Hai tuần sau chiến thắng ở La Plata, máy bay ném bom B-26 và máy bay chiến đấu P-47 của lính Batista đột kích quân trại của Fidel ngay giữa lòng Sierra Maestra. May mắn lắm họ mới thoát chết (bom nổ ngay trên bếp lò lớn nơi họ đang nấu bữa ăn sáng), song nghĩa quân lại bị phân tán lần nữa. Ðến ngày thứ ba sau vụ oanh tạc trên sườn núi Caracas, Fidel mới tái hợp được lực lượng đã được chia làm ba do ông, Raúl và Che dẫn dắt.
Qua đó, Raúl và Che đã nổi lên là lãnh đạo chính của quân nổi dậy dưới quyền Fidel. Trong hai tháng kể từ chuyến đổ bộ từ tàu Granma, Raúl và Che dễ dàng vượt xa các đồng đội khác như Ramiro Valdés, Camilo Cienfuegos và Universo Sánchez về tài chỉ huy. Raúl cũng như Che đều có học vấn cao, tinh tế và trưởng thành về mặt chính trị hơn những người khác. Về tư tưởng, Raúl đã từng là đảng viên Cộng Sản gần bốn năm, còn Che lớn hơn ba tuổi đã tỏ rõ mình là môn đồ của chủ nghĩa Marx-Lenin.
Cả hai thân với Fidel theo cách khác nhau: Raúl thì qua cá nhân và chính trị còn Che thì nhờ tính uyên thâm, châm biếm và nhạy bén. Dù Che không bao giờ vượt qua hẳn mặc cảm là người nước ngoài, song anh là lương tâm của cách mạng Cuba hoặc chí ít anh đã cố để được như vậy. Khác với Raúl, anh không phải là nhà chính trị thực tế. Anh không ngần ngại va chạm với Fidel về vấn đề tư tưởng trong cuộc chiến ở Sierra. Có thể Che ngây thơ, song anh là người lý tưởng chân thật và trong sáng nhất của cách mạng. Bề ngoài, quan hệ của Che với Raúl không nồng nhiệt như với Fidel song dù sao họ vẫn thân nhau. Che dạy Raúl tiếng Pháp nhiều tháng trời ở Sierra và không bao giờ cạnh tranh với Raúl trong quan hệ với Fidel.
Sống và chiến đấu ở bên nhau thì quan hệ, tính cách, ưu cũng như khuyết điểm của mọi người dễ bộc lộ hơn trong những hoàn cảnh khác. Ðiều ấy rất đúng trong cuộc chiến du kích gian khó và nguy hiểm này. Sau hai tháng thì Fidel, Raúl và Che đều hiểu rõ vai trò lịch sử của mình, thể hiện trong hành động, niềm tin, hành vi cá nhân, các cuộc đối thoại, thư từ và trong trường hợp của Raúl và Che là những trang nhật ký chiến dịch. Biết được Fidel, Raúl và Che ở Sierra Maestra tức là đã hiểu con người của họ về sau lúc nắm quyền. Khác với bản chất của cuộc cách mạng, con người họ không bao giờ thực sự thay đổi.
Sau hai tháng ở Cuba, vụ dội bom ngày 30 tháng Giêng năm 1957 là lần thứ ba quân nổi dậy suýt bị tiêu diệt. Lần đầu tiên là vụ đắm tàu Granma, kế đến là cuộc thảm sát ở Alegría de Pío. Sở dĩ lính Batista đột kích trên sườn núi vì có một kẻ phản bội tên Eutimio Guerra chỉ điểm. Quân du kích đã từng ở nhà Eutimio để chuẩn bị cuộc đột kích La Plata và hắn cũng đã từng dẫn đường cho họ vào núi mấy tuần. Fidel, với giác quan thứ sáu thường cảm nhận được nguy hiểm cùng kẻ nội gián, cũng như Raúl, vốn rất quen thuộc với các âm mưu gián điệp và phản gián, lần này lại đều không thể nhìn thấu con người Eutimio. Ðiều đó đã dẫn đến một trong những lần thất bại nặng nề của chiến tranh du kích. Một tuần trước, quân Batista đã cố bao vây và tiêu diệt quân nổi dậy, song Fidel đã mai phục giết được năm tên lính. Ðây là lần đầu tiên, ông chạm trán với trung úy Ángel Sánchez Mosquera, có lẽ là chỉ huy chiến trận giỏi nhất quân đội Batista, người này cho tới cuối cuộc chiến, vẫn là báo ứng của Fidel.
Eutimio người mảnh khảnh, khoảng ba mươi tuổi, luôn tươi cười, được coi trọng trong vai trò người dẫn đường và hỗ trợ cách mạng. Hôm đó, Fidel cho phép anh ta ghé về thăm nhà ở El Mulato, phía tây bắc chỗ quân nổi dậy đang nghỉ ngơi. Fidel còn cho anh ta tiền nữa. Tuy vậy, trên đường trở lại, anh ta bị lính của Sánchez Mosquera tóm và buộc anh ta phản bội lại quân nổi dậy nếu không sẽ bị giết. Chẳng những thế, Eutimio còn được hứa cho mười ngàn peso, một chức lớn trong quân đội và một nông trại nếu anh ta ám sát được Fidel hoặc chỉ điểm chỗ ở của quân du kích để quân đội Batista tiêu diệt. Tất nhiên, anh ta bằng lòng và được bọn lính chỉ dẫn cách hành động rồi năm ngày sau thì được thả đi. Lúc này, quân Fidel đang di chuyển về hướng tây dãy núi Caracas để sắp tới họp với các lãnh đạo Phong Trào 26 tháng Bảy từ thành thị đến. Hai ngày sau, Eutimio gặp lại quân nổi dậy ở rừng cà phê. Quân du kích không nghi ngờ gì và nồng nhiệt chào đón anh ta. Ertimio ta bịa rằng đã phải vượt qua một trận địa trên đường đi, thấy nhà cháy nên vội vã quay lại báo cho Fidel biết bọn lính đang ở vùng lân cận. Anh ta còn mang kẹo về cho họ nữa.
Nghe vậy, Fidel quyết định di chuyển trong đêm, lên cao rặng núi Caracas và ở lại đó. Ðêm lạnh, khi đi ngủ, Fidel bèn đắp chung mền với Eutimio. Hắn để cây súng và hai quả lựu đạn dưới mền đoạn hỏi Fidel về vị trí quân du kích canh gác ở chung quanh. Theo bản năng, Fidel trả lời lảng tránh. Eutimio tất nhiên không có gan bắn Fidel lúc đó và ở đấy, do vậy hắn nghĩ nên để cho bọn lính làm. Sáng hôm sau, 28 tháng Giêng, Eutimio lại giả vờ đi tìm thức ăn và kiếm một vài du kích bị lạc nhóm. Ðoạn, hắn đi thẳng tới chỗ bọn lính để báo cáo tình hình quân nổi dậy. Ðương lúc đó, Fidel bỗng quyết định chuyển quân lên cao hơn ba trăm thước trên núi, xa khỏi khu vực đặt bếp ở hẻm núi - trực giác của ông một lần nữa đã cứu đồng đội.
Theo tính toán của Fidel thì đặt trại trên đỉnh Caracas sẽ khỏi bị bao vây vì đường núi dốc và khó trèo, rồi ông phái bốn người đi Manzanillo báo tin thêm về cuộc họp với các lãnh đạo Phong Trào. Quân đội nổi dậy trên núi lúc bấy giờ có hai mươi lăm chiến binh, mười bảy người trong số đó thuộc đội quân viễn chinh trên chiếc Granma. Fidel cũng nói chuyện với đoàn quân của mình về những mối nguy hiểm mà họ có thể gặp phải khi đánh mất kỷ luật và nhuệ khí, đồng thời cảnh cáo rằng “ba tội sẽ bị xử tội chết là không phục tùng mệnh lệnh, đào ngũ và lạm quyền.” Khi ấy, Eutimio đến Macho, phía nam núi Caracas để bàn với quân lính cách tiêu diệt Fidel và quân du kích. Biết rõ vị trí của nhóm quân Fidel, biết chỗ rồi, tư lệnh địch quyết định tấn công từ trên không, còn Eutimio được xe jeep chở ra cảng Pilón để hôm sau cho lên máy bay chỉ điểm trại du kích.
Buổi sáng cuối tháng Giêng, không lực Batista tấn công vào trại và quân nổi dậy phải chia làm ba nhóm chạy ra khỏi nơi đó. Trưa hôm sau, nhóm Raúl và hai ngày sau thì nhóm Che tái hợp lại với nhóm Fidel. Sau đó, Fidel được biết ba nhóm lính đang di chuyển về phía dãy Caracas, ông bèn ra lệnh cho quân đi về hướng tây. Giữa rừng núi trùng điệp, các nhóm quân khó lòng nghe hoặc thấy nhau nên nhờ giỏi định hướng và biết rõ vùng này, Fidel đã tránh được bọn lính. Tuy nhiên, tình hình quân du kích thật thảm hại - họ vừa phải chống chọi với cái đói cồn cào và những cơn khát cháy cổ, vừ phải đối phó với bệnh tật, nguy hiểm nhất là bệnh sốt rét rừng.
Cuối ngày hôm đó, Eutimio lại xuất hiện trong bộ đồ mới và mang tới năm mươi hộp sữa đặc cho quân du kích đang nghỉ ngơi trong một nông trại. Hắn lại được quân du lích chào đón. Fidel chia quân ra làm hai để đi về hướng tây, một nhóm đi trước ngay trong đêm, còn nhóm Fidel, kể cả Eutimio, thì hôm sau mới đi. Lúc này, Eutimio xin gặp một mình Fidel trong rừng cà phê để tính ra tay hành sự song do có Universo đi theo nên hắn mất can đảm. Cuối cùng, Fidel sinh nghi vì Eutimio thường hay bỏ đi đột ngột, lấy được thức ăn dễ dàng và hay gạn hỏi đủ điều. Lúc bấy giờ nhiều thành viên Phong Trào ở Manzanillo và Santiago đã biết được các sĩ quan quân địch hay nhắc đến tên Eutimio nhưng do Fidel không biết điều này nên ông muốn có thêm chứng cứ rồi mới hành động.
Một ngày đầu tháng 2, máy bay Batista bỏ bom oanh tạc dãy núi Caracas lần nữa và Eutimio gợi ý bảo Fidel nên dựng trại quanh hẻm núi. Fidel đồng ý cho quân dựng trại gần hẻm núi. Tuy nhiên, hôm sau máy bay quay lại nữa và bỏ bom.
Eutimio hốt hoảng đùa, “Tôi đâu có bảo chúng ném bom ở đây đâu,” lúc này Fidel bắt đầu hiểu ông đang có trong tay một kẻ phản bội. Trời hôm ấy mưa rất lớn nên ở hẻm núi nước đổ xuống nhiều hơn ở ngoài. Eutimio lại trở về sau chuyến đi bí ẩn và tình nguyện gác ở ngõ vào hẻm núi. Rõ ràng, hắn muốn dụ họ vào đó nhưng mưa quá lớn nên quân du kích không vào. Bấy giờ quân đội Batista đến rất gần nhóm du kích. Sáng thứ Bảy 9 tháng Hai, Eutimio đã ra ngoài với lý do tìm thêm thức ăn, Raúl ghi lại trong nhật ký của mình như sau “hành vi của Eutimio khiến cho Fidel rất chú ý.” Khi ấy, Universo Sánchez chạy vào báo tin một đoàn quân chính phủ đang tiến đến gần họ.
Bấy giờ, quân địch đã đến rất gần quân du kích. Sau đó, Fidel nghe một nông dân kể lại đã trông thấy Eutimio ở dưới đó ban sáng. Vậy là ông biết chắc Eutimio đã phản mình. Ông dẫn quân ra khỏi hẻm núi, lên đỉnh Espinosa và trông xuống vùng đó. Bỗng một số du kích thấy Eutimio chạy phía trước, sau lưng hắn là đám lính đang nhả súng vào quân Fidel. Một du kích nông dân bị giết.
Hỏa lực địch tiếp tục tấn công suốt mấy giờ và quân nổi dậy lại chia làm ba nhóm, lui về ngọn núi kế tiếp. Fidel và Raúl dẫn một nhóm gồm năm người rút lui dưới làn đạn bắn rát. Che, Juan Almeida và mười người nữa chạy theo hướng khác lên núi. Một lần nữa quân du kích bị phân tán, nhưng họ không để bị vây bắt. Dù một du kích quân hy sinh, nhưng nỗ lực của quân chính phủ trên núi vấp phải thất bại lớn. Theo kế hoạch định trước, tất cả các nhóm quân sẽ tụ họp lại trên ngọn núi Lomón kế bên, còn quân chính phủ thì cho máy bay oanh tạc khu rừng cả đêm đó. Tối đến, quân Fidel tập hợp lại và chỉ còn có mười tám chiến binh vì vài người đi làm nhiệm vụ cho Fidel, vài nông dân chịu không nổi đã bỏ về nhà. Bốn ngày sau , Fidel Castro tới nông trại ở tây nam Sierra Maestra, chẳng bao lâu lịch sử cách mạng đã sang trang ở đây. Họ vẫn chưa quên Eutimio.
Tới nông trại của hai vợ chồng nông dân, họ gặp Ban Lãnh Ðạo Phong Trào Quốc Gia rồi chuẩn bị để phỏng vấn với biên tập viên tờ New York Times. Họ tạo ấn tượng tốt và Fidel chứng tỏ ông là lãnh đạo đích thực của cách mạng. Dù chế độ Batista vừa quyết định ám sát Fidel song bây giờ ông cảm thấy tự tin vì đã làm chủ được tình thế.
Tháng thứ ba kể từ lúc lên bờ, Fidel đã gặp phải những tai họa khôn lường: đắm tàu ở bìa rừng đước, thảm bại ở Alegrío de Pío, ba lần quân bị tan tác, bị phản bội, và giờ đây là cuộc tấn công không ngừng nghỉ của toàn bộ binh lực hùng mạnh của Batista vào đội quân ít ỏi của ông. Tuy nhiên, những điều này không hề bẻ gãy quyết tâm chiến đấu của ông hay sự sẵn lòng trợ giúp của những người ủng hộ phong trào nổi dậy. Ở giai đoạn tiếp theo, Fidel dựa vào sức thu hút và trí tưởng tượng của mình để giữ cho tinh thần nghĩa quân luôn cao và mở rộng chiến tranh du kích.
Mới đầu, những nông dân ở đây có vẻ sợ quân nổi dậy song cách cư xử của họ khiến cho nông dân cảm thấy tin tưởng hơn. Họ xử tội những chủ đất và vệ binh đàn áp nông dân, giúp thu hoạch cà phê. Fidel luôn nói chuyện với cấp dưới, giải thích, lắng nghe và hỏi ý kiến họ về mọi việc. Theo lời Guillermo thì sau mỗi đợt hành quân, Fidel đều phân tích mọi chuyện xảy ra hôm ấy, các vấn đề của kẻ thù và của ta, đoạn đánh giá địa hình họ đang ở. Bởi vậy, ai cũng biết được chuyện gì đang xảy ra và hết sức kính trọng Fidel. Lúc có ai bệnh, hay cảm thấy khó chịu, ông tỏ ra hết sức lo lắng, luôn hỏi han “Anh thấy thế nào? Anh ngủ có được không? Thức ăn hôm qua được không?”, ông lo lắng cho từng người. Fidel còn biết cách lắng nghe nông dân và nói chuyện với họ. Ðối với ông, cơ bản là mỗi nông dân, dù già hay trẻ, cũng phải hiểu lý do đấu tranh cách mạng.
Tới cuối tháng Hai thì quân du kích ai cũng có râu và tóc mọc dài, quần áo thì bị sờn và rách hết, đầu đội đủ loại nón của lính hoặc nông dân. Vẻ bề ngoài khó coi cộng với mùi khó chịu của họ khiến cho ai mới gặp đều thấy hoảng sợ. Do sống trong điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh nên họ nói chuyện với nhau hết sức thô lỗ, tuy nhiên trước mặt phụ nữ, họ vẫn cố gắng để ý đến lời ăn tiếng nói.
Sáng sớm ngày 16 tháng 2, Fidel đã gặp người phụ nữ sau này trở nên một phần quan trọng nhất trong đời ông. Celia Sánchez Manduley, ba mươi sáu tuổi, độc thân, cực kỳ thông minh và giàu nghị lực. Với mái tóc sậm màu, không đẹp nhưng quyến rũ, Celia đã cống hiến hết mình cho lý tưởng Phong Trào 26 tháng Bảy. Là một trong năm con gái của bác sĩ Manuel Sánchez Silveira, Celia sống ở Manzanillo và Pilón ở phía tây nam tỉnh này. Từ nhỏ, cô đã quen với các chính trị gia, giới nông dân và dấn sâu vào chính trị. Sau cuộc chính biến 1952, Celia có đến Havana gặp các lãnh đạo đảng Chính thống, song đã không gặp Fidel Castro.
Khi Fidel lưu vong ở Mexico giữa năm 1955, sau khi ông ra tù và đang bàn tính chuyện xâm nhập Cuba thì Celia đã liên hệ chặt chẽ với Phong Trào còn non trẻ. Sau đó, cô đã đến ban lãnh đạo Phong Trào xin tham gia vào kế hoạch xâm nhập của Fidel song họ muốn cô ở lại Manzanillo để tổ chức hỗ trợ quân viễn chinh sắp đến.
Ở Oriente, Celia cùng Frank País tổ chức mạng lưới nông dân để đón chiếc Granma đưa quân viễn chinh về Sierra và họ đã đợi suốt bốn mươi tám giờ. Sau sự việc ở Alegría de Pío, là thành viên mới của Ban Chỉ Ðạo Phong Trào Quốc Gia, Celia đã tổ chức mạng lưới hỗ trợ du kích thành thị đầu tiên ở Manzanillo và gửi vũ khí, đạn dược, lương thực, vật dụng và người tình nguyện tới vùng núi qua mạng liên lạc nông dân. Tuy không nhiều lắm, song với Fidel lúc bấy giờ, mỗi viên đạn đều đáng giá. Chính Celia cũng là người đón Faustino Pérez khi anh này trở về từ Sierra hôm Giáng Sinh để báo cho thế giới biết Fidel vẫn còn sống và đang chiến đấu rồi giúp đưa Faustino đi tiếp tới Santiago và Havana. Celia cũng là người chuẩn bị cuộc họp cho Fidel với Ban Chỉ Huy Quốc Gia và sắp xếp cuộc phỏng vấn với tờ New York Times. Cô biến Manzanillo thành trung tâm hậu cần của quân nổi dậy, ngay dưới mũi cảnh sát Batista, Cục Tình Báo Quân Sự và quân đội. Celia là người cuối cùng trong số những phụ nữ mà định mệnh luôn sắp xếp để xuất hiện vào những giờ phút quan trọng trong đời Fidel.
Hôm ấy, khoảng nửa đêm Celia và Frank País được một du kích dẫn đường tới Sierra. Rạng sáng, họ tới đúng lúc Fidel và đồng đội vừa đi hành quân cả đêm về. Fidel và Celia gặp nhau lúc 5 giờ sáng giữa đồng cỏ cách nông trại vài trăm thước. Fidel đã gặp Frank hai lần ở Mexico còn Celia còn là nhân vật ẩn. Hai người không kể lại về lần gặp đầu tiên ấy, song ấn tượng ban đầu chắc là rất sâu sắc. Buổi gặp gỡ trên đồng cỏ đã đánh dấu sự ra đời của hai mươi ba năm liên kết cho tới khi bà mất.
Raúl cũng ra đồng gặp Celia và Frank rồi bốn người vừa nói chuyện và bàn bạc vừa đợi các lãnh đạo Phong Trào và phóng viên Mỹ cho đến tối. Fidel kể lại cho Celia và Frank chi tiết tất cả những gì xảy đến với quân nổi dậy từ lúc họ rời khỏi Mexico. Celia và Frank báo cáo lại cuộc nổi dậy thất bại ở Santiago, tiến trình mở rộng Phong trào cùng những tin đồn về việc Eutimio Guerra bị quân chính phủ mua chuộc. Fidel nhấn mạnh quân du kích hiện cần gấp tân binh, vũ khí và đạn dược từ thành phố chuyển đến. Họ còn cùng nhau lên kế hoạch biến Manzanillo thành trạm trung chuyển trên đường đến Sierra Maestra dưới sự chỉ đạo của Celia, và nông trại của Epifanio Díaz thành một kênh chuyển tiếp lên núi. Nông trại này mang tên Los Chorros, được chọn làm địa điểm gặp mặt vì gia đình Díaz rất đáng tin cậy – hai người con trong gia đình là thành viên Phong trào – và Fidel cho rằng nông trại này sẽ là cửa ngõ tuyệt vời để bước vào trận địa chiến tranh du kích.
Rạng sáng hôm sau, phái viên của báo New York Times là Herbert L. Matthews mới đến được điểm hẹn sau hành trình vất vả trên đường núi. Khi ấy, Matthews hoàn toàn không biết được du kích quân chỉ còn mười tám người và Los Chorros là doanh trại duy nhất của họ. Fidel đã khéo léo tạo ra ấn tượng lực lượng của mình đông hơn nhiều và đóng trong nhiều nông trại nằm xung quanh. Matthews nhận xét rằng Fidel đã “không cho quân chính phủ xâm nhập nổi Sierra Maestra trong khi thanh niên từ khắp nơi của Oriente lại có thể đến... được chào đón, vũ trang và bắt đầu hàng loạt cuộc đột kích hoặc phản công trong chiến tranh du kích này.” Ông còn kết luận: “Nhìn chung Tư lệnh Batista khó có hy vọng đàn áp nổi cuộc khởi nghĩa của Fidel. Hy vọng duy nhất của ông ta là dồn toàn bộ binh lực đột ngột tấn công chàng thủ lĩnh trẻ tuổi này và quét sạch đội quân của anh ta. Tuy nhiên, điều này khó có thể xảy ra.”
Ngay sau khi Matthews rời khỏi trại để đi Manzanillo, Fidel liền họp với các lãnh đạo Phong Trào. Trong suốt bốn giờ liền, cuộc họp xoay quanh vấn đề chiêu mộ thêm một lực lượng vũ trang ở các thành phố thuộc tỉnh Oriente cho quân du kích trên núi. Fidel đặt nặng vai trò hỗ trợ của Phong trào đối với du kích quân.
Cũng trong cuộc họp này, lần đầu tiên Fidel đề cập đến mức độ ưu tiên khác nhau dành cho lực lượng ở Sierra và thành thị. Chính sự phân biệt này đã làm leo thang cuộc cạnh tranh quyền lực giữa vai trò lãnh đạo trong Phong trào, khiến cho Phong trào 26 tháng Bảy sau năm 1959 bị tan rã và củng cố quyền lãnh đạo của các đảng viên Cộng sản mới ở Cuba do Fidel Castro đứng đầu. Nói theo cách này, đấu tranh chính trị trên vận mệnh tương lai của phong trào đã bắt đầu sau khi quân Fidel đổ bộ vào Cuba được hai tháng rưỡi, trong khi sức mạnh của họ chỉ giới hạn ở con số mười tám người.
Trong cuộc họp, Faustino Pérez, đứng cả về hai nhóm Sierra và thành thị, đề nghị lập một “mặt trận thứ hai” của chiến tranh du kích ở Escambray Sierra, trung tâm tỉnh Las Villas, nhằm làm giảm sức ép lên lực lượng của Fidel. Faustino cho rằng quân đội vũ trang Phong trào 26 tháng Bảy, tương ứng với Quân Ðội Nổi Dậy ở Oriente, và anh lập luận số vũ khí dễ tìm hơn ở Havana sẽ có thể sử dụng hiệu quả ở Escambray. Mặc dù Fidel không mấy bị thuyết phục bởi đề nghị này vì ông nghĩ việc quan trọng cần làm tại thời điểm này là dồn mọi nguồn lực có được cho hạt nhân của du kích quân hiện tại” nhưng ông vẫn chấp nhận. Che Guevara không tham dự cuộc họp vì anh không nằm trong ban lãnh đạo (và còn vì anh là người nước ngoài), cũng đã nhận định như sau: “Phong trào ở Sierra và thành phố thực tế là hai nhóm tách biệt, với chiến thuật và chiến lược riêng.” Anh còn thêm rằng “vài tháng sau vẫn chưa có dấu hiệu khác biệt trầm trọng đến nỗi đe dọa tính thống nhất trong Phong trào, nhưng rõ ràng chúng tôi có những quan niệm khác nhau.”
Fidel nhấn mạnh tầm quan trọng của phụ nữ trong cuộc đấu tranh cách mạng và tuyên bố ông sẽ thảo ra một bản tuyên ngôn “Lời Kêu Gọi Gửi Ðến Nhân Dân Cuba” kêu gọi cả nước ủng hộ cách mạng để Ban Chỉ Huy đem xuống núi phát cho dân Cuba. Ông đã học được ở Martí và Lenin cách dùng tuyên truyền để vận động nguồn lực cho phong trào. Vẫn như mọi khi, Fidel không phí thì giờ mà lại lao vào công việc quân sự, chính trị và tuyên truyền cách mạng. Dù vậy, ông vẫn kịp chỉ cho Celia cách dùng cây súng trường có viễn vọng kính của ông. Thật tuyệt vời là cuối cùng ông đã gặp được một phụ nữ vừa hiểu và chia sẻ các khái niệm chính trị, triết lý lại vừa là chuyên gia về vũ khí. Họ có vẻ rất hợp nhau.
Chiều hôm ấy Fidel ra lệnh hành quyết tên phản bội Eutimio Guerra. Thật không ngờ, hắn lại xuất hiện ở nông trại nơi quân Fidel đang họp với hy vọng giăng một cái bẫy khác cho Fidel. Hắn không biết mình đã bị phát giác. Trong khi đang quan sát khu vực nông trại, Eutimio gặp một người bà con thuộc quân nổi dậy và một nghĩa quân. Người bà con này biết được chuyện Eutimio bị tình nghi nên vội vã tìm Fidel báo tin, để người kia ở lại canh chừng hắn. Fidel không hề ngạc nhiên trước tin này, liền cho Juan Almeida dẫn một toán quân đến bắt hắn và đưa về trại. Quân nổi dậy ban đầu định yêu cầu Eutimio làm “tay trong” chống lại quân chính phủ nhưng hắn từ chối. Sau đấy, Fidel thẩm vấn một hồi lâu (Raúl nhận xét rằng họ có thể khai thác được nhiều thông tin hơn nếu tra tấn hắn, tuy nhiên “chúng tôi không áp dụng cách này ngay cả với những người tồi tệ như thế.”) Lúc bảy giờ tối, Eutimio Guerra bị xử bắn.
Fidel dành ba ngày tiếp theo ở nông trại để thảo ra bản tuyên ngôn “Lời kêu gọi gửi đến nhân dân Cuba” để kịp phân phát khắp đảo quốc vào khoảng thời gian mà các bài báo của Matthews được đăng trên New York Times. Fidel tính rằng bài báo của Matthews sẽ khẳng định sự thật ông vẫn còn sống – bản thân nó đã là một tin giật gân - kế đến bản tuyên ngôn ký tên ông được lưu hành khắp nơi sẽ củng cố thêm bội phần sự chân thật. Ðây cũng là văn bản chính thức đầu tiên của Phong trào 26 tháng Bảy được phát hành từ Sierra Maestra, một lần nữa khẳng định sự thật Fidel Castro đã giữ vai trò tổng tư lệnh của cuộc cách mạng.
Các lãnh đạo Phong Trào mang thêm báo chí tới nên Fidel biết được tình hình ở các nơi khác, trong đó có tin Mỹ hỗ trợ xe tăng, máy bay chiến đấu cùng vũ khí đạn dược cho Batista. Một tuần sau, bài báo của Matthews xuất hiện trên tờ Times và đăng làm ba kỳ. Ðoạn hay nhất của bài viết như sau: “Fidel Castro, lãnh đạo thanh niên Cuba nổi dậy vẫn còn sống, đang đấu tranh mãnh liệt và thắng lợi trong vùng Sierra Maestra hiểm trở, khó lòng xâm nhập được... Quân đội Batista có mặt quanh khu vực song họ phải đối mặt với kẻ thù nguy hiểm và khó chịu nhất...” Ở đoạn nói về Fidel, Matthews viết: “Cá tính của người này thật là mạnh mẽ. Quân du kích tỏ ra rất kính phục anh ấy. Vậy mới biết tại sao anh ấy đã đi vào trí tưởng tượng của thanh niên khắp đảo quốc Cuba. Con người này học thức, vô cùng tận tụy, có lý tưởng, dũng cảm và có phẩm chất lãnh đạo đặc biệt.”
Bài báo gây tiếng vang lớn. Do lệnh kiểm duyệt ở Cuba khi ấy đã bị hủy bỏ nên báo chí trong nước đua nhau in lại, lập tức đưa Fidel lên hàng anh hùng. Chính phủ Batista tự làm cho tình thế thêm tồi tệ khi Bộ Trưởng Quốc Phòng Santiago Verdeja ra bài phát biểu với phần cuối ghi “Chuyện này chỉ là tưởng tượng. Matthew làm gì có phỏng vấn Fidel Castro và nếu Fidel Castro còn sống thì phải có ảnh Matthews chụp với Fidel chứ.” Tất nhiên tờ Times có tấm ảnh đó và họ liền cho đăng ngay vào ngày hôm sau. Chuyến viếng thăm và bài viết của Matthews lcó tác động lớn đến sự nghiệp cách mạng của Fidel.
Ðối với Quân Nổi Dậy, ba tháng tiếp theo là thời kỳ mở rộng, chuẩn bị với vô vàn khó khăn gian khổ. Với một nhóm cách mạng khác ở Havana, đây là thời gian bi thảm. Còn với Batista, đây là giai đoạn bế tắc. Quân chính phủ không tài nào tiêu diệt được du kích quân, cũng như cảnh sát trong thành phố chẳng thể nào đập tan các tổ chức bí mật ngầm hỗ trợ, tuyên truyền cho chiến binh ở Sierra. Về phía Batista, quân nổi dậy còn tồn tại ngày nào thì ngày đó chế độ độc tài của hắn còn gặp nguy hiểm. Trong một cuộc nói chuyện với quân du kích, Fidel phát biểu như sau: “Ba lần chúng ta suýt bị tiêu diệt... kẻ thù đe dọa chúng ta ở khắp mọi nơi trong lúc từ chối chấp nhận sự hiện hữu của chúng ta ở đây... Chúng ta chỉ có mười hai khẩu súng trường và bốn mươi băng đạn, nhưng chúng ta đã giữ đúng lời hứa với nhân dân Cuba... Chúng ta đã trở về Cuba và có mặt ở đây!...”
Sau khi gặp Fidel, Frank País hứa sẽ đưa một nhóm quân tình nguyện lên cho ông. Một ngày tháng năm, năm mươi tám người do đại úy Jorge Sotús dẫn đầu được đưa từ Santiago và Manzanillo lên, trễ hơn ba tuần so với lịch trình và chỉ ba mươi người trong số đó có vũ khí. Bấy giờ quân nổi dậy đã có tám mươi hai người, bằng với lúc mới về đến Cuba trên chiếc Granma. Nhóm quân cuối cùng này được Celia bí mật tổ chức đưa lên.
Trong khi đó, Fidel nghe được trên đài phát thanh là Ban Chỉ Ðạo Cách Mạng Sinh Viên (BCÐCM) định tấn công dinh tổng thống ở Havana. Vụ này thất bại và ba mươi lăm người bị giết, lãnh đạo bị bắn chết và nhiều người nữa bị bắt tra tấn và giết hại. Phong trào này là của giai cấp trung lưu Cuba dẫn dắt. Fidel có nghe Faustino nói lại trước đó là BCÐCM có mời Phong Trào 26 Tháng Bảy tham gia nhưng Faustino từ chối. Bản thân Fidel hoàn toàn không tán thành cách hành động của DR. Trong cuộc trả lời phỏng vấn của phóng viên Mỹ trên đài phát thanh một tháng sau, ông nói, “như vậy là đổ máu vô ích. Sinh mạng của tên độc tài không phải điều ta cần. Tôi chống lại chủ nghĩa khủng bố.” Fidel không bao giờ đồng tình với việc ám sát trong chính trị. Hai mươi năm sau, bàn về vụ ám sát tổng thống John F. Kennedy, Fidel trở lại đề tài này và nói, “chúng tôi không bao giờ đồng tình với việc ám sát các lãnh đạo. Chúng tôi đấu tranh chống lại Batista trong hai mươi lăm tháng, nhưng không tìm cách giết Batista. Có lẽ giết Batista còn dễ hơn đột kích Moncada, nhưng chúng tôi không nghĩ là loại bỏ lãnh đạo là loại bỏ được chế độ vì chúng tôi chỉ chống lại chế độ. Chúng tôi đấu tranh chống tư tưởng phản động, chứ không chống lại con người.”
Lúc này, Fidel đang luyện cho quân du kích thành lực lượng chiến đấu hiệu quả, dạy cho các tân binh các bí quyết chiến đấu bất thường, cho họ làm quen dần với những cuộc hành quân khó khăn và cuộc sống gian khổ. Họ vẫn sống du cư, hầu như ngày nào cũng dời trại, đi cả đêm, có khi mấy ngày không ngủ. Thiếu lương thực nên theo Che kể thì họ đã buộc phải giết ngựa để lấy thịt ăn.
Sau thành công qua bài viết của Matthews trên tờ Times, Fidel muốn gặp thêm phóng viên Mỹ. Cuối tháng Tư, có hai phóng viên Hãng Truyền Hình Columbia CBS được Celia dẫn lên núi Turquino gặp Fidel. Họ phỏng vấn anh trước tượng bán thân của Martí mà Celia và cha cô dựng ở đó nhiều năm trước. Sau đó, Celia cùng đoàn CBS trở về Santiago, lúc đó Matthews lại đến Cuba nữa. Fidel nhờ Celia thông tin thêm cho Matthews về các hoạt động của quân nổi dậy.
Cuối tháng Năm, Fidel lại đưa quân đi đánh ở Uvero, ở đó quân nổi dậy di chuyển sang tận phía đông để đánh bọn lính ở bờ biển Caribê vì Fidel hay tin sẽ có chuyến hàng vũ khí hiện đại từ Santiago tới đó. Quân Fidel lúc bấy giờ đã lên tới một trăm hai mươi người và có thêm vũ khí. Trận chiến Uvero cực kỳ khó khăn và tốn kém: Trong số tám mươi quân tham gia, có sáu người bị giết và chín bị thương; trong năm mươi ba quân địch thì mười bốn bị giết, mười chín bị thương và mười bốn bị bắt làm tù binh. Có thể nói đây là cuộc chạm trán đẫm máu nhất từ sau vụ Alegría de Pío, kéo dài gần ba giờ, và lần này quân du kích thắng. Họ thu được hai súng máy với bốn mươi sáu khẩu súng trường. Fidel Castro tuyên bố “như vậy, cuộc chiến ở Sierra Maestra đã sang trang.” Lính của Batista bị thương cũng đều được Che chăm sóc rồi “cho bác sĩ của họ chữa trị, thế là quân chính phủ có thể đến đưa lính của mình về bệnh viện.”
Celia là người phụ nữ đầu tiên cùng tham gia trận Uvero với quân nổi dậy. Sau đó, cô đi Manzanillo bốn tháng để điều phối việc đưa người, vũ trang và vật dụng tới Sierra. Ít lâu sau khi cô đi, Fidel đã viết cho cô, “Norma à (bí danh của Celia), thời gian cô ở đây, chúng tôi đã có nhiều kỷ niệm vui và khi cô đi rồi, ai cũng cảm thấy trống vắng. Khi có phụ nữ tới đây, dù với khẩu súng trong tay, những người của chúng tôi vẫn tự nhiên trở nên gọn gàng hơn, tử tế, lịch sự và can đảm hơn.” Khi nghe báo cáo nhầm là Celia đã bị bắt giữ, Fidel viết thư có chữ ký của Raúl, Che và những chiến binh hàng đầu gửi cho Norma rằng, “cô và David (tức Frank País) là trụ cột của chúng ta. Nếu cả hai khỏe thì mọi việc đều tốt và êm đẹp...” Che Guevara thì viết, Celia “là sợi dây liên lạc nổi tiếng và an toàn của chúng tôi... cô bị giam giữ là chúng tôi bị cô lập.” Không có Celia, chắc lịch sử Cuba đã khác. Frank País bị cảnh sát Batista giết ở Santiago vào cuối tháng 7. Ðây là một mất mát lớn cho phong trào bởi País không chỉ là lãnh đạo chính của phong trào ở Oriente mà còn là người có đầu óc chính trị tốt nhất, có lẽ chỉ sau Fidel Castro ở Cuba.
Ðến tháng Bảy quân số du kích đã lên tới 200 người và địa bàn hoạt động của họ cũng được mở rộng thêm. Che Guevara được Fidel phong hàm thiếu tá di chuyển về hướng đông nam với quân đoàn riêng, đánh các toán lính nhỏ của Batista để lấy thêm vũ khí do Mỹ hỗ trợ thêm cho Cuba vì sức mạnh của Fidel ngày càng gia tăng. Ðến cuối năm đó, Fidel nhận thêm một vị khách thường trực là Celia Sánchez, cô đang bị cảnh sát lùng bắt gắt gao nên phải bỏ hoạt động ở Manzanillo để lên Sierra. Celia đã ở đó với Fidel cho tới ngày cách mạng thắng lợi.