Điều thu hút sự chú tâm của Fidel trong những tháng cuối năm 1968 là lễ kỷ niệm 100 năm ngày Cuba lần đầu nổi dậy khởi nghĩa giành độc lập, nền kinh tế và tình hình chính trị trong nước lúc bấy giờ.
Tháng 10 năm 1968, ông bay tới Oriente để đọc diễn văn kỷ niệm một trăm năm ngày lần đầu Cuba nổi dậy chống thực dân Tây Ban Nha. Ông nói về Martí cùng các ông hùng trong những cuộc đấu tranh cho tự do và về những nỗ lực mà nhân dân Cuba đã làm được cho nền kinh tế đất nước. Giữa tiếng reo hò tán thưởng của công chúng, ông tự hào kể hai hôm trước Cuba đã trồng 33.230 mẫu mía khắp đảo quốc chỉ trong một ngày để kỷ niệm ngày độc lập và tưởng nhớ Che Guevara. Fidel muốn năm 1970 họ phải thu hoạch đường đạt mức kỷ lục để kỷ niệm “một trăm năm cuộc chiến” và ông đã gợi lòng yêu nước để mọi người cố gắng hết mình.
Ông gọi năm 1969 là “Năm Nỗ Lực Quyết Ðịnh” và cho thay đổi cách thức thu hoạch bắt đầu từ tháng bảy năm 1969 và kết thúc vào cuối năm 1970. Cắt mía đã trơœ thành hoạt động chính của kinh tế Cuba năm 1969. Công nhân, sinh viên, già, trẻ được phân công cắt mía trong ngày thường và cả ngày nghỉ nữa. Quân đội cũng tham gia cùng với nhân dân, còn Fidel và các lãnh đạo cao cấp cũng cắt mía một số ngày để làm gương cho cả nước. Việc thu hoạch kéo dài 334 ngày. Cũng may là năm 1969 mưa thuận gió hòa.
Fidel là người vốn lạc quan, không bao giờ nản chí khi gặp thất bại. Ngoài việc muốn đạt kỷ lục về sản lượng đường năm 1970, nhân kỷ niệm mười năm ngày chiến thắng, ông còn cam kết tổng lượng nông sản Cuba sẽ tăng từ 15% mỗi năm trong mười hai năm tới, mức tăng cao nhất trong lịch sử thế giới. Fidel nói để đạt mục tiêu này, Cuba phải nhập khẩu 8.000 máy kéo mỗi năm và nhập liên tục trong vòng mười năm, huấn luyện cho 80.000 người điều khiển máy kéo và huấn kuyện kỹ năng cơ khí cho 180.000 công nhân nông trường. Tuy nhiên, về khoản nhập khẩu Cuba chỉ biết dựa vào Liên Xô và các nước Cộng Sản khác.
Quan hệ kinh tế Cuba và Liên Xô chủ yếu dựa trên việc đổi đường Cuba để lấy dầu, máy móc, thiết bị, hàng công nghiệp và những gì mà nền kinh tế hiện đại cần (vũ khí là hàng viện trợ). Dù Moscow tính giá đường cao hơn thị trường thế giới thì Cuba cũng vẫn còn nợ lại họ mười triệu tấn năm 1969 vì mấy năm trước mùa màng quá kém. Song quan hệ kinh tế giữa hai nước đã cải thiện và họ còn bàn bạc thêm thỏa thuận thương mại mới.
Năm 1970 được gọi là “Năm Mười Triệu Tấn,” dù thời tiết tốt và cả nước cố hết sức, Cuba chỉ đạt được 8,5 triệu tấn - tuy là mức cao nhất từ năm 1965 nhưng vẫn không đủ cho chi phí kinh tế xã hội ở Cuba.
Năm 1971, Fidel cực kỳ bận rộn với các quan hệ quốc tế. Ðảo quốc ngày càng thân với Liên Xô. Tháng mười một, Fidel bay thẳng tới Santiago, Chile thăm ba tuần. Quá thích thú vì mười hai năm rồi mới được quay lại Mỹ La tinh, ông đi từ nam ra bắc thăm nhà máy, trường học, tham gia diễn thuyết và dự phỏng vấn. Trên đường về, Fidel dừng lại ở Lima gặp các lãnh đạo quân sự Peru, rồi đến Guayaquil, Ecuador chuyện trò với tổng thống nước này. Ở cả ba nước bên bờ Thái Bình Dương, Fidel đều nhận được hoan nghênh nồng nhiệt vì đã đề nghị thaœo luận vấn đề giới hạn vùng đánh bắt trên biển để bảo vệ ngư nghiệp. Về đến Havana, Fidel được dân chúng chào đón như vị anh hùng vừa chiến thắng từ mặt trận trở về.
Nhiều năm sau, nhớ lại chuyến đi Nam Mỹ, Fidel nói ông biết CIA đã có âm mưu ám sát mình ở Chile, Peru và Ecuador, rằng kẻ định ám sát ông đã giả danh là phóng viên Venezuela. Y lấy vũ khí từ đại sứ quán Mỹ ở La Paz, Bolivia, gồm súng trường có viễn vọng kính, súng liên thông và máy quay phim có giấu súng: “Y đứng ngay trước mặt tôi, nhưng đã không bắn.”
Tháng ba năm 1972, Fidel Castro đi công du hai tháng. Nước đầu tiên là Liên Xô sau tám năm kể từ lần viếng thăm trước. Ở đây, Cuba gia nhập Hội Ðồng Tương Trợ Kinh Tế (CMEA), thị trường chung Cộng Sản Comecon, hòa nhập vào hệ thống kinh tế Cộng Sản toàn cầu, trong đó có Liên Xô, sáu nước Châu Âu Cộng Sản, Mông Cổ và Việt Nam.
Trong thập niên 1970, Fidel lo tháo gỡ việc Mỹ áp đặt, cô lập chính trị ngoại giao với Cuba. Ông đi thăm hữu nghị Chile, Peru và Ecuador. Argentina, Colombia và Venezuela đã nối lại quan hệ ngoại giao với Cuba. Ông phát triển quan hệ với Panama, Jamaica, Barbaros, Bahamas, Trinidad và Tobago ở Trung Mỹ và Caribê. Dần dà, Fidel trở lại các tổ chức Mỹ La tinh như Ủy Ban Kinh Tế Liên Hiệp Quốc của Mỹ La Tinh vào đầu thập niên 1960, Tổ Chức Các Quốc Gia châu Mỹ chuẩn bị dỡ bỏ cấm vận thương mại và ngoại giao với Cuba. Cuối cùng, Cuba đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức SELA, cộng đồng kinh tế khu vực mới. Ðảo quốc Cuba đã không còn bị bỏ rơi nữa.
Lúc này, Fidel bắt đầu mở rộng quan hệ với châu Phi với những chuyến thăm Guinea, Sierra Leone và Algeria. Ðó là chuyến đi đầu tiên của ông. Cuba có liên hệ nhiều đến châu Phi từ những ngày đầu cách mạng, đã uœng hộ sự nghiệp giành độc lập của Algeria từ năm 1959, gửi hàng hỗ trợ quân sự và thuốc men cho Mặt Trận Giải Phóng Quốc Gia (FLN) chống Pháp năm 1960, rồi gửi quân sang giúp nước Algeria mới độc lập trong cuộc chiến biên giới với Marocco năm 1963. Trong thập niên 1960, quân đội Cuba cũng đã sang làm nhiệm vụ ở Algeria, Ghana, Congo, Guina, rồi đến Somalia và Tanzania. Sau khi Fidel đến thăm Sierra Leon về, ông đã gửi quân sang giúp huấn luyện dân quân cho nước này.
Cùng với Che Guevara, ông tin rằng châu Phi sẽ thay đổi theo chiều hướng cách mạng trong tương lai, với Cuba là nước bảo trợ và dẫn dắt. Bởi gần đây, hầu hết các nước châu Phi đã giành được độc lập, Fidel thấy có nhiều tiềm năng cách mạng ở đây. Những nhà dân tộc chủ nghĩa, nhất là cánh tả, rất thích Cuba, bởi ở Cuba có dân tộc gốc Phi với nhiều truyền thống. Cuba có thể thay thế vị trí Mỹ hay Liên Xô đối với họ và là quốc gia đàn anh ở Thế Giới Thứ Ba đã làm cách mạng thắng lợi.
Khi đặt chân đến châu Phi Fidel cảm thấy các chính phủ và phong trào ở đây dường như đã có quan hệ với Cuba từ lâu lắm rồi. Họ chào đón ông hết sức nồng nhiệt.
Ở Conakry, Guinea, ông gặp tổng thống Ahmed Sekou Touré vốn là đồng minh cách mạng, đã nói với đám đông chào đón Castro, “Cuba là ngọn đèn ở Mỹ La tinh.” Họ nói về chuyện Cuba hỗ trợ cho phong trào du kích chống lại thực dân Bồ Ðào Nha và Nam Mỹ. Qua Sierra Leon, Fidel ở lại một ngày nói chuyện với Tổng Thống Siaka Probyn Stevens, một nhà chính trị khá ôn hòa. Ở Algeria mười ngày, Fidel được trở lại không khí cách mạng đầm ấm tại đất nước mà Cuba đã giúp đỡ trong cuộc chiến giành độc lập. Fidel lập quan hệ tốt với chủ tịch mới là Houari Boumedienne. Là nước cách mạng xã hội chủ nghĩa, Algeria là liên minh lâu đời và tốt nhất, cũng như cầu nối chính giữa châu Phi với thế giới Ả Rập. Ðây cũng là trung tâm cách mạng ở châu Phi. Tại đây, Fidel nói chuyện nhiều về cách mạng và các cuộc đấu tranh chống thực dân. Vả lại, Boumedienne còn là lãnh đạo chính của Phong Trào Không Liên Kết mà Fidel rất quan tâm.
Từ Algeria, Fidel đi thẳng qua Sofia, Bulgaria. Lần đầu tiên, ông tiếp xúc trực tiếp với nước Cộng Sản châu Âu không phaœi là Liên Xô. Tại Bulgaria và khắp các nước Ðông Âu, dân chúng nồng nhiệt chào đón ông trên đường phố và quảng trường phố cổ. Fidel Castro là một huyền thoại, không kiểu cách và khác hẳn các lãnh đạo Cộng Sản truyền thống. Về phần mình, Fidel bị Bulgaria cuốn hút bởi nét văn hóa cổ điển được thiết kế mới theo kiểu chuœ nghĩa Marx.
Ở Sofia, tiếp ông là Todor Zhivkov, lãnh đạo Bulgaria tại vị lâu hơn bất cứ nhà cộng sản nào ở Âu Châu. Ông cùng chơi bóng rổ, xem diễn tập quân sự và được tặng súng tiểu liên AK-47 và một khẩu súng ngắn cổ của Bulgaria - bộ sưu tập vũ khí của Fidel tăng dần khi ông công du qua các nước.
Từ Sofia, vị lãnh đạo Cuba bay tới Bucharest gặp Chủ Tịch Nicholae Ceausescu, cũng là bậc thầy cộng sản về nghệ thuật tồn tại, song rất độc lập trong chính sách ngoại giao. Ở Budapest, Hungary, ông lại góp nhặt thêm nhiều kinh nghiệm tinh tế về chuœ nghĩa cộng sản. Fidel thấy đất nước này khá thịnh vượng do cải cách kinh tế thị trường. Czechoslovakia đã tìm cách mô phỏng và mở rộng cải cách kiểu này. Dưới quyền Janos Kadar, từ khi nổi dậy, văn hóa và chính trị trong hệ thống Cộng Sản của đất nước này tương đối thoáng.
Rồi ông đến Ba Lan, một bộ mặt khác của cộng sản Châu Âu. Ðất nước này không theo Liên Xô, mà đề cao chủ nghĩa dân tộc, nhà thờ Công Giáo ấn tượng và mang đậm nét văn hóa Tây Âu. Vẫn còn những ký ức chiến tranh phát xít, song đảng Cộng Sản ở đây lại đi chệch hướng nên dù nền giáo dục, y tế cộng đồng và mức sống cao, bạo động vẫn luôn xảy ra. Lúc Fidel đến Warsaw, đất nước đang ở giai đoạn bình lặng hiếm hoi. Ba Lan là nước Cộng Sản cho phép đảng chính trị đối lập trong nước tồn tại với đời sống văn hóa sinh động và phong phú. Ðương nhiên, đảng đối lập không được tiếp xúc với Fidel nên ông cũng không thấy gì khác hơn chủ nghĩa xã hội. Như mọi khi, Fidel lại rực sáng với phong cách đặc biệt. Một tối nọ, ông đi dạo trong Quảng Trường Cổ Warsaw rồi dừng bước chuyện trò với một người bán hoa và ghé qua một câu lạc bộ đêm, ở đó ông hứa với mấy người chủ trẻ là sẽ gửi cho họ một con cá sấu nhồi bông từ đầm lầy Zapata ở Cuba, họ thích lắm. Tối hôm đó, có bản tin của cục điện báo Mỹ gửi từ Warsaw nói Fidel bị lên cơn đau tim, Fidel giận dữ biết rằng đó chỉ là mánh khóe của CIA để gây bất ổn ở Cuba.
Rồi Fidel qua Ðông Berlin gặp lãnh đạo Ðông Ðức Erich Honecker. Ðất nước Cộng Sản, ở sát cạnh thế giới phương Tây, này thật thịnh vượng. Ông được dẫn tới Cổng Brandenburg chắn ngang giữa thành phố Berlin và Bức Tường Berlin. Fidel đã dắt các em thiếu nhi đi bộ trên phố ở Merseburg. Sau này ông nói Ðông Ðức là nước ông khâm phục nhất vì cũng như Cuba, nước này nằm cạnh kẻ thù nhưng vẫn giữ được nền độc lập tự chuœ và phát triển hùng mạnh.
Ở Tiệp Khắc, ông được tổng bí thư đảng Cộng Sản Gustav Husak chào đón và tặng huân chương Sư Tử Trắng. Trường Ðại Học uy tín Charles, nơi tinh thần giải phóng Prague ra đời giữa những nhà triết học, đã trao cho ông bằng tiến sĩ danh dự Khoa Học Pháp Lý. Fidel Castro, nhà triết học cách mạng, trong áo choàng và mũ đen, nhân dịp này đã diễn thuyết trước cử tọa về lịch sử tư tưởng Phong Trào Castro.
Cuối cùng, Fidel tới Moscow lần thứ ba, và ở thăm hai tuần. Ông được trao huân chương Lenin. Ngoài việc gặp gỡ với ban lãnh đạo Kremlin, Fidel còn hội đàm với Bộ Trưởng Quốc Phòng Grechko và Tổng Tham Mưu về tầm quan trọng của việc liên kết quân sự Cuba-Liên Xô. Ông thăm bốn thành phố của Liên Xô, nhà máy sản xuất máy bay và các nông trường, cảm thấy thoải mái như ở quê nhà. Sau đó ông lên đường trở về nước.
Fidel tiếp tục bận rộn với quan hệ quốc tế trong năm 1972 và hầu hết 1973. Tháng 12 năm 1972, Fidel lại qua Moscow một tuần giúp làm Lễ Kỷ Niệm lần thứ năm mươi ngày thành lập Liên Xô. Trong tuần đó, ông đi đến thỏa thuận năm điểm chính về hỗ trợ kinh tế kỹ thuật với Nga: hoãn nợ, tăng cường thương mại song phương, hỗ trợ tín dụng, nâng giá đường và kền lên cao hơn trước. Fidel rất trân trọng tình hữu nghị này.
Sau chuyến đi đầu tiên tới châu Phi mùa xuân năm 1972, tháng 12 trên đường đi Moscow, ông ghé qua Morocco gặp Vua Hassan. Tháng chín 1973, Fidel dự Hội Nghị Phong Trào Không Liên Kết ở Algiers, ở đây ông quen với hầu hết các lãnh đạo Thế Giới Thứ Ba, thiết lập một số quan hệ mới và để lại ấn tượng rất tốt.
Rồi Fidel bay tới thủ đô Hà Nội (9/1973) bị bom Mỹ tàn phá, trong chuyến viếng thăm Việt Nam đầu tiên. Fidel có tình cảm và mối liên hệ đặc biệt với Việt Nam, vốn cũng là nạn nhân của Mỹ đã kiên cường chống lại cuộc xâm lược của đế quốc này. Các hiệp ước hòa bình của Việt Nam được ký hồi tháng giêng và Mỹ giờ đã ra khỏi cuộc chiến. Ðây cũng là lần đầu tiên ông tới châu Á, song Fidel không có ý định đi Trung Quốc, vốn đang có xích mích với các nước bạn Liên Xô và Việt Nam.
Fidel Castro cũng được Liên Xô hết sức tôn trọng và công nhận vị trí quốc tế của ông, bởi vậy cuối tháng giêng năm 1974, Leonid Brezhnev đã đến thăm Havana. Chưa bao giờ có một lãnh đạo tối cao Liên Xô thăm Mỹ La tinh và chuyến đi này đến Cuba là rất đặc biệt.
Brezhnev ở thăm Fidel một tuần, đến viếng các trại Moncada năm xưa (giờ đã là trường học). Sau đó, Brezhnev và Fidel đã nói chuyện trước một triệu dân Cuba tại buổi mít tinh ở Quảng Trường Cách Mạng dưới chân tượng José Martí. Ông tuyên bố Brezhnev là phát ngôn của Kremlin tại Phong Trào Không Liên Kết và Liên Xô là nước ngăn cản bọn tư bản phát động các cuộc phiêu lưu quân sự, chia cắt thế giới, xâm lược các nước sở hữu dầu hỏa và các nguyên liệu khác.
Tháng 4 năm 1974, bước ngoặc lớn trong lịch sử các nước Thế Giới Thứ Ba đã mở ra, châu Phi và các phong trào cách mạng đã lật đổ được chế độ độc tài Bồ Ðào Nha, tuyên bố kết thúc chiến tranh và hứa trả lại độc lập càng sớm càng tốt cho Angola, Mozambique, Guinea-Bissau và Ðảo Cape Verde. Cuộc chiến quan trọng nhất là ở Angola vào tháng giêng năm 1975, chính phủ quân sự và ba toán quân nổi dậy ký thỏa thuận Alvor trao traœ độc lập lại cho Angola vào tháng mười một.
Fidel Castro đã tích cực ủng hộ Phong Trào Ðấu Tranh Giải Phóng Angola, bởi vậy lúc này Cuba có ảnh hưởng lớn đến các sự kiện ở Angola. Cuba chính là lực lượng bên ngoài quan trọng nhất trong chính trị quân sự Châu Phi, trước hết là Angola rồi tới Etiopia. Fidel Castro giờ được coi là lãnh đạo quốc tế, kêu gọi đóng góp ở Châu Phi và Trung Mỹ, lo đề ra các chính sách kinh tế của Thế Giới Thứ Ba với các nước công nghiệp và tất nhiên trở thành nỗi ám ảnh khó chịu hơn bao giờ hết đối với Mỹ. Cùng lúc đó, Fidel đang đứng trước ngưỡng cửa chính thức chuyển nhà nước Cuba qua thể chế Cộng Sản.