi được cuộc tấn công quy mô của Batista. Lúc này, các nhà chính trị và quan chức cao cấp ở Havana đều đoán rằng chế độ này sẽ không kéo dài lâu. Fidel cho phát trên Ðài Phát Thanh Nổi dậy (mà họ đã lập ra trước đó) khắp Cuba từng chi tiết của thắng lợi.
Cuối tháng sáu, Raúl Castro có chiến lược bắt cóc bốn mươi chín công dân Mỹ ở phía đông Oriente để buộc không quân Batista ngừng ném bom các đơn vị của anh ở “Mặt Trận Thứ Hai” và các gia đình nông dân ở quanh đó. Anh đã không hỏi ý Fidel vì thấy máy bay Batista không chỉ đổ nhiên liệu mà còn lấy thêm bom ở Guantánamo nữa.
Lực lượng của Raúl bị dội bom không ngừng, các cuộc tấn công hỏa tiễn và oanh tạc liên tục diễn ra giữa lúc họ sắp hết đạn nên buộc phải làm như vậy. Tổng lãnh sự Mỹ khi ấy là Park Wollam đi từ Santiago lên Sierra để thương lượng việc thả con tin với Raúl và ông này được Raúl đưa cho xem các mảnh bom Mỹ và những tấm ảnh chụp ở Guantánamo. Trước đó, các con tin cũng được dẫn đi xem các thiệt hại do bom và những nạn nhân bị cháy xém vì bom napal. Ông lãnh sự và những người Mỹ được đối xử tử tế rồi được thả ra sau đó. Trong thời gian này, quân địch ngưng không kích quân nổi dậy, còn Raúl thì có thời gian chuẩn bị và tổ chức lại quân du kích. Trước sự kiện này, Fidel xác định ủng hộ hành động của em trai, điều này càng cho thấy vai trò lãnh đạo cuộc chiến của ông.
Fidel, ngày càng cư xử như một lãnh đạo đất nước, vào tháng Bảy đã giải quyết rất khéo léo một sự việc xảy ra sau đó với Mỹ. Lúc Batista rút lui quân canh phòng ống dẫn nước từ lãnh thổ Cuba tới căn cứ hải quân Guantánamo (thuộc lãnh hải của Cuba), Hải Quân Mỹ lãnh lấy trách nhiệm khu này nên quân nổi dậy phản đối ngay vì thấy đó là hành động can thiệp của Mỹ. Phái viên quân nổi dậy đi Santiago thương lượng với Mỹ và phản đối đề nghị khu vực ống dẫn nước là “khu vực trung lập.” Lúc này, Fidel ra bản tuyên bố chính thức, “Sự có mặt của quân đội Mỹ là bất hợp pháp và là xâm lược lãnh thổ Cuba, nhưng chúng tôi sẵn sàng bảo đảm sẽ không can dự đến việc cung cấp nước vì chúng tôi không chống lại chuyện đó...” Thông điệp này vừa cương quyết vừa ôn hòa, và ngôn từ của Fidel khéo léo nói lên rằng ông không muốn tranh cãi với Mỹ, song ông cũng không nhượng bộ nếu chủ quyền Cuba bị xâm phạm. Chính sách của ông đối với Mỹ về sau vẫn luôn là như vậy.
Cùng lúc đó, Fidel Castro cũng chú trọng đến tính đoàn kết và ôn hòa. Ðài phát thanh Nổi dậy phát từ vùng núi “Bản Tuyên Ngôn Ðoàn Kết của Sierra Maestra”, hay Hiệp Ước Caracas. Hiệp ước này càng làm tăng thêm hình ảnh lãnh đạo quốc gia của ông không có gì phải bàn cãi và tất cả những người ký vào “bản tuyên ngôn đoàn kết” đều là những nhà chính trị ôn hòa và ngầm công nhận điều này.
Bản tuyên ngôn không phải chương trình cách mạng mà là hiệp ước “tạo nên liên minh dân sự, cách mạng gồm mọi thành phần ở Cuba theo chiến lược chung để đánh bại chế độ độc tài bằng các phương tiện khởi nghĩa vũ trang và huy động toàn bộ công nhân viên chức mọi thành phần, tham gia vào cuộc tổng tấn công trên mặt trận công dân. Còn trên mặt trận quân sự thì sẽ phối hợp hành động cả nước. Về tương lai thì có hai điểm: lập chính quyền tạm thời để tạo ra các quyền hiến pháp và dân chủ; lập cương lĩnh nhà nước tối thiểu để phạt những ai phạm tội, vì quyền lợi công nhân, hoàn tất hiệp ước quốc tế, trật tự công cộng, tự do, hòa bình và tiến bộ chính trị, xã hội, kinh tế của dân Cuba.” Bản tuyên ngôn cũng yêu cầu Mỹ “ngừng hỗ trợ quân sự và các hình thức trợ giúp khác cho nhà độc tài.”
Giữa tháng 9, Fidel Castro lãnh đạo “quân đoàn 1, mang tên José Martí, ra khỏi vùng núi để khởi động cuộc tấn công chiếm phần lớn tỉnh Oriente, rồi bao vây Santiago buộc quân địch đầu hàng. Quân của Raúl ở phía đông bủa ra tấn công quân Batista từ phía sau. Bấy giờ Fidel đã có động lực quân sự và tài nguyên mà trước đây ông thiếu: các chủ đất, các nhà công nghiệp, doanh nghiệp cũng đóng góp cho Phong Trào Ngày 26 Tháng Bảy. Ðầu tháng Chạp, quân đoàn của Fidel thắng trong trận chiến gay go ở tỉnh Guisa, mở đường vào trung tâm Oriente. Cùng ngày, Manuel Urrutia đã bí mật đáp máy bay xuống cánh đồng ở ngoại ô phía tây Sierra Maestra, sẵn sàng trở thành chủ tịch lâm thời của Cuba. Ông này bay từ Caracas, đem về một đợt vũ khí đạn dược của tổng thống lâm thời Venezuela hỗ trợ quân nổi dậy.
Từ Guisa, Fidel thừa thắng chiếm luôn các tỉnh Baire, Jiguaní, Maffo và Contramestre vừa ra tuyên ngôn, tối hậu thư trên Ðài Phát Thanh Nổi dậy mỗi ngày. Ngày 20 tháng Chạp, tỉnh Palma Soriano, phía tây bắc Santiago thất thủ. Batista bắt đầu chuẩn bị chạy trốn khỏi Cuba. Dân chúng Havana, thành thị lẫn nông thôn đâu đâu cũng công khai chống lại y và ủng hộ quân kháng chiến. Con tàu chế độ độc tài đang chìm dần. Ở Havana, các viên chức cao cấp bí mật cử người liên hệ với đại diện của Fidel đề nghị giảng hòa bằng cách thay Batista bằng ban hành chính quân dân sự trong đó có tướng Eulogio Cantillo, người mà Fidel đã trao đổi thư trong cuộc tấn công mùa hè. Ban này được Mỹ ủng hộ. Fidel đã lường trước chuyện này và gửi lại thông điệp ngắn: “Phản đối các điều kiện. Hãy sắp xếp cho tôi gặp riêng Cantillo.”
Fidel và Cantillo gặp nhau gần Palma Soriano ngày 28 tháng Chạp và ông phản đối chuyện ủy ban hành chính, nói chính quyền phải về tay cách mạng. Santiago đã bị bao vây và Cantillo đồng ý sẽ dẫn đầu cuộc nổi loạn, trao quân của ông ta cho Fidel vô điều kiện. Khi ấy, Celia và các lãnh đạo khác cũng có mặt cùng với thiếu tá Quevedo, tư lệnh quân đội Batista đầu hàng hồi tháng Bảy được Fidel đưa về Quân Nổi Dậy. Tuy nhiên, sau đó Cantillo thất hứa, báo cho Batista biết chuyện Ban Hành Chính và dành thời gian cho Batista kịp rời nước đi Cộng Hòa Dominica cùng gia đình và các cộng sự thân tín sau nửa đêm Giao Thừa. Hành động cuối cùng của ông ta là chỉ định Tướng Cantillo làm chỉ huy các lực lượng vũ trang.
Sáng đó ở thủ đô, Cantillo lập Ban Hành Chính do thẩm phán tòa án tối cao Carlos M. Piedra làm chủ tịch, Fidel phải hành động ngay. ông nói trên Ðài Phát Thanh Nổi dậy, ra tối hậu thư cho quân đội ở Santiago đầu hàng trước 6 giờ chiều, nếu không sẽ tấn công. Ðoạn ông ra bản tuyên ngôn toàn quốc, tố cáo Ban Hành Chính là “những kẻ tòng phạm của chế độ bạo tàn” và kêu gọi tổng tấn công ngày hôm sau. Ông ra lệnh cho Camilo Cienfuegos và Che Guevara hành quân tới chiếm Havana, trại Columbia và pháo đài La Cabana.
Ở Havana, Ban Hành Chính sụp đổ trước khi trời tối. Cả thành phố vui mừng hát hò tới khuya, không có bạo động hay trả thù gì cả. Nhân dân Cuba đã nhớ lời kêu gọi của Fidel qua truyền thanh không tự tay thi hành công lý.
Ngày 2 tháng Giêng, Fidel Castro và đoàn hộ tống vào Santiago trong niềm vui bùng vỡ. Ông chiếm lấy các trại Moncada tượng trưng, nơi đã khởi động cách mạng ngày 26 tháng Bảy năm 1953. Fidel thông báo Manuel Urrutia được cử làm chủ tịch lâm thời Cuba, tuyên bố Santiago là thủ đô lâm thời và tối hôm đó đã đọc diễn văn đầu tiên với tư cách nhà lãnh đạo cách mạng thắng lợi trước đám đông cuồng nhiệt vui mừng. Ông nói về tương lai sắp đến, “Giờ đã đến lúc bắt đầu Cách Mạng. Cuộc Cách Mạng sẽ không dễ dàng, sẽ còn khó khăn và gian khó. Lần này, Cuba đã may mắn. Cách Mạng sẽ nắm quyền. Lần đầu tiên, nước cộng hòa sẽ hoàn toàn tự do và dân chúng sẽ có được những gì chúng ta xứng đáng được hưởng. Nhân dân Cuba đã thắng trong cuộc chiến này!...”