Tháng 8 năm 1960
TÐháng 8 năm 1960 Richard Bissell, Phó Giám Ðốc Kế Hoạch, đã hỏi ý Sheffield Edwards, Giám Ðốc An Ninh, xem liệu Edwards có liên lạc với nghiệp đoàn cờ bạc đang hoạt động tại Cuba được không. Mục đích rõ ràng là ám sát Fidel, mặc dù Edwards xác nhận họ đã cố tình tránh không dùng những từ đó khi đối thoại với Bissell. Bissell nhớ đây là ý của J.C.King, lúc đó đang là Trưởng ban WH, dù hiện nay King nói là ông ta không được biết gì nhiều về những kế hoạch như vậy và cả những vụ việc xảy ra trễ hơn nữa – đến khoảng giữa năm 1962.
Edwards đã tham khảo ý Robert A. Maheu, một thám tử tư đã cộng tác với Cục Tình Báo trong một số vụ việc nhạy cảm, hỏi là Maheu có liên hệ nào với thế giới ngầm hay không. Maheu từng làm tình báo viên đặc biệt của FBI. Ông này mở văn phòng thám tử tư tại Washington năm 1956. Robert Cunningham, nay đã qua đời, là người thuộc Văn Phòng An Ninh (cũng là một cựu tình báo viên đặc biệt của FBI), biết Maheu và biết rằng công việc làm ăn của ông ta lúc đầu gặp khó khăn về tài chính. Cunningham thu xếp để trợ cấp cho Maheu mỗi tháng 500 Mỹ kim. Trong vòng sáu tháng, Maheu ăn nên làm ra đến nỗi ông ta đề nghị ngưng trợ cấp. Qua nhiều năm, ông ta đã can dự sâu vào các hoạt động nhạy cảm hơn của Cục. Từ đó, ông ta chuyển trụ sở đến Los Angeles song vẫn giữ lại văn phòng ở Washington. Một giải trình chi tiết hơn về thân phận của Maheu xuất hiện trong một đoạn riêng biệt của báo cáo này.
(Bình luận: mặc dù không thấy có gì xấu trong đó, chúng tôi vẫn sửng sốt trước sự thật là có quá nhiều nhân vật có tên trong báo cáo này đã từng cộng tác với FBI. Chúng tôi đã nêu tên Cunningham và Maheu. Sau này còn có thêm William Harvey, James O’Connell và Edward Morgan nữa.)
Maheu nhìn nhận ông ta có mối liên hệ giúp tiếp xúc với thế giới ngầm, song Maheu ngại để mình bị lôi cuốn vào trách nhiệm đó. Ông này chỉ chịu tham gia sau khi bị Edwards thúc ép. Maheu cho biết đầu mối tiếp xúc của ông là Johnny Roselli, người đã sống ở Los Angeles và được “nhượng” lại quyền kiểm soát các máy sản xuất đá cục trên một dẻo đất ở Las Vegas và là người mà Maheu biết là thành viên của nghiệp đoàn này. Với Roselli thì Maheu là người có nhiều khách hàng là các cơ sở kinh doanh lớn. Edwards và Maheu đồng ý rằng Maheu sẽ tiếp cận Roselli với tư cách là đại diện giới doanh nghiệp quan tâm đến Cuba, muốn loại trừ Fidel như là bước đầu để khôi phục lại sự đầu tư của họ. Maheu được phép nói với Roselli rằng “các khách hàng” của ông ta sẵn lòng bỏ ra 150.000 Mỹ kim để loại trừ Fidel.
Tháng 9 năm 1960
Shef Edwards được chỉ định làm nhân viên sự vụ chiến dịch cho James P.O’Connell (cựu tình báo viên đặc biệt của FBI), lúc đó là Trưởng Ban Yểm trợ Chiến dịch của Văn phòng An Ninh. O’Connell và Maheu gặp Roselli tại New York vào ngày 14 tháng 9 năm 1960, tại đó Maheu lên giọng thuyết phục ông này. Lúc đầu, Roselli cũng miễn cưỡng tham gia, nhưng cuối cùng đã đồng ý giới thiệu Maheu cho “Sam Gold,” là người hoặc là đứng ra ký kết hoặc có khả năng thu xếp hợp đồng với người của nghiệp đoàn tại Cuba để lo chuyện đó. Roselli nói là ông không làm việc này là vì tiền và tin rằng “Gold” cũng vậy. Một bản ghi nhớ trong hồ sơ do Sheffield Edwards soạn ra vào ngày 14 tháng 5 năm 1962 ghi rằng: “Roselli và Giancana chưa từng được trả công. Maheu được thanh toán lại một phần phí tổn trong thời gian ông này ở Miami (Giancana tức là “Gold”.)
O’Connell được giới thiệu (bằng tên thật) với Roselli là nhân viên của Maheu, với lời giải thích rằng O’Connell sẽ đảm đương vụ này thay cho Maheu, vì Maheu quá bận không thể dành hết thời gian để lo toan việc này. Không ai khác trong Văn phòng An ninh lúc đó biết được hoạt động này. Bản thân Edwards mãi đến mùa hè năm 1962 mới gặp lại Roselli.
Lúc này, khoảng nửa sau tháng 9, Shef Edwards nói với Bissell là ông ta có bạn là một thám tử tư có biết một người trung gian có các mối quan hệ có thể tiếp cận được với những phần tử trong nghiệp đoàn ở Cuba. Những phần tử này sẵn sàng tham gia vào hoạt động như vậy. Cũng cuối tháng 9 năm 1960, Edwards, O’Connell và Bissell là những người duy nhất trong Cục biết là có kế hoạch chống Fidel có dính líu đến thành phần găngstơ Mỹ. Edwards tuyên bố Richard Helms không được thông báo về kế hoạch này vì khi đó Bissell bận lo việc ở Cuba.
Với sự có mặt của Bissell, Edwards tường thuật vắn tắt cho Giám Ðốc (Allan Dulles) và DDCI (Tướng Cabell) là hiện đang có một kế hoạch liên quan tới các thành viên của nghiệp đoàn. Cuộc thảo luận rất thận trọng, Edwards tránh dùng bất cứ “từ xấu” nào. Cụm từ mô tả được dùng là “hoạt động tình báo.” Edwards chắc chắn rằng DCI và DDCI hiểu rõ bản chất của chiến dịch mà ông đang bàn thảo. Ông nhớ mình đã mô tả kênh liên lạc là “từ A đến B rồi đến C”, trong đó, “A” là Maheu, “B” là Roselli và “C” là người chịu trách nhiệm chính tại Cuba. Edwards nhớ là ông Dulles chỉ gật đầu, ý chừng như đã hiểu và chấp thuận. Ðiều chắc chắn là không có sự phản đối. Edwards đã tuyên bố, dù không được chấp thuận chính thức, ông vẫn cảm thấy rõ rằng ông được chấp thuận ngầm và cứ theo phán đoán riêng mà hành động. Bissell đã chuyển 150.000 Mỹ kim hỗ trợ cho hoạt động.
(Bình luận: Theo như mô tả trong bản báo cáo, có thể suy đoán mà không sợ sai là ông Giám ốc đã ngụ ý chấp thuận. Cũng an toàn khi kết luận rằng, với những người tham gia và đề tài chính của cuộc họp như vậy, sẽ ít có khả năng có sự hiểu lầm ở đây – dù các chi tiết có cố tình không nói rõ ra và kết quả được mong đợi cụ thể không bao giờ được phát ngôn bằng những lời lẽ có thể nhận ra rõ ràng. Cũng có lý khi kết luận rằng việc nhấn mạnh tránh dùng những “từ xấu” đã cho những người tham gia thấy rõ chiến dịch này rất nhạy cảm.)
Trong tuần lễ từ ngày 23 tháng 9 năm 1960, O’Connell và Maheu đi Miami. Ở đó Roselli chỉ giới thiệu Maheu cho “Sam Gold” tại cuộc họp ở khách sạn Fontainbleau. “Gold” nói ông ta có một người mà ông gọi là “Joe,” sẽ làm liên lạc viên với Cuba và lo sắp xếp ở đó. Maheu đã chỉ cho O’Connell thấy “Gold” từ đằng xa, nhưng O’Connell chưa bao giờ gặp “Gold” hay “Joe,” song lại biết rõ lai lịch thật của họ. Một tài liệu của Văn phòng An Ninh, gửi cho DDCI đề ngày 24 tháng 6 năm 1966 có nhắc thời gian là “nhiều tuần lễ sau.” Giờ đây, O’Connell cũng không chắc là ông ta và Maheu biết được lai lịch thật của hai người đó từ chuyến viếng thăm Miami lần đầu hay lần sau. Maheu và O’Connell ở hai khách sạn khác nhau. Một sáng chủ nhật, Maheu điện thoại cho O’Connell và lưu ý ông này về tờ phụ trương “Parade” trên một tờ báo sáng hôm đó của Miami. Trong đó có bài viết về Cosa Nostra (tổ chức Mafia ở Mỹ) với hình ảnh của những thành viên quan trọng. Người mà Maheu và O’Connell biết dưới biệt danh “Sam Gold” xuất hiện với cái tên Mon Salvatore (Sam) Giancanna, một tên găngstơ có địa bàn hoạt động ở Chicago. “Joe, liên lạc viên” (người mà cả Maheu lẫn O’Connell không hề biết lai lịch) lại hóa ra Santos Tranfficante, tên trùm của Cosa Nostra tại Cuba.
Vào thời điểm đó, những sòng bạc vẫn còn hoạt động tại Cuba và Trafficante thường xuyên đi lại giữa Miami với Havana để lo việc cho nghiệp đoàn. (Từ ngày 7 tháng 1 năm 1959, những sòng bạc bị đóng cửa và lệnh cấm cờ bạc có hiệu lực. Ngày 13 tháng 1 năm 1959, Fidel thông báo sẽ được phép mở cửa lại các sòng bạc cho du khách và người nước ngoài chơi nhưng cấm dân Cuba. Ngày 17 tháng 2 năm 1959, nội các Cuba ký lệnh cho phép mở cửa lại những sòng bạc để kinh doanh du lịch. Tạp chí Time ra ngày 2 tháng 3 năm 1959 thông báo những sòng bạc đã mở cửa lại vào tuần trước. Tờ New York Times số ra ngày 30 tháng 9 năm 1961 thông báo rằng sòng bạc cuối cùng còn hoạt động đã bị đóng cửa.) Trafficante chắc đã thu xếp với người của ông ta ở Cuba cho chuyến đi đến Havana của mình.
Mùa Thu và Đầu Mùa Đông năm 1960
Ngay vào đầu chiến dịch, trước lúc liên lạc lần đầu với Roselli, các phương tiện ám sát đã được chuẩn bị sẵn để hành động. Trình tự các biến cố không rõ ràng song điều hiển nhiên là một số phương cách đã được xét đến. Việc chuẩn bị một số vật dụng đã được tiến hành trước mà không chờ có sự đồng tình.
(Bình luận: Cần lưu ý rằng TSD bảo quản một kho thiết bị và vật dụng để sử dụng trong các chiến dịch. Khi các k thuật viên của TSD được hỏi về các máy móc hoặc vật dụng mà không có sẵn trong kho thì điều thưởng tình đối với họ là phải chuẩn bị trước để phòng khi có yêu cầu chính thức. Bởi vậy, việc chuẩn bị trước cho chiến dịch chẳng có gì là lạ. Cũng cần lưu ý rằng vào lúc đó không có gì bất thường khi bỏ qua vai trò của Trưởng ban TSD trong các chiến dịch có nhân viên của ông tham gia. Trong khi Cornelius Roosevelt, lúc đó là Trưởng ban TSD, có ấn tượng rõ ràng rằng tất cả các yêu cầu đều được tác động thông qua ông ta, những biểu hiện được nêu ra trong tiến trình điều tra nơi mà những điều như thế không nằm trong vụ việc này. Các cách hành xử và thủ tục tồn tại trong thời điểm đó có thể giải trình, ít ra là một phần, là do khả năng hồi tưởng khác nhau về những gì đã xảy ra và những gì không xảy ra và vì mức độ quan trọng khác nhau mà những người tham gia đánh giá về sự phát triển nữa.)
Tiến sĩ Edwards Gunn, Trưởng Ban Chiến Dịch, thuộc Văn Phòng Y Vụ, có ghi rằng vào ngày 16 tháng 8 năm 1960, ông đã nhận được một hộp xì gà Cuba yêu cầu phải tẩm thuốc độc vào. Ông ấy hiểu rằng đây là loại xì gà mà Fidel yêu thích và nghĩ rằng người mang chúng đến cho ông là Shef Edwards. Edwards thì không nhớ sự kiện này. Gunn ghi chú rằng ông tiếp xúc với ------ của TSD vào ngày 6 tháng 9 năm 1960. Theo ------ nhớ là đã có thử tẩm với vài điếu và sau đó đã tẩm nguyên cả hộp xì gà. Giờ đây, người này không thể nhớ là lúc đầu mình nhận hai hộp, thử nghiệm một hộp rồi sau đó tẩm độc hộp thứ hai hoặc là đã mua một hộp để thử rồi sau đó mới tẩm hộp mà Gunn đã đưa cho ông. Trên thực tế, nhân viên TSD còn không rõ có phải Gunn là người giao xì gà cho mình không nữa. Tuy nhiên, ông ta chắc rằng chính mình đã tẩm chất botulinum toxin cho cả hộp gồm 50 điếu - chất độc khủng khiếp này gây ra một chứng bệnh chết người sau vài giờ xâm nhập cơ thể. của ------ TSD nhớ rất rõ là ông đã làm công việc mở và dán lại nguyên xi với cả hộp và với từng điếu xì gà được bọc kín, vừa để tiếp cận các điếu xì gà vừa để xóa các dấu vết giả mạo Ông đã cất giữ một điếu xì gà thử nghiệm và hiện nay vẫn còn lưu giữ nó. Trong cuộc điều tra của chúng tôi, ông ta đã thử nghiệm lại nó và thấy rằng chất độc vẫn còn duy trì 94% hiệu quả so với lúc ban đầu. Những điếu xì gà đã đợc tẩm độc nhiều đến nỗi chỉ cần ngậm xì gà vào miệng là đã bị nhiễm độc ngay, không cần đối tượng phải hút nó .
Những ghi chú của Gunn cho thấy ông đã báo cho biết là xì gà đã sẵn sàng để giao vào ngày 7 tháng 10 năm 1960. Còn ghi chú của ------ lại cho thấy mãi đến ngày 13 tháng 2 năm 1961 thuốc mới được chuyển giao. Những ghi chép này không cho biết là đã giao cho ai. Gunn nói rằng ông ta đã nhận những điếu xì gà, vào thời điểm nào không rõ, và giữ trong tủ sắt riêng của mình. Ông nhớ đã hủy chúng trong vòng một tháng sau khi Shef Edward nghỉ hưu vào tháng 6 năm 1963. (Ngoài lề cạnh đoạn văn trên có một đoạn ghi chú viết tay: “Chúng tôi tin rằng ... ------ đã giao những điếu xì gà cho ông Gunn”).
(Bình luận: Những người khác nhớ lại âm mưu dùng xì gà, nhưng chỉ coi đó là một ý tưởng được xem xét rồi loại đi. Roosevelt, Trưởng ban TSD lúc đó và O’Connell, nhân viên chuyên trách, có nhớ đến kế hoạch xì gà này, nhưng nghĩ rằng nó không bao giờ được đưa ra xem xét một cách nghiêm túc. ối với Gunn và , người đã bỏ ra rất nhiều thì giờ nhưng không tham gia vào các cuộc thảo luận mở rộng về chiến dịch, những điếu xì gà có vẻ như quan trọng.)
Edwards nhớ đã tới gặp Roosevelt sau khi Bissell nói với Roosevelt về đề tài này. Theo Rossevelt thì ông ta có nói với Edwards sau khi Bissell đã bàn điều này với Edwards. Về khía cạnh kỹ thuật của vấn đề này, Bissell đã không nhớ mình đã nói chuyện cụ thể gì với họ, song tin rằng ông chắc hẳn đã “khép lại câu chuyện vòng vo” khi nói chuyện với cả Edwards lẫn Roosevelt. Roosevelt nhớ là lần đầu ông gặp Edwards tại văn phòng của ông này. Edwards nhớ lại đã yêu cầu được giới thiệu với một nhà hóa học. Ông ta chắc chắn đã không nói ra mục tiêu cho Roosevelt biết, nhưng Roosevelt nói rằng ông biết mục tiêu là Fidel. Roosevelt chắc rằng ông đã giới thiệu cho Edwards tiếp xúc với ------, lúc đó là Trưởng Ban Hóa Học của TSD, nhưng ông trưởng ban này không nhớ gì về công tác nào như vậy vào lúc đó mà chỉ nhớ các chiến dịch khác xảy ra vào những thời điểm khác, chứ không phải vào thời điểm này. Roosevelt đã nói nếu ông ta giao việc này cho ------ thì ------ có lẽ đã giao nó lại cho ------.
Theo Roosevelt thì có 4 cách đã được xem xét: (1) một loại độc dược cực mạnh, như chất độc của một loài sò được tiêm vào bằng một cây kim (Roosevelt nói là đã cung cấp cho Gary Powers); (2) chất có chứa vi trùng dạng lỏng; (3) tẩm vi trùng lên thuốc lá hay xì gà; và (4) một khăn tay tẩm vi trùng. Theo trí nhớ của ông ta, thì cuối cùng đã quyết định vi trùng ở dạng lỏng là cách tốt nhất. Bissell cũng nhớ là quyết định đó, liên kết đến thói quen của Fidel là thường uống trà, cà phê hay ăn xúp hầm. Các món đó đặc biệt thích hợp cho việc sử dụng chất nước độc.
Tháng Giêng và Tháng Hai năm 1961
Mặc dù quyết định rằng chất độc dạng nước là thích hợp nhất, thật ra người ta đã chế và giao một chất rắn dưới hình thức các viên thuốc nhỏ cỡ cục đường hóa học. ------ nhớ là đã họp với Edwards và O’Connell tại văn phòng của Edwards để bàn về những đòi hỏi cần thiết. Qui cách yêu cầu là chất độc phải ổn định, dễ hòa tan, an toàn khi cầm, không thể phát hiện, không tác dụng tức thời và cho kết quả có thể tiên liệu được chắc chắn. Chất botulin đáp ứng gần hết những đòi hỏi đó và nó có thể được dùng dưới dạng chất lỏng hay chất rắn. ------ nói rằng dạng thuốc viên được chọn vì cầm giữ dễ dàng và an toàn.
(Bình luận: Bọn găngstơ có thể cũng đã có chút ảnh hưởng trong việc chọn lựa phương tiện ám sát. O’Connell nói rằng ngay trong những cuộc thảo luận đầu tiên với bọn họ (hay chính xác hơn là cuộc thảo luận giữa Maheu với chúng), họ đã xét đến những phương cách có thể dùng để hoàn thành nhiệm vụ này. Rõ ràng là Cục Tình Báo trước tiên đã nghĩ đến cách giết người tiêu biểu theo kiểu “xã hội đen” là Fidel sẽ bị bắn gục, song Giancana lại thẳng thừng chống lại việc dùng súng. Ông ta nói rằng sẽ không tuyển được ai đồng ý làm việc đó vì khó có cơ may sống sót và thoát thân. Giancana tuyên bố bỏ thuốc độc vào thức ăn hay đồ uống của Fidel là tốt nhất. Trafficante (“Joe, liên lạc viên”) đã tiếp xúc với một quan chức Cuba bị thất sủng có thể tiếp cận được Fidel để thừa cơ đầu độc. Bọn găngstơ cử nội gián của họ là Juan Orta, lúc đó là Chánh Văn phòng và Giám đốc Tổng văn phòng của Thủ Tướng (Castro). Họ nói rằng Orta đã có lần giữ một chức vụ để nhận tiền lại quả từ tiền lời cờ bạc, nhưng vì mất nguồn thu nhập đó nên ông ta đang cần tiền.)
Khi Edwards nhận được những viên thuốc, ông ta bỏ một viên vào trong ly nước để thử độ hòa tan của nó và thấy rằng nó thậm chí không tan ra, nói chi đến việc hòa vào nước. ------ thu lại những viên thuốc này và chế ra lô thuốc mới tan nhanh. Edwards lúc đó muốn bảo đảm là những viên thuốc này thật sự có thể giết người được nên đã tìm đến bác sĩ Gunn để nhờ ông này thử nghiệm. Edwards đưa tiền cho Gunn để mua chuột bạch làm thí nghiệm. Gunn có ghi lại một cuộc đàm thoại với ------ vào ngày 6 tháng 2 năm 1961 – có thể liên quan tới cuộc thử nghiệm nhưng chúng tôi không chắc lắm. Những gì có vẻ như đã xảy ra là Gunn đã thử nghiệm thuốc với chuột bạch và thấy chúng không tác dụng. ------ nói rằng các thử nghiệm chất “botulin” trên chuột bạch là vô giá trị vì chuột bạch đề kháng mạnh với chất độc đặc biệt này. Ðích thân ------ đã thử nghiệm thuốc trên các con khỉ và thấy có tác dụng như ý.
Chúng tôi không thể tái lập với sự chắc chắn chuỗi sự kiện giữa thời gian những viên thuốc sẵn sàng cho tới lúc chúng được giao cho Roselli. Edwards có cảm tưởng ông ta đã báo cáo đáng khích lệ từ bác sĩ Gunn về cuộc thử nghiệm thuốc trên chuột bạch. Rất có thể là Gunn chỉ báo cáo là thuốc có hiệu quả và Edwards thì lại cho rằng báo cáo này dựa vào các kết quả thử nghiệm trên chuột bạch. Bác sĩ Gunn nhớ rõ, tuy không rõ ngày tháng, việc ông ta đã có mặt tại cuộc họp trong đó Roosevelt đã trình ra một cây bút chì được chế ra có thể dùng để dấu và chuyển giao những viên thuốc này. Roosevelt cũng nhớ cuộc họp đó song cũng đã quên ngày tháng. Ghi chú của Gunn nói rằng lần cuối cùng ông ta tham gia vụ này là khi ông giới thiệu Gottlieb với Edwards vào ngày 10 tháng 2 năm 1961. Gottlieb không cho là mình đã có liên can, đúng với lời của Bissell là Gottlieb có nhiệm vụ khác. O’Connell, người cuối cùng nhận những viên thuốc, cho rằng ông ta đã giao dịch với ------. ------ không ghi chép về việc chuyển giao các viên thuốc vào lúc đó, nhưng bình thường thì ông ta cũng không lưu lại các hồ sơ chi tiết về những việc như vậy.
Dẫu sao, O’Connell đã nhận những viên thuốc và theo ông là có sáu viên. Ông nhớ là đã giao ba viên cho Roselli. Hình như ba viên còn lại được dùng để thử nghiệm độ hòa tan và tính hiệu quả. Song ngày tháng mà O’Connell nhận thuốc và giao cho Roselli thì không thể xác lập được. Có thể là vào lúc nào đó sau ghi chú ngày 10 tháng 2 năm 1961 của Guun.
Gunn cũng có ghi là đã được William K.Harvey (cựu nhân viên đặc biệt của FBI) tiếp xúc vào tháng hai về kế hoạch nhạy cảm mà Harvey đang làm cho Bissell. Theo ghi chú của Gunn thì ông ta đã nói tóm tắt với Harvey về chiến dịch này và Harvey chỉ thị cho ông ta là bàn chuyện với Gottlieb về kỹ thuật chứ đừng bàn về mục tiêu nào cả. Ghi chú của Gunn về điểm này không phù hợp với sự nhớ lại của những người có liên quan khác. Chúng tôi không thể xác minh được, ghi chú có thể đã nói về một tình huống khác. O’Connell tuyên bố rằng J.C.King cũng đã nghe thuyết trình vào lúc đó, mặc dù King chối và nói rằng mãi đến sau này mới biết chuyện.
Cuối Tháng 2 và Tháng 3 năm 1961
Roselli chuyển những viên thuốc độc cho Trafficante. Roselli báo cáo với O’Connell rằng những viên thuốc đã được giao cho Orta ở Cuba. Orta hình như đã giữ thuốc vài tuần rồi trả lại. Theo bọn găngstơ, Orta đã quá sợ hãi không dám ra tay.
(Bình luận: Orta đã mất việc ở Văn Phòng Thủ Tướng ngày 26 tháng 1 năm 1961 trong khi việc vạch kế hoạch cho chiến dịch này vẫn đang được tiến hành tại Miami và Washington. Ngày 11 tháng 4 năm 1961, ông này xin tá túc trong ại Sứ Quán Venezuela, sau đó chuyển qua ại Sứ Quán Mexico khi Venezuela cắt đứt quan hệ với Cuba vào tháng 11 năm 1961. Mãi đến tháng 10 năm 1964, Fidel mới cấp giấy thông hành an toàn để ông ta rời Cuba đến Mexico. Ông ta đã đến Miami đầu tháng 2 năm 1965.)
Có vẻ như rằng Edwards và O’Connell không biết về thời điểm Orta bị thất sủng. Họ đã không đề cập gì về chuyện này – nại lý do thất bại của Orta là do ông ta quá sợ. Dầu vậy, dường như bọn găngstơ biết rõ là Orta không thể tiếp cận Fidel được. Bọn họ mô tả Orta là người đã từng giữ chức vụ có thể nhận tiền chia chác từ tiền lời cờ bạc, một vị trí mà ông ta không còn nắm giữ nữa. Công việc duy nhất mà chúng tôi có thể tin rằng Orta đã nắm giữ nhờ đó cho phép ông ta có thể vơ vét là chức vụ trong văn phòng Thủ tướng mà ông bị cách chức vào ngày 26 tháng 1 năm 1961. Có thể là trong khi Cục Tình báo nghĩ rằng phía găngstơ có người ở Cuba dễ dàng tiếp cận Fidel thì những gì họ thực sự có là một người đang bực tức vì không còn cơ hội tiếp cận nữa.)
Bản tổng kết về chiến dịch ngày 24 tháng 6 năm 1966, đã đề cập bên trên, của Phòng An Ninh ghi rằng khi Orta rút lui khỏi nhiệm vụ, ông ta có đề nghị người thay thế và người này đã cố nhiều lần song không thành công. Cả Edwards lẫn O’Connell đều không biết lai lịch của người thay thế Orta, cũng không có thêm chi tiết nào về các nỗ lực khác.
Tháng 3 và Tháng 4 năm 1961
Sau khi nhánh Orta bị gẫy, Roselli bảo O’Connell rằng Trafficante có biết một người cấp cao trong phong trào lưu vong có thể đảm nhận công việc này. Ðó là Tonny Verona (bác sĩ Manuel Antonio de Varona y Loredo), người đứng đầu Mặt Trận Cách Mạng Dân Chủ, ------ phần của chiến dịch lớn hơn ở Cuba. O’Cornell biết Varona bất mãn ------.
(Bình luận: Các báo cáo của FBI có ghi Trafficante biết Varona bằng cách nào. Ngày 21 tháng 12 năm 1960, FBI chuyển sang cho CIA tài liệu nói rằng các găngstơ Mỹ nỗ lực hỗ trợ tài chính cho những hoạt động chống Fidel với hy vọng sẽ giữ lại được các công việc làm ăn về cờ bạc, nhà thổ và độc quyền kinh doanh các chất ma túy một khi Fidel bị lật đổ. Một báo cáo sau này đề ngày 18 tháng 1 năm 1961 có gắn tên Varona vào những kế hoạch đó. Varona đã thuê Edwards K Moss, một cố vấn quan hệ công chúng ở Washington, làm người gây quỹ và tư vấn về quan hệ công chúng. Báo cáo của FBI cho rằng tình nhân của Moss là một cô Julia Cellini nào đó có các anh em làm đại diện cho hai sòng bạc lớn nhất ở Cuba. FBI tin rằng những người anh em của Cellini đã tiếp xúc với Varona thông qua Moss và đã đưa cho Varona một khoản tiền lớn để ông này dùng trong chiến dịch chống Fidel, đổi lại họ sẽ nhận được đặc quyền “trong nước Cuba tương lai.” Các nỗ lực nhằm xác minh các báo cáo này đã không thành công).
Có một tài liệu nói CIA liên quan đến Moss nhưng không có gì chứng tỏ rằng Cục Tình Báo có dính líu gì với ông ta trong vấn đề Cuba. ------
Vào đầu năm 1965, Moss được sự quan tâm của Ủy ban Ðối ngoại Hạ viện vì trong quá khứ ông này đã từng làm đại diện cho những chính phủ nước ngoài khác nhau. Một tài liệu do Ban Tham mưu CA soạn ra vào tháng 3/1965 nói rằng các báo cáo này đã không cho thấy Moss được dùng trong bất cứ việc gì ------)
Trafficante gặp Varona và nói rằng ông có những khách hàng muốn loại trừ Fidel và sẵn sàng trả tiền hậu hĩ cho việc này. Báo cáo cho biết là Varona sốt sắng nhận lời vì điều này có nghĩa là ông ta có thể mua sắm sở hữu riêng tàu bè, vũ khí và thiết bị liên lạc.
(Bình luận: Vào thời điểm này, Roselli đã chắc chắn rằng O’Connell là nhân viên của Cục Tình Báo chứ không phải là thuộc cấp của Maheu. Ông ta nói với O’Connell rằng ông ta chắc chắn O’Connell là “nhân viên Chính phủ - CIA” nhưng O’Connell không xác nhận điều này. Roselli nói rằng ông ta là một người M trung thành nên sẽ làm bất cứ điều gì có thể làm được và không bao giờ tiết lộ chiến dịch.)
Roselli phải cung cấp tiền bạc cho Varona chi dùng. O’Connell nhớ số tiền là 50.000 Mỹ kim. Edwards, không có mặt vào thời điểm đó, thì nhớ số tiền đó là 25.000 Mỹ kim. Vì Edwards đi vắng nên O’Connell phải có được sự chấp thuận từ phụ tá của Edwards là Robert Bannerman, là người mà đến lúc đó vẫn không hề biết gì về chiến dịch. O’Connell nói với Bannerman rằng Edwards đã biết về chiến dịch và chấp thuận rồi. Bannerman cho phép chuyển tiền và bây giờ nhớ lại con số ghi trên phiếu chuyển tiền là từ 20.000 Mỹ kim đến 25.000 Mỹ kim. Một tài liệu đề ngày 24 tháng 6 năm 1966 của Văn phòng An ninh gửi cho DDCI thì nói rằng số tiền đó gồm 10.000 Mỹ kim tiền mặt và các thiết bị liên lạc tương đương 1.000 Mỹ kim. Jake Esterline, người ký biên nhận thanh toán cũng nhớ số tiền đó đúng như con số đã ghi trong tài liệu của Văn phòng An ninh.
(Bình luận: Để hiểu thêm về vấn đề này, Esterline nói rằng, khi đã biết có ý định dùng Varona, các bước hủy bỏ kế hoạch đã được tiến hành. Varona là một trong năm nhân vật chủ chốt trong Mặt trận Cách mạng và đã tham gia sâu vào việc yểm trợ chiến dịch Vịnh Con Heo đang đến gần. Trong thực tế, nếu thực hiện các bước nhằm chấm dứt sự tham gia của Varona vào kế hoạch nghiệp đoàn, việc làm đó không đạt được hiệu quả. Rõ ràng ông ta là một phần không thể tách rời trong kế hoạch nghiệp đoàn này.)
Khi tiền đã sẵn sàng, O’Connell lấy những viên thuốc từ tủ sắt ra và giao thuốc cùng với tiền cho Roselli. Ông này trao thuốc và tiền lại cho Varona, người mà Roselli quan hệ dưới một tên giả. Rất ít điều được biết thêm về con đường chuyển giao này khi đã đến tay Varona. Varona được tin là có nội gián ở Cuba giữ một vị trí thân cận có thể tiếp cận và đầu độc Fidel. Edwards có nhớ điều gì đó về một đầu mối liên lạc đang làm việc tại một nhà hàng mà Fidel thường lui tới, và người này sẽ nhận thuốc độc và bỏ vào đồ ăn thức uống của Fidel. Edward chắc chắn kế hoạch đã thất bại vì Fidel sau đó đột nhiên chấm dứt lui tới nhà hàng đặc biệt đó.
Tháng 4 và tháng 5 năm 1961 Không lâu sau biến cố Vịnh Con Heo, Edwards nhớ O’Connell đã báo cho Roselli biết chiến dịch đã bị đình chỉ – cho dù có gì xảy ra thì tiền cũng sẽ không được chi ra nữa. Edwards chắc chắn rằng chiến dịch đã hoàn toàn ngưng lại sau lần đó; chiến dịch này bị xếp xó và tiếp tục như vậy cho đến tháng 4/1962. Rõ ràng ông đã liên hệ nguồn gốc của chiến dịch này dẫn đến việc xảy ra sự kiện Vịnh Con Heo và việc chấm dứt của nó với sự thất bại của Vịnh Con Heo. O’Connell đồng ý là chiến dịch đã bị hủy bỏ sau sự kiện Vịnh Con heo nhưng việc chấm dứt này không có nghĩa là nó đã hoàn toàn kết thúc hẳn. Ông tin rằng có gì đó diễn ra vào giữa tháng 4/1961 và tháng 4/1962 nhưng bây giờ ông không nhớ rõ đó là cái gì. Ông đồng ý với Bill Harvey rằng khi chiến dịch được làm cho sống lại vào tháng 4/1962, Harvey đã đảm nhận một “chiến dịch đang diễn ra”.
(Bình luận: Như đã thấy qua sự khác biệt giữa Edwards và O’Connell, cả Bissell lẫn Esterline đều đưa ra ngày tháng chấm dứt chiến dịch ám sát khoảng sáu tháng trước sự kiện Vịnh Con Heo. Esterline việc lý do cho nhận định này dựa trên niềm tin rằng quyết định đã được đưa để thực hiện trước đối với một chiến dịch quan trọng, bao quát thay cho chiến dịch nhằm vào mục tiêu cá nhân như vậy. Về phương diện này dù có ý định gì đi nữa, nếu quyết định chấm dứt thực sự đã có thì quyết định này đã không truyền đạt rõ ràng với nhau. iều rõ ràng là kế hoạch ám sát Fidel vẫn tiếp tục một thời gian sau sự kiện Vịnh Con Heo.)
O’Connell tin là ông hẳn đã thu hồi lại các viên thuốc, nhưng ông lại không nhớ cụ thể về việc làm này. Ông ta cho rằng thay vì trả thuốc lại cho TSD, có lẽ ông ta đã hủy chúng đi, rất có thể là đã liệng chúng vào bồn cầu và xối nước cho trôi đi. [Kiểm duyệt] không ghi chép gì về việc nhận lại những viên thuốc nhưng lại quả quyết là chúng đã được trả về cho ông.
Trong một tài liệu đề ngày 14 tháng 5 năm 1962, Sheffield Edwards nói rằng số người biết về chiến dịch đặc biệt này chỉ vỏn vẹn có sáu người. Trong quá trình điều tra, chúng tôi đã phát hiện những tên tuổi sau đây vào cuối năm 1960 hoặc đầu năm 1961 đã biết về kế hoạch ám sát Fidel đặc biệt này:
Allen Dulles, Giám Ðốc Cục Tình Báo Trung Ương (CIA)
Tướng C.P.Cabell, Phó Giám Ðốc Cục Tình Báo Trung Ương
Richard Bissell, Phó Giám Ðốc phụ trách Kế Hoạch
Sheffield Edwards, Giám Ðốc An Ninh
James O’Connell, Văn Phòng An Ninh, sĩ quan phụ trách
J.D.Esterline, Trưởng ban WH/4
Cornelius Roosevelt, Trưởng ban TSD
------ Ban Hóa Học, TSD
Edward Gunn, Trưởng Ban Chiến Dịch, Sở Y Khoa
William Harvey, Trưởng ban FI/D
Sidney Gottlieb, Phụ tá Ðặc biệt của DD/P
(Tên của Gottlieb đã được đề cập nhiều lần trong cuộc điều tra này nhưng ông ta chối là không biết chiến dịch năm 1960-1961 này)
Robert Bannerman, Phó Giám Ðốc An Ninh
J.C. King, Trưởng ban WH (Ông này cũng phủ nhận là đã biết chiến dịch vào thời điểm đó).
Những nhân vật nằm ngoài chính phủ sau đây được biết là biết về chiến dịch này đồng thời hoặc biết hoặc gần như chắc chắn là Cục Tình Báo đứng sau chiến dịch ám sát này:
Robert Maheu, thám tử tư John Roselli, người tiếp xúc chính của CIA với nghiệp đoàn cờ bạc. Sam Giancana, một nhân vật quan trọng của nghiệp đoàn Santos Trafficante, liên lạc viên và là người sống ở Cuba. Những nhân vật kể thêm dưới đây đều có biết về chiến dịch, nhưng việc họ biết là chiến dịch này có dính líu đến CIA chỉ là do suy diễn:
Juan Orta, người lúc đầu được tuyển chọn để đầu độc Fidel Antonio Varona, lãnh tụ người Cuba lưu vong Con rể của Varona, được biết là đã cộng tác mật thiết với cha vợ trong thời gian đó. (Hồ sơ 201 của Verona không hề đề cập đến việc Verona có con rể, nhưng ông ta nhận ra người cộng sự thân cận này như thế.)
Lawrence Houston, Tổng Cố Vấn Cục Tình Báo và Bộ trưởng Tư pháp Robert Kennedy biết đầy đủ các chi tiết của chiến dịch vào tháng 5 năm 1962. Chúng tôi không biết những chi tiết trong báo cáo mà Drew Pearson hiện nay đang giữ, nhưng có thể nó cũng bao gồm nhiều chi tiết về chiến dịch này. Nếu vậy thì phạm vi những người hiểu biết về vụ này sẽ được kéo rộng ra như sau:
Edward P. Morgan, luật sư của Maheu ở Washington
Nhà báo Drew Pearson và có thể cả đồng nghiệp của ông ta là Jack Anderson.
Trưởng Chánh án Tòa án Tối cao Earl Warren
James Rowley, Chỉ Huy Trưởng Mật Vụ
Pat Coyne, Thư ký Ðiều hành của PFIAB
Tổng Chưởng lý Ramsey Clark
Nhiều nhân viên FBI khác.