“Bạn không thể quyết định các điều kiện tại nơi bạn được sinh ra, nhưng bạn có thể quyết định cách bạn phản ứng trong các điều kiện đó”
John C. Maxwell
“Bạn không thể quyết định các điều kiện tại nơi bạn được sinh ra, nhưng bạn có thể quyết định cách bạn phản ứng trong các điều kiện đó”
John C. Maxwell
Cuộc sống đôi khi là như vậy, một người thành công hay thất bại không phải do anh ta được trao cho những nguồn lực nào mà nó phụ thuộc vào việc anh ta sử dụng tốt những nguồn lực đang có như thế nào. Điều đó không những đúng với các cá nhân mà nó còn áp dụng rất phù hợp khi bàn về quá trình phát triển của một quốc gia. Các quốc gia Châu Á phần lớn đều được hình thành trong một bối cảnh tương đối giống nhau khi phần lớn đều giành độc lập hoặc tái thiết lại nền kinh tế sau chiến tranh thế giới thứ hai, nên chính sách kinh tế giữa các quốc gia có một sự tương đồng rất cao dù kết quả đạt được tại mỗi quốc gia có thể khác nhau.
Trong phần trước thì tôi có đề cập với các bạn về cách sử dụng mô hình để có thể phân tích các khía cạnh cơ bản của một vấn đề. Mô hình kinh tế được xem là một cách mô phỏng lại cách vận hành cơ bản của một nền kinh tế mà thông qua đó chúng ta có thể loại bỏ các yếu tố nhiễu để tập trung vào các yếu tố cơ bản của một nền kinh tế. Như chúng ta đã thảo luận, có ba yếu tố cơ bản quyết định động lực tăng trưởng của một quốc gia đó là lao động, vốn và công nghệ. Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn lịch sử mỗi quốc gia sẽ lựa chọn một mô hình kinh tế phù hợp với trình độ phát triển của các yếu tố nền tảng của nền kinh tế cũng như mức độ phát triển của lực lượng lao động. Khi nào thì yếu tố lao động sẽ được ưu tiên phát triển, khi nào là nguồn vốn và khi nào là công nghệ sẽ là sự lựa chọn phù hợp của mỗi quốc gia. Chính các tổ hợp sự lựa chọn đó sẽ quyết định mức độ phát triển và thịnh vượng của mỗi quốc gia.
Tôi từng nghe nhiều người hỏi tôi về những đánh giá xu hướng phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn sắp tới. Tôi nghĩ đây là một cách hỏi rất khó để có thể trả lời nếu như thực sự các chuyên gia kinh tế chưa có được một sự hiểu biết về mô hình kinh tế của một quốc gia đã lựa chọn. Sẽ rất khó để một quốc gia có thể thay đổi mô hình kinh tế đã lựa chọn trong ngắn hạn mà thay vào đó những thay đổi trong ngắn hạn chỉ là sự thay đổi thứ tự ưu tiên của các yếu tố trong một mô hình kinh tế nền tảng.
Việc đánh giá tình hình vĩ mô của một nền kinh tế hay một quốc gia nào đó là một vấn đề rất cơ bản mà chúng ta cần phải trả lời trước khi chúng ta có thể ra các quyết định đầu tư kinh doanh hay thậm chí là các quyết định đầu tư tài chính trên thị trường chứng khoán. Với vai trò vận hành đơn vị phân tích cơ hội đầu tư tại Châu Á, tôi đã có cơ hội tìm hiểu các báo cáo phân tích vĩ mô của nhiều quốc gia và của nhiều đơn vị tư vấn khác nhau nhưng thực tế tôi cho rằng các báo cáo không thể đưa ra các kết luận có tính liên quan về những gì người đọc đang cần. Chúng ta đang cần những kết luận về các vấn đề đặc thù của các nền kinh tế đi kèm với các khuyến nghị dựa trên các xu hướng vĩ mô để có thể hỗ trợ quá trình ra quyết định. Tuy nhiên, tôi cảm thấy mục đích đó còn một khoảng cách rất xa để có thể đạt được với những nội dung phân tích mà chúng ta được nhận hằng ngày. Mọi thứ mang đến quá nhiều các thông tin nhiễu.
Vấn đề nằm ở chỗ đôi khi các báo cáo phân tích chỉ đang nhằm vào mục tiêu trình bày các số liệu vĩ mô thay vì cố gắng diễn giải chúng thành những thông điệp. Chúng ta cần xây dựng những mô hình phân tích mà tại đó chúng ta có thể sử dụng chúng để đánh giá mức độ phát triển và triển vọng của từng nền kinh tế khác nhau. Nếu bạn từng có con nhỏ và phải đi khám định kỳ thì bạn có thể thấy cách bác sĩ sẽ khám cho con của bạn để đánh giá quá trình phát triển của chúng. Các thông số về chiều cao, cân nặng, vòng đầu, nhịp tim, hô hấp sẽ giúp các bác sĩ có thể đánh giá được tình trạng phát triển qua các giai đoạn khác nhau. Trong hồ sơ khám bệnh bạn có thể thấy đấy, sẽ rất nhiều các con số chuyên môn được trình bày trong đó, nhưng tôi tin rằng sẽ không có bác sĩ nào lại ngồi diễn giải cho bạn những con số đó. Mà thay vào đó các bác sĩ sẽ đưa ra những nhận xét, khuyến nghị hay lời khuyên cho bạn về chế độ ăn và chăm sóc cho trẻ để chúng có thể phát triển hoàn thiện nhất với tiềm năng của mình. Điều tuyệt vời nhất là các bác sĩ hoàn toàn có thể lặp lại kỹ thuật khám sức khỏe này cho hàng ngàn đứa trẻ khác. Đó là một phương pháp phân tích mà họ hoàn toàn có thể áp dụng cho các đối tượng khác nhau.
Nếu so với những gì chúng ta đang đối mặt trong lĩnh vực kinh tế học, dường như các nhà kinh tế và phân tích đang làm rắc rối mọi vấn đề khiến cho các vấn đề kinh tế vốn là những gì liên quan đến cuộc sống hằng ngày trở nên quá xa lạ với đại chúng.
Tôi rất hy vọng rằng thông qua lăng kính và những mô hình phân tích của tôi, tôi có thể giúp cho các bạn có cái nhìn đơn giản hơn về những gì thực tế đang diễn ra xung quanh, có thể hiểu được những xu hướng đang thay đổi trong cuộc sống, để từ đó có thể đưa ra các quyết định kinh tế - tài chính phù hợp. Nó không chỉ được áp dụng cho nền kinh tế tại Việt Nam mà các bạn có thể áp dụng cho bất kỳ nền kinh tế nào trên thế giới. Tuy nhiên mô hình phân tích này, tôi nghĩ, đang được áp dụng tốt nhất khi phân tích các nền kinh tế Châu Á.
Mỗi một mô hình sẽ luôn có một biến số chính để giải thích phần lớn sự thay đổi của đối tượng nghiên cứu. Việc đưa vào quá nhiều biến số trong khi không xác định đâu là biến số quan trọng nhất có thể khiến cho các bạn rơi vào trạng thái quan trọng hóa tất cả các yếu tố. Biến số quan trọng duy nhất mà tôi đang chọn để giải mã Châu Á đó chính là nợ. Từ đó với một tư duy đa chiều mà tôi đã thảo luận với các bạn trong Chương 2 thì tôi sẽ kết nối nợ với tất cả các thông tin cần thiết khác để giải thích sự thay đổi của nền kinh tế.
Trước hết, hãy cùng tôi giải mã những đặc thù của nền kinh tế Châu Á trong những năm sau chiến tranh thế giới thứ hai.
Mô hình phát triển của các quốc gia Châu Á
Sau nhiều năm tìm hiểu về rất nhiều lý thuyết và mô hình của rất nhiều các nhà kinh tế học cũng như các học giả đương đại thì tôi đã tổng hợp được một cách thức giải mã sự vận hành của nền kinh tế Châu Á, một mô hình mà tôi gọi là Mô hình Phát triển của các quốc gia Châu Á (Asian Capital Development - ACD). ACD còn được gọi là mô hình phát triển kinh tế thông qua việc sử dụng nguồn vốn vay từ hệ thống ngân hàng như một kênh truyền dẫn chính để đưa dòng vốn đến các ngành nghề theo định hướng phát triển của nhà nước.
Để có thể hiểu được một cách sâu sắc sự vận hành của nền kinh tế các quốc gia Châu Á, bạn sẽ cần hiểu đầy đủ về nguồn gốc của mô hình kinh tế ACD và ảnh hưởng của nó đối với nền kinh tế của quốc gia áp dụng. Trước khi bắt đầu, tôi muốn giới thiệu với các bạn đôi chút về lịch sử của mô hình phát triển kinh tế ACD. Điều thú vị là dù được áp dụng thành công nhất tại các quốc gia Châu Á nhưng ý tưởng ban đầu của mô hình kinh tế này xuất phát từ Đức, một quốc gia tại Châu Âu. Mô hình kinh tế này xoay quanh việc đề xuất các chính phủ phát triển nền kinh tế của họ thông qua việc chính phủ thực hiện các quyết định kinh tế quan trọng. Chính phủ định hướng các “ngành mũi nhọn” cần phát triển, để từ đó định hướng nguồn vốn ngân hàng được chảy vào các ngành nghề đó. Những kế hoạch quy mô lớn này hướng đến 3 nhóm ngành nghề cơ bản của nền kinh tế như bạn đã biết là nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
Trong mỗi giai đoạn phát triển các quốc gia sẽ có các chính sách thúc đẩy một trong ba lĩnh vực nói trên.
Minh họa 3.1: Mô hình phát triển kinh tế của các quốc gia Châu Á
Yếu tố cốt lõi của mô hình kinh tế ACD là vai trò định hướng của chính phủ cả về các hoạt động kinh tế lẫn xu hướng các dòng vốn. Bộ tài chính và ngân hàng trung ương đóng vai trò quan trọng như tay trái và tay phải của chính phủ trong việc điều hành các chính sách kinh tế. Bộ tài chính đóng vai trò quản lý và sử dụng nguồn tiền thuế của chính phủ vào các lĩnh vực chính phủ trợ cấp và định hướng phát triển. Trong khi đó, ngân hàng nhà nước sẽ đóng vai trò điều phối nguồn tiết kiệm trong nước và thông qua hệ thống ngân hàng thương mại, nó sẽ giải ngân nguồn vốn giá rẻ vào các lĩnh vực được ưu tiên phát triển. Trong cấu trúc này thì sự phối hợp nhịp nhàng giữa chính phủ và ngân hàng trung ương đóng một vai trò rất quan trọng để đảm bảo dòng vốn được bơm đúng thời điểm và phù hợp vào các điểm cốt yếu của nền kinh tế mà chính phủ đang định hướng.
Với công thức phát triển của mô hình ACD, thì việc cải cách đất đai sẽ là tiền đề để gia tăng sản xuất và năng suất nông nghiệp nhằm tận dụng trước hết năng lực của lực lượng lao động đông đảo nhưng còn thiếu nhiều kỹ năng sản xuất công nghiệp. Hơn nữa, việc cải cách về tư hữu ruộng đất cũng giúp cho người nông dân có thể sử dụng đất đai để thế chấp vay ngân hàng. Qua đó có thể dẫn dòng vốn của ngân hàng vào việc tiến hành cơ giới hóa nông nghiệp để tăng năng suất. Kết quả của giai đoạn này là một nền nông nghiệp hoàn thiện với năng suất cao dựa trên lợi thế của quốc gia, trước hết tự chủ nguồn lương thực trong nước, sau đó bắt đầu gia tăng các sản phẩm xuất khẩu từ nông nghiệp theo định hướng của chính phủ.
Giai đoạn 2 bắt đầu từ việc tích lũy vốn từ các tập đoàn kinh tế lớn cho đến vốn và chính sách hỗ trợ của chính phủ trong giai đoạn phát triển nông nghiệp nhằm phát triển các ngành công nghiệp nặng. Quy mô sản xuất lớn giúp các sản phẩm công nghiệp có nhiều lợi thế cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu.
Trong các giai đoạn này, nguồn ngoại tệ tích lũy từ quá trình sản xuất được giữ lại ở quỹ dự trữ ngoại hối nhằm mục tiêu duy trì một chính sách tỷ giá ổn định hỗ trợ cho phát triển xuất khẩu. Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc tích lũy nguồn tiết kiệm quốc gia để có thể tập trung nguồn lực phát triển các tập đoàn kinh tế.
Việc thị trường tài chính không phát triển với các sản phẩm đầu tư rất nghèo nàn khiến cho người dân cũng không có nhiều lựa chọn khác để đầu tư. Điều đó dẫn đến việc rất ít tiền nhàn rỗi đặt ngoài hệ thống ngân hàng, hay nói cách khác tức là phần lớn tài sản của quốc gia sẽ nằm trong hệ thống ngân hàng. Từ đó hệ thống ngân hàng có thể bơm vốn cho các tập đoàn kinh tế theo định hướng xuất khẩu của nhà nước với lãi suất thấp.
Giai đoạn 3 bắt đầu từ việc mở cửa và liên doanh với các doanh nghiệp đa quốc gia nước ngoài trong việc sản xuất các sản phẩm công nghiệp với hàm lượng kỹ thuật cao. Điểm mấu chốt trong giai đoạn này đòi hỏi một quốc gia phải đưa dòng vốn phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ để có thể chủ động nguồn nguyên liệu đầu vào trong nước cho các doanh nghiệp FDI, qua đó cũng hạn chế được dòng chảy ngoại tệ ra nước ngoài và nâng cao năng lực cung ứng của các doanh nghiệp trong nước.
Các doanh nghiệp lớn sản xuất công nghiệp nặng ở giai đoạn trước thì lúc này với tiềm lực tài chính lớn sẽ bắt đầu tìm kiếm sự chuyển giao công nghệ từ các đối tác chiến lược nước ngoài để tự lực phát triển nền công nghiệp nhẹ trong nước. Mấu chốt trong giai đoạn này vẫn là các doanh nghiệp sẽ tận dụng lợi thế nhân công giá rẻ cũng như mức tỷ giá thuận lợi để đẩy mạnh việc gia tăng tỷ trọng xuất khẩu. Nguồn ngoại tệ từ xuất khẩu cũng góp phần gia tăng khả năng can thiệp của quỹ dự trữ ngoại hối của quốc gia vào tỷ giá.
Lãi suất ưu đãi cộng với việc đồng nội tệ được định giá thấp trong thời gian dài sẽ giúp cho các doanh nghiệp quốc doanh ở các quốc gia này xây dựng được một vị trí vững chắc trong thị trường cung cấp các loại hàng hóa quốc tế.
Giai đoạn 4 bắt đầu sau khi các quốc gia này đạt được vị thế trên thị trường xuất khẩu. Để từng bước phát triển một nền công nghiệp hiện đại thì các quốc gia bắt đầu mở cửa thị trường tài chính để thu hút dòng vốn nước ngoài vào các thị trường. Khi đó thị trường cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp bắt đầu nhận được các dòng vốn quốc tế để giảm mức độ phụ thuộc vào hệ thống ngân hàng. Nhìn từ lăng kính giá trị vốn hóa, việc các doanh nghiệp nhà nước lên sàn sẽ bắt đầu phân chia lợi ích cho các phần vốn góp cũng như các cá nhân liên quan. Giá trị vốn hóa của thị trường khi đó sẽ lớn hơn rất nhiều so với giá trị sổ sách được ghi nhận ở các công ty do sau nhiều năm hoạt động các công ty đã xây dựng được một mô hình kinh doanh tạo tiền ổn định trên thị trường.
Thị trường tài chính phát triển sẽ là tiền đề để các quốc gia dần chuyển dịch sang nền kinh tế dịch vụ với giá trị gia tăng cao như tài chính, kế toán, tư vấn doanh nghiệp, quản lý tài sản. Đó là đích đến cuối cùng của mô hình ACD. Với một cách làm khác, các quốc gia Châu Á đã có thể biến quốc gia của mình trở thành một quốc gia hiện đại như các quốc gia phương Tây trong một thời gian ngắn hơn rất nhiều.
Nền tảng thành công của mô hình này chính là vai trò kinh tế của nhà nước trong việc định hướng các nguồn lực kinh tế của xã hội theo những định hướng mà chính phủ cho là phù hợp nhất đối với quốc gia trong dài hạn, thông qua hệ thống ngân hàng thương mại mà hầu hết các nhà đầu tư trong khu vực này đều biết rằng các nền kinh tế Châu Á là những cỗ máy kinh tế dựa trên nền tảng nguồn vốn cung cấp từ hệ thống ngân hàng. Châu Á không phải “chỉ” đói cho nợ mà là “nghiện”. Việc bơm nợ vào một nền kinh tế đang phát triển, đang khát tín dụng sẽ có tác dụng mạnh tương tự như thuốc phiện đối với người nghiện.
Các chính phủ thường cố gắng cho vay nợ vào ngành kém hiệu quả trong nền kinh tế. Ban đầu khoản đầu tư này có thể tạo ra lợi tức chấp nhận được nhưng qua thời gian thì hiệu quả sử dụng vốn ngày càng giảm. Vì vậy để kiếm lời, bạn cần phải biết nợ đến từ đâu, nơi dòng tiền hướng đến và thời gian ‘tăng trưởng’ có thể kéo dài. Đừng quên rằng các khoản vay và trợ cấp giá rẻ là yếu tố quan trọng đối với mô hình tìm kiếm lợi nhuận này. Hãy ghi nhớ rằng tăng trưởng nợ ban đầu tạo ra những đột biến lớn trong chứng khoán Châu Á. Nó quyết định cách thức và thời điểm bạn nên đầu tư vào các thị trường chứng khoán Châu Á để có được mức độ tăng trưởng.
Tất nhiên trong quá trình phát triển của một quốc gia thì không phải lúc nào các chính sách cũng được thực hiện theo một thứ tự trước sau như vậy mà đôi khi một quốc gia trong quá trình phát triển có thể phát hiện ra mình chưa thực hiện những kế hoạch phát triển trong giai đoạn trước có thể sẽ phải đánh giá lại lộ trình phát triển của mình từ đó đưa ra các chính sách điều chỉnh.
Sự thần kỳ Châu Á được tạo ra từ mô hình này như thế nào?
Tôi sinh ra và lớn lên tại Canada nên những gì tôi biết về nền kinh tế Châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng chỉ theo hướng đây là những nền kinh tế mới nổi, nơi các quốc gia chỉ mới bắt đầu phát triển trong vòng 50 năm qua. Những gì tôi biết về Châu Á là một nơi còn chưa văn minh và đời sống của người dân nơi đây phần lớn vẫn còn thấp hơn rất nhiều so với chuẩn thế giới. Qua quá trình tìm hiểu, tôi biết được vai trò kinh tế của các quốc gia này trên bản đồ toàn cầu ngày càng gia tăng. Tuy nhiên thị trường tài chính tại các quốc gia này vẫn chưa phát triển như các quốc gia Châu Âu hay Bắc Mỹ, cho dù đó là những nền kinh tế hàng đầu thế giới như Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc. Đó là những gì tôi từng biết về nền kinh tế Châu Á, giống như phần lớn những người sống tại phương Tây. Những gì chúng tôi nghĩ về Châu Á là những câu hỏi về sự khó hiểu trong cơ chế vận hành của thị trường, về những câu hỏi tại sao nền kinh tế Châu Á lại thiếu sự tự do như những gì mà ông tổ Kinh tế học Adam Smith khuyến khích trong suốt hàng trăm năm qua, tại sao chính phủ lại can thiệp rất nhiều vào nền kinh tế như vậy. Nhưng chỉ khi đã tìm hiểu tường tận vấn đề thì tôi mới nhận ra rằng tất cả đều có logic của nó và mọi thứ đều vận hành theo một trật tự nhất định. Hãy suy nghĩ về bối cảnh 50 năm trước đây khi phần lớn các quốc gia Châu Á đều bắt đầu lại từ đầu sau chiến tranh thế giới thứ hai. Trong khi các quốc gia đang phát triển khác tại Mỹ La Tinh, Đông Âu rồi châu Phi vẫn còn đang vật lộn trên con đường phát triển thì các quốc gia Châu Á đã lần lượt hóa rồng. Từ Nhật Bản, Hàn Quốc sau này là Singapore, Đài Loan và gần đây nhất là Trung Quốc. Các quốc gia Châu Á dù chưa có những thành công như những quốc gia nói trên nhưng cũng đã đạt được những kết quả nhất định trong quá trình phát triển để luôn nằm trong nhóm các nền kinh tế tăng trưởng cao nhất thế giới. Tỷ trọng đóng góp GDP của Châu Á trên tổng GDP toàn cầu đã tăng mạnh trong vòng 40 năm qua. Tất cả các quốc gia Châu Á đều có những điểm tương đồng về cách thức điều hành nền kinh tế.
Minh họa 3.2: Tỷ trọng GDP của Châu Á so với toàn cầu gia tăng qua thời gian
Nhật Bản là quốc gia Châu Á đầu tiên theo mô hình kinh tế ACD và những chính sách kinh tế đó đã mang lại các bước tiến nhanh chóng về kinh tế cho Nhật Bản. Sau vài thập kỷ triển khai, năng lực kinh tế của Nhật Bản đã phát triển nhảy vọt và thậm chí trong những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ trước thì cả thế giới khi đó đã tưởng tượng viễn cảnh nền kinh tế Nhật Bản vượt qua Mỹ để trở thành cường quốc số 1 thế giới không còn xa. Tất nhiên điều đó không xảy ra khi cơn khủng hoảng nhà đất những năm 1990 đã khơi nguồn cho 2 thập niên suy thoái của nền kinh tế Nhật Bản cho đến nay. Tuy nhiên, những thành tựu của mô hình kinh tế ACD đối với Nhật Bản là một điều không thể phủ nhận. Rất nhiều quốc gia Châu Á cũng đã học hỏi phần nào mô hình phát triển kinh tế của Nhật Bản trước khi điều chỉnh cho phù hợp với đặc thù của các quốc gia khác nhau.
Một số nước khác như Hàn Quốc và Trung Quốc đã tìm thấy thành công tương tự trong việc thực hiện mô hình kinh tế ACD. Hàn Quốc từ một quốc gia nghèo nàn lạc hậu những năm thập niên 50 đã trở thành một cường quốc kinh tế Châu Á vào những năm 90 của thế kỷ trước. Trung Quốc sau khi cải cách năm 1978 cũng đã phát triển kinh tế theo mô hình ACD và chỉ sau 40 năm, Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế lớn số 2 thế giới với các tập đoàn kinh tế khổng lồ. Tuy nhiên, các quốc gia còn lại tại Châu Á, đặc biệt là các quốc gia Đông Nam Á gặp rắc rối khi không thể áp dụng thành công mô hình kinh tế này và vẫn đang bị mắc kẹt ở mức thu nhập trung bình. Trong những phần sau tôi sẽ giải thích cho bạn chi tiết hơn về những gì đã và đang diễn ra tại các quốc gia Đông Nam Á.
Khi sử dụng mô hình kinh tế ACD, các chính phủ tập trung nguồn vốn của xã hội vào một số ngành nghề nhất định thông qua các công ty do nhà nước hoặc các công ty tư nhân liên quan đến nhà nước thực hiện, qua đó biến các chương trình kế hoạch kinh tế của chính phủ thành hiện thực. Kết quả, chu kỳ nợ là một yếu tố hiện diện xuyên suốt trong toàn bộ quá trình phát triển kinh tế tại các quốc gia Châu Á khi một số ngành nghề được bơm nợ trong giai đoạn này trong khi một số ngành nghề khác được bơm nợ trong giai đoạn sau của mỗi nền kinh tế.
Vai trò của hệ thống ngân hàng nội địa là cực kỳ quan trọng để chính phủ có thể dẫn dắt quá trình. Câu hỏi kế tiếp đặt ra là nguồn vốn nợ để phát triển kinh tế này đến từ đâu? Câu trả lời đó là chính phủ Châu Á thường xuyên kiểm soát hệ thống ngân hàng nội địa, thông qua đó chính phủ có thể kiểm soát nguồn vốn tích lũy trong công chúng cũng như định hướng dòng chảy cho dòng vốn trong nền kinh tế vào các ngành nghề mục tiêu. Chính phủ chỉ đạo các ngân hàng giải ngân nguồn tín dụng giá rẻ này đến các nhóm đối tượng cụ thể. Cũng chính những định hướng này của chính phủ, mặc dù mang lại những kết quả trong việc phát triển kinh tế nhưng cũng làm thị trường vốn của quốc gia bị phát triển biến dạng, và mức độ sai lệch của thị trường vốn mỗi quốc gia tùy thuộc vào mức độ can thiệp của từng quốc gia trong khu vực.
Khi phân tích về tình hình phát triển kinh tế của quốc gia thì các nhà kinh tế học thường cung cấp các số liệu về mức tăng trưởng của các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Tôi nghĩ rằng phần lớn các bạn cũng giống như tôi trước đây khi không nhận thức được tầm quan trọng của những con số này. Nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ là một cấu trúc kinh tế cơ bản của mỗi quốc gia. Thông qua việc so sánh tỷ lệ của ba lĩnh vực này theo thời gian chúng ta sẽ có thể thấy được sự thay đổi trong cấu trúc của nền kinh tế. Khi so sánh cơ cấu kinh tế này với các quốc gia này thì chúng ta có thể so sánh được mức độ phát triển giữa các quốc gia khác nhau. Các chính sách phát triển của quốc gia trong dài hạn sẽ được thể hiện bằng sự thay đổi trong cấu trúc của các ngành nghề sau. Dựa vào đặc điểm của mình mà các quốc gia sẽ lựa chọn các tổ hợp giải pháp phát triển khác nhau qua các giai đoạn phát triển. Mô hình phát triển kinh tế ACD sẽ tập trung phân tích quá trình phát triển và triển vọng của mỗi nền kinh tế thông qua việc phân tích mức độ phát triển của các quốc gia theo cấu trúc như trên.
Bắt đầu từ cải cách ruộng đất và nông nghiệp
Các nền kinh tế theo mô hình ACD sẽ bắt đầu bằng quá trình cải cách lĩnh vực nông nghiệp. Tại Việt Nam người ta thường đề cập đến những người làm nông là những người làm kinh tế không hiệu quả và lạc hậu so với xu hướng phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, ít ai biết rằng những cải cách trong nông nghiệp chính là tiền đề cơ bản để một quốc gia có thể bắt đầu phát triển và tích lũy nguồn vốn phát triển kinh tế. Người phương Tây xem quyền sở hữu và sử dụng đất như một điều hiển nhiên. Nhưng tại Châu Á, việc sở hữu đất đai và hoàn toàn sử dụng đất đai của riêng bạn lại là cả một đặc quyền. Trong lịch sử, Châu Á hoạt động theo một chế độ phong kiến, nơi hầu hết mọi người đều là nông dân nhưng đất đai họ trồng được sở hữu bởi các địa chủ giàu có.
Trong cuộc cách mạng đánh đổ chủ nghĩa phong kiến thì một trong những nội dung quan trọng mà các chính phủ mới thực hiện đó là tiến hành cải cách ruộng đất, trong đó việc phân chia lại ruộng đất là một tiền đề quan trọng. Chính phủ mới sẽ “tịch thu” đất của người giàu và phân phát cho người nghèo.
Nhật Bản là một ví dụ điển hình. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, chính phủ Nhật Bản mới được thành lập với sự hậu thuẫn của Mỹ đã nỗ lực để giành được sự ủng hộ của đại đa số người dân, chính phủ đã thực hiện các hoạt động cải cách ruộng đất để đảm bảo mức độ sở hữu đất bình đẳng của mọi người dân. Các quy định mới về sở hữu ruộng đất được ban hành đã giảm số lượng quyền sở hữu đất nông nghiệp của một người dân đến mức tối đa. Bất kỳ mức đất thừa nào trên mức tối thiểu cũng sẽ được phân phối lại. Khi những bất bình đẳng về quyền sở hữu và sử dụng đất được giảm thiểu thì năng suất của hoạt động nông nghiệp sẽ gia tăng nhanh chóng, không những phục hồi về mức trước chiến tranh mà còn vượt qua một cách dễ dàng.
Như bạn có thể thấy trong biểu đồ bên dưới, các quốc gia đã thực hiện cải cách ruộng đất một cách triệt để như Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc, tất cả đều có thu nhập bình quân đầu người cao hơn các nước không áp dụng, chẳng hạn như các quốc gia Đông Nam Á. Nhưng làm thế nào để việc cải cách ruộng đất được thực hiện tốt lại có lợi cho các nước trong dài hạn? Vẫn là những diện tích đó, vẫn được canh tác như trước nhưng tại sao năng suất lao động lại gia tăng? Đó là do sự giàu có của cá nhân là một động lực mạnh mẽ, thúc đẩy sự đổi mới sản xuất nông nghiệp một cách hiệu quả. Với một địa chủ có hàng trăm hàng ngàn hecta đất thì việc cải cách nông nghiệp, nâng cao năng suất là một việc không cấp thiết vì động lực tăng trưởng tài sản không lớn. Tuy nhiên khi hàng trăm hecta đất đó lại được chia lại hàng trăm nông dân thì với một diện tích hạn chế, người nông dân sẽ cố gắng nâng cao năng suất lao động để có thể tối đa hóa giá trị tạo ra.
Minh họa 3.3: Thu nhập bình quân trên đầu người của các quốc gia Châu Á
Nông dân khi có quyền “sở hữu” hay tại Việt Nam chúng ta gọi là quyền sử dụng đất đai sẽ có thể sử dụng đất của họ làm tài sản thế chấp để vay, từ đó họ có thể sử dụng tiền để tiếp tục gia tăng năng lực sản xuất cũng như áp dụng máy móc cơ giới vào trong sản xuất. Cải cách đất đai là một chất xúc tác cho sự phát triển kinh tế của địa phương và cả quốc gia.
Một khi ngành nông nghiệp quốc gia phát triển vững mạnh và tạo ra nhiều tài sản tích lũy cho người dân thì chính lượng tài sản tích lũy đó là tiền đề để nền kinh tế có thể chuyển sang các lĩnh vực lớn hơn, sinh lợi hơn như sản xuất và công nghiệp. Ngày nay, khá nhiều nền kinh tế Châu Á phụ thuộc ít vào nông nghiệp và thay vào đó phấn đấu trở thành quốc gia sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ chất lượng cao.
Ngoại trừ các trung tâm tài chính như Hồng Kông và Singapore vốn là một đảo quốc, không một quốc gia nào có thể tiến tới giai đoạn phát triển thứ hai và thứ ba này mà không cần trải qua bước cải cách nông nghiệp đầu tiên.
Cải cách đất và nông nghiệp có mối tương quan trực tiếp với yếu tố quan trọng khác để phát triển quốc gia: đó là nguồn nhân lực của quốc gia. Bằng cách so sánh GDP của một quốc gia trong tương quan với dân số của quốc gia đó để được chỉ tiêu thu nhập bình quân trên đầu người thì bạn có thể thấy mức độ hiệu quả của mỗi công dân trong việc đóng góp vào GDP của đất nước của họ, việc đó được thể hiện trong biểu đồ bên dưới.
Con đường Châu Á trở thành trung tâm sản xuất của thế giới
Chúng ta đều nghe về một tên gọi rất quen thuộc của Châu Á, đó là công trường sản xuất của thế giới. Một khi nền kinh tế có một ngành nông nghiệp mạnh, nó có thể chuyển sang theo đuổi phát triển ngành sản xuất. Tại Châu Á, ngành này bắt đầu từ các ngành công nghiệp thuộc khu vực nông thôn như các nhà máy chế biến thực phẩm hoặc các nhà máy dệt. Các nền kinh tế áp dụng cách thức này tập trung trợ cấp để khuyến khích các công ty phát triển mạnh và dần loại bỏ những công ty yếu kém.
Ví dụ, trong những năm 1990, nhiều công ty sản xuất hiệu quả tại Trung Quốc đã nhận được nguồn trợ cấp của chính phủ, trong khi các công ty sản xuất không hiệu quả sẽ không thể nhận được các gói hỗ trợ đó. Thực tế cho thấy những công ty được nhận hỗ trợ có mức tăng trưởng đáng kinh ngạc chỉ trong một thời gian ngắn.
Tuy nhiên, để có thể cạnh tranh trong bối cảnh thương mại toàn cầu thì một quốc gia cần phải xây dựng một cấu trúc xuất khẩu hàng hóa do chính họ tạo ra. Bước đầu, họ bắt đầu bằng cách “sao chép” các công nghệ sản xuất tại các quốc gia tiên tiến sau đó sản xuất chúng với chi phí thấp hơn nhờ những lợi thế về tài nguyên và nguồn nhân công giá rẻ để xuất khẩu các sản phẩm “nhái” này ra toàn cầu.
Đồng thời, các chính phủ sẽ liên tục mở rộng phạm vi hoạt động của họ với các tổ chức nước ngoài khác: tiếp cận thị trường của họ và dùng nguồn vốn tích lũy trong giai đoạn trước để đổi lấy kiến thức, công nghệ và đào tạo cho các nhà sản xuất trong nước. Hãy tưởng tượng cảnh một người lao động bán sản phẩm giá rẻ để đổi lại việc được sản xuất liên tục và không ngừng nâng cao tay nghề của mình. Đó là con đường mà Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc đã lựa chọn để từng bước phát triển ngành sản xuất của họ. Bằng cách làm đó, các doanh nghiệp đã không mất nhiều thời gian trong việc nhanh chóng nâng cao trình độ công nghệ của mình. Và rồi từ những người đi học nghề họ đã trở thành những đối thủ cạnh tranh đáng gờm đối với các công ty phương Tây. Ví dụ, trong những năm 1980, chính phủ Trung Quốc đã thỏa thuận với công ty Westinghouse, một công ty điện lực của Mỹ. Westinghouse ký hợp đồng với chính phủ Trung Quốc về việc chuyển giao công nghệ và đào tạo các công ty trong nước về công nghệ tuabin nhiệt điện. Sau đó, Trung Quốc đã hạn chế môi trường cạnh tranh khi cấm các doanh nghiệp nước ngoài tham gia thị trường của mình. Do đó không khó để giải thích vì sao ba nhà sản xuất tuabin nhiệt hàng đầu thế giới hiện nay đều là các doanh nghiệp Trung Quốc.
Điều tương tự cũng đã từng diễn ra tại Nhật Bản. Hậu chiến tranh thế giới hai, các chuyên gia công nghiệp Mỹ đầu tư và chia sẻ công nghệ sản xuất với các thương hiệu lớn của Nhật Bản. Các bạn có thấy Mitsui, Mitsubishi hay Sumitomo quen thuộc không? Đó đều là những tập đoàn kinh tế khổng lồ của nền kinh tế Nhật Bản ngày nay.
Kết quả của các chiến lược đầu tư và phát triển này? Các quốc gia Đông Bắc Á nghiễm nhiên trở thành trung tâm sản xuất của thế giới.
Để có thể xây dựng một nền sản xuất phát triển thì các quốc gia này đã tập trung phát triển các khu vực kinh tế khắp các tỉnh khác nhau để tận dụng được nguồn lực tại chỗ của từng vùng kinh tế. Để phát triển một khu vực thì nguồn vốn tín dụng sẽ được đổ vào những khu vực đó kèm theo các khoản trợ cấp để hỗ trợ sự phát triển của chính phủ.
Bảng bên dưới thể hiện cách chính phủ Trung Quốc xây dựng quy trình tập trung phát triển các thành phố lớn tại Trung Quốc như thế nào. Dựa trên lợi thế của mỗi thành phố mà việc phát triển sẽ được đẩy mạnh.
Thành phố |
Lĩnh vực phát triển chính |
Thượng Hải |
Thương mại & Tài chính |
Bắc Kinh |
Trung tâm kinh tế |
Thiên Tân |
Công nghệ thông tin |
Thẩm Quyến |
Công nghệ thông tin |
Trùng Khánh |
Ôtô |
Tô Châu |
Điện tử & Dệt may |
Quảng Châu |
Hàng tiêu dùng |
Vũ Hán |
Công nghệ thông tin |
Hàng Châu |
Nông nghiệp & Dệt may |
Thành Đô |
Hàng công nghiệp |
Minh họa 3.4: Lĩnh vực phát triển tại các thành phố lớn của Trung Quốc
Câu chuyện phát triển của Thượng Hải cũng là một bài học cho chúng ta thấy cách chính phủ xây dựng quy trình phát triển của Thượng Hải. Mãi đến những năm 1990, khi Thượng Hải vẫn còn đang loay hoay trong việc tìm kiếm định hướng phát triển thì Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt đầu đẩy mạnh quá trình thành lập các đặc khu Trung Quốc. Đặc khu Phía Đông nằm giữa lòng Thượng Hải, lần đầu tiên đặc khu được mở giữa lòng thành phố phát triển nhất của Trung Quốc. Trong một thời gian ngắn nợ đã được bơm vào khu vực này để đẩy nhanh tốc độ phát triển.
Đi kèm với đó là các chính sách cứng rắn của chính phủ trong việc tái định hình cơ sở hạ tầng của thành phố. Chính quyền Thượng Hải ra lệnh di dời 300.000 cư dân tại Phố Đông tới các tòa nhà tái định cư. Nhiều gia đình không muốn ra đi, nhà chức trách đã phải cắt điện và nước của một số khu cộng đồng. Cuối cùng, hơn 1 triệu hộ gia đình đã phải di dời để chính quyền tái thiết Thượng Hải… Trong một thập kỷ phát triển khu Phố Đông, chính quyền Thượng Hải và trung ương đã chi hơn 10 tỷ đô la Mỹ để xây dựng hạ tầng cơ sở, bao gồm hàng loạt cầu và đường hầm kết nối khu trung tâm cổ kính của thành phố với trung tâm tài chính mới tại Phố Đông.
Hàng loạt doanh nghiệp trong nước của Trung Quốc ồ ạt đổ tới Phố Đông. Để “dụ dỗ” các công ty nước ngoài, chính quyền Thượng Hải tung ra các chính sách ưu đãi thuế và áp dụng chiến lược tiếp thị dựa trên hạ tầng đầy hiệu quả. Nhờ vậy, Thượng Hải từng bước một trở thành trung tâm thương mại và tài chính lớn nhất cả nước.
Lĩnh vực dịch vụ: cần có sự kiên nhẫn
Nhưng sự phát triển kinh tế của Châu Á đã không kết thúc ở lĩnh vực sản xuất. Ngành sản xuất chỉ giúp cho một quốc gia trở thành quốc gia có thu nhập trung bình còn ngành dịch vụ giá trị cao là đích đến của các nền kinh tế hiện đại nhất. Các hoạt động dịch vụ không chỉ giúp nâng cao thu nhập của người dân mà còn nâng cao chất lượng của nguồn lao động.
Khu vực dịch vụ của các quốc gia Châu Á đang bùng nổ thực sự trong thập kỷ qua.
Minh họa 3.5: GDP theo ngành của các quốc gia Châu Á giai đoạn 2003-2015
Tất cả các quốc gia tại Châu Á đang chuyển sang lĩnh vực dịch vụ với một tốc độ tăng trưởng cao. Tuy nhiên, mức độ thành công của mỗi quốc gia khác biệt đáng kể. Bảng dưới đây cho thấy thời gian phát triển ngành dịch vụ trên toàn Châu Á.
Minh họa 3.6: Các giai đoạn phát triển ngành dịch vụ tại các Châu Á
Từ sự tăng trưởng ổn định của các ngành nghề về tài chính, bất động sản và dịch vụ kinh doanh, hoạt động sản xuất được tác động tích cực, cải tiến từ mức độ thấp đến cao cấp. Trên thực tế, có những mối liên kết thiết yếu giữa quá trình sản xuất hiện đại và các ngành dịch vụ hiện đại. Không có được những lợi thế trong việc phát triển một nền nông nghiệp bền vững trong giai đoạn đầu tiên trong sản xuất, các quốc gia không có tiềm lực gì để đẩy họ ra khỏi giai đoạn phát triển sản xuất thứ hai này. Đối lập với sự phát triển tại khu vực Bắc Á, các nước Đông Nam Á sử dụng các phương pháp phát triển thị trường tự do. Họ đã vội vã phát triển ngành dịch vụ mà không chuẩn bị kỹ lưỡng cho một ngành sản xuất nền tảng và hiệu quả. Như bạn có thể thấy, các quốc gia này hiện đang bị mắc kẹt trong giai đoạn thứ hai của quá trình phát triển sản xuất khi ngành dịch vụ của họ không thể phát triển để mở đường.
Vừa rồi là những tóm lược về cách các quốc gia sử dụng ACD chuyển từ nông nghiệp sang sản xuất rồi tiến lên dịch vụ, đồng thời thực hiện cải cách ruộng đất và nông nghiệp. Bây giờ bạn đã hiểu được cách thức chính phủ tham gia vào nhiều khía cạnh của cuộc sống tại các quốc gia Châu Á rồi đấy.
Và, ngân hàng Châu Á được định hướng bởi các quan chức chính phủ, họ sử dụng nguồn ưu đãi và trợ cấp để phát triển các ngành công nghiệp được nhà nước lựa chọn và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Và bất kể những khiếm khuyết trong việc cấp tín dụng cho một số doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, những gì diễn ra tại nền kinh tế Châu Á chính là những gì các quốc gia Châu Á đã và đang hướng đến: Một nền kinh tế phát triển ổn định và không có nhiều sự xáo trộn về mặt xã hội.
Các nền kinh tế Châu Á đã tạo ra các tập đoàn kinh tế lớn như thế nào?
Khác với nền kinh tế tự do tại các quốc gia phương Tây thì để rút ngắn thời gian phát triển, các quốc gia Châu Á đã lựa chọn việc tập trung nguồn lực vào các tập đoàn kinh tế lớn được định hướng để sản xuất các mặt hàng xuất khẩu. Các doanh nghiệp nhà nước hoặc tư nhân có liên quan chặt chẽ đến nhà nước sẽ nhận được sự hỗ trợ rất lớn từ chính phủ nếu có những định hướng phát triển phù hợp với định hướng chung. Những sự hỗ trợ này được gọi dưới cái tên là các khoản trợ cấp từ chính phủ, với cả hai dạng là trực tiếp và gián tiếp. Những trợ cấp này có một vai trò rất lớn trong việc kích thích và khuyến khích quá trình phát triển vào các lĩnh vực tạo ra nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia và qua đó góp phần nhanh chóng nâng cao năng lực sản xuất của các doanh nghiệp trong nước.
TRỢ CẤP GIÁN TIẾP
Trợ cấp gián tiếp là các khoản giảm thuế và các khoản vay lãi suất thấp. Chúng được sử dụng bởi chính phủ Châu Á để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Những chiến lược phát triển này đã góp phần to lớn trong việc thúc đẩy các ngành sản xuất tại các nước Đông Bắc Á hướng về các ngành công nghiệp công nghệ cao của thế giới. Để loại bỏ các công ty không hiệu quả, các chính phủ sau ACD đã ưu đãi các công ty sản xuất có khả năng cạnh tranh không chỉ trong nước mà còn ở quy mô khu vực và toàn cầu. Chính phủ và hệ thống ngân hàng thương mại đã thực hiện chiến lược “cây gậy và củ cà rốt” để thúc các doanh nghiệp luôn phải tiến về phía trước.
Tuy nhiên, các khoản vay này được gắn với các cây gậy lớn đối với những doanh nghiệp tham gia nhằm hạn chế tiếp cận tín dụng đối với các doanh nghiệp không hoàn thành chỉ tiêu xuất khẩu. Đồng thời, hoạt động của các doanh nghiệp nước ngoài và hoạt động nhập khẩu tại các quốc gia này bị hạn chế rất nhiều để tạo nhiều lợi thế cho các doanh nghiệp trong nước phát triển, trong khi đó xuất khẩu được khuyến khích mạnh mẽ. Các công ty được bảo hộ kỹ lưỡng cộng với sự nỗ lực tuyệt vời đã trở thành những cỗ máy khổng lồ trước khi tiếp cận thị trường toàn cầu.
Một ví dụ về điều này tại Hàn Quốc trong giai đoạn những năm 1970. Chính phủ đã cạnh tranh cung cấp các khoản vay giá rẻ cho các công ty xe hơi trong nước để phát triển ngành công nghiệp và tăng xuất khẩu ô tô. Trong khi đó, họ hạn chế nhập khẩu xe hơi từ các hãng xe hơi nổi tiếng từ nước ngoài.
Một trong những công ty may mắn nhận được sự ưu đãi chính là Hyundai Motor Group, hiện là nhà sản xuất ô tô lớn thứ ba trên thế giới.
Minh họa 3.7: Trợ cấp cho các doanh nghiệp xuất khẩu tại Hàn Quốc 1962-1980
Ngoài ra, từ năm 1965 đến năm 1980, ngân hàng trung ương của Hàn Quốc giữ lãi suất cho vay xuất khẩu thấp, thấp hơn nhiều so với lãi suất cho vay thương mại. Chiến lược này hỗ trợ và khuyến khích xuất khẩu.
Giống như Hàn Quốc, các quốc gia khác sử dụng chính sách ACD đã điều chỉnh lãi suất cho vay ngân hàng để thúc đẩy xuất khẩu và phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên.
TRỢ CẤP TRỰC TIẾP
Trợ cấp trực tiếp, mặt khác, xảy ra khi một chính phủ cung cấp tiền cho một ngành công nghiệp hoặc công ty nhất định. Thông qua đó làm giảm giá thành sản xuất hàng hóa và tăng tính cạnh tranh của sản phẩm. Trợ cấp có thể là tiền mặt, trợ cấp hoặc cắt giảm thuế. Ví dụ, khi Nhật Bản trở thành một cỗ máy sản xuất công nghiệp, 80% doanh thu từ hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp và tập đoàn được miễn thuế. Các công ty Nhật Bản đã hợp tác với các kế hoạch định hướng phát triển kinh tế từ chính phủ để có thể nhận được các trợ cấp và các ưu đãi thuế trong hoạt động, cũng như sự nhượng bộ của chính phủ trong việc chọn nhà thầu thực hiện các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng.
Sau đó, khi chính phủ Nhật Bản đầu tư vào cơ sở hạ tầng và viễn thông, GDP của Nhật Bản đã bùng nổ từ 90 tỷ đô la Mỹ vào những năm 60 lên đến 1 nghìn tỷ đô la Mỹ vào giữa những năm 1980.
Nhật Bản là quốc gia đầu tiên tại Châu Á duy trì tăng trưởng hai con số, chủ yếu do các chính sách của ACD đã bơm nợ thật sự hiệu quả vào các ngành nghề định hướng xuất khẩu trong suốt một thời gian dài.
Hầu hết các lợi ích kinh tế sẽ hướng về các tập đoàn chịu thay đổi theo định hướng phát triển kinh tế của chính phủ. Trong khi đó, chi phí cơ hội có thể là gánh nặng cho những người đến sau hoặc những đơn vị không phát triển theo định hướng của chính phủ, vì họ phải trả giá cao hơn khi gia nhập thị trường với vai trò một đơn vị kinh tế phát triển “độc lập”.
Hãy nói về nguồn vốn lớn nhất của Châu Á
Tài nguyên thiên nhiên quan trọng, nhưng chúng vốn dĩ có hạn và thực tế phát triển của xã hội loài người lại chứng minh các quốc gia nào sở hữu nhiều tài nguyên thiên nhiên thì lại có khả năng trở thành quốc gia nghèo đói hơn là giàu có như các bạn nghĩ. Hãy nghĩ về những quốc gia như Nhật Bản và Singapore. Những quốc gia này hoàn toàn không có tài nguyên thiên nhiên để có thể phát triển kinh tế nhưng chúng ta hoàn toàn thấy được những thành tựu kinh tế mà họ đã đạt được. Yếu tố quyết định nhất làm nên thành công của họ chính là nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực có vai trò quan trọng trong việc định vị của một quốc gia trong dài hạn. Nguồn nhân lực bao gồm kiến thức, kỹ năng và khả năng lao động của một cá nhân. Có một mối tương quan giữa GDP bình quân đầu người của một quốc gia và mức độ phát triển của nguồn nhân lực.
Điều này là bởi vì một khi dân chúng trở nên có học thức hơn và chuyên môn hơn và có được các kỹ năng học tập cao hơn, họ có thể làm việc trong các công ty hoạt động trong các lĩnh vực phức tạp hơn và đóng góp lớn hơn vào sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Nhìn chung, nguồn nhân lực được tập trung đầu tư cải thiện năng lực cùng với mức độ phát triển của nền kinh tế. Ví dụ tại Đài Loan, các nhà hoạch định chính sách đã định hình con đường phát triển nền kinh tế của mình bằng cách định hướng phát triển nguồn nhân lực của quốc gia bằng mọi giá. Trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển, họ đưa phần lớn người dân của mình làm việc trong lĩnh vực sản xuất kỹ năng thấp. Họ xây dựng các khu kinh tế đặc biệt và đầu tư vào đào tạo, nâng cao giá trị lao động của người lao động. Vào những năm cuối thập niên 1980, Đài Loan cho mở rất nhiều trường dạy nghề và khi đó Đài Loan đã tạo ra số lượng kỹ sư trên 10.000 dân, nhiều hơn 70% so với Mỹ, là một cường quốc công nghiệp số một khi đó. Hệ thống giáo dục khi đó không tập trung nhiều vào khoa học cơ bản mà tập trung vào các ngành nghề trực tiếp phục vụ và phát triển nền kinh tế sản xuất mà quốc gia đang theo đuổi. Không có gì ngạc nhiên khi đây là ngành thu hút nhiều lao động Đài Loan nhất ngày nay.
Nói tóm lại, các quốc gia áp dụng đúng các chính sách kinh tế theo mô hình ACD như Nhật Bản, Hàn Quốc và sau này là Đài Loan và Trung Quốc có hiệu suất lao động cũng như GDP bình quân đầu người cao hơn hẳn các quốc gia khác. Điều này mang lại cho họ một lợi thế cạnh tranh trong việc sản xuất hàng hóa và phát triển ngành dịch vụ sau này.
Tuy nhiên, mặt trái của vấn đề cũng cần được nhìn nhận cụ thể. Mặt trái này hiện diện tại các nước Đông Nam Á, những quốc gia này không chỉ tự do hóa hệ thống ngân hàng của họ quá sớm, mà còn cố gắng “đi tắt đón đầu” từ giai đoạn đầu phát triển nông nghiệp và đi thẳng vào dịch vụ mà không đầu tư đúng mức vào nguồn nhân lực. Kết quả là công nhân của họ thiếu kiến thức hoặc kỹ năng để làm việc với các công nghệ mới. Các ngành công nghiệp của họ ít cạnh tranh và kém hiệu quả hơn.
Các chu kỳ nợ được tạo ra từ các chu kỳ phát triển các ngành nghề
Có thể nói, nền kinh tế Châu Á được tạo ra hoàn toàn từ các khoản tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại dưới sự tác động định hướng của ngân hàng Trung ương. Hãy khoan bàn về điểm hạn chế của những chính sách này mà hãy thừa nhận rằng đây chính là một chìa khóa dẫn đến thành công của phần nhiều các quốc gia Châu Á mà không phải khu vực kinh tế nào trên thế giới cũng có được. Phần lớn các ngân hàng Trung ương tại Châu Á đều gắn liền với chính phủ. Tại Việt Nam, nếu các bạn có tìm hiểu thì sẽ biết rằng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng là một trong các đơn vị ngang bộ và trực thuộc sự điều hành của chính phủ. Đây là những điều hoàn toàn khác biệt với các quốc gia phương Tây nơi các ngân hàng Trung ương được tách biệt độc lập với chính phủ trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Mục tiêu kiểm soát lạm phát mới là mục tiêu tối quan trọng của những ngân hàng Trung ương tại các quốc gia phương Tây chứ không phải chạy theo tăng trưởng như những ngân hàng Trung ương Châu Á. Sự đồng thuận giữa chính phủ của ngân hàng Trung ương và chính phủ tại Châu Á cũng là một lợi thế cho quá trình tăng trưởng nhanh của các quốc gia Châu Á, khi chính sách tiền tệ tạo được sự hỗ trợ tối đa cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế của chính phủ. Nhờ đó các dòng tín dụng thực sự được khơi thông mạnh mẽ vào các ngành nghề mục tiêu theo định hướng của chính phủ.
Các định hướng phát triển đó đã làm cho các doanh nghiệp Châu Á luôn trong cơn “nghiện” tín dụng để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng. Ngay cả trong cuộc khủng hoảng tài chính, các chính phủ thực hiện chính sách ACD luôn đảm bảo nguồn tín dụng giá rẻ trong hệ thống tiền tệ của họ để đảm bảo nguồn cung ứng cho doanh nghiệp. Thậm chí, trong những giai đoạn mà các doanh nghiệp gặp vấn đề trong quá trình tiêu thụ nợ thì chính phủ cũng là một chủ thể sử dụng nhiều nợ để góp phần gia tăng phần đầu tư cho nền kinh tế thông qua các hoạt động đầu tư công.
Do khoản vay khổng lồ, trong hai thập kỷ qua, tỷ lệ nợ chính phủ của Trung Quốc đối với GDP đã tăng từ 23% lên 55%. Vì nhiều ngân hàng tại Trung Quốc thuộc sở hữu nhà nước, khoản nợ kết hợp từ cả chính phủ và tổ chức tài chính là một con số khổng lồ.
Minh họa 3.8: Mức tăng trưởng nợ/GDP theo khu vực kinh tế tại Trung Quốc
Đúng vậy, mức vay của Trung Quốc đã gây ra nhiều cuộc tranh luận về liệu có thể xảy ra một cuộc khủng hoảng nợ bùng nổ tại Trung Quốc hay không. Tuy Trung Quốc là điểm nóng nhất nhưng tại Hồng Kông, Thái Lan, Malaysia, Singapore và các quốc gia Châu Á khác, mức tín dụng cũng tăng vọt gần đây.
Minh họa 3.9: Tỷ lệ Nợ/GDP tại các quốc gia Châu Á giai đoạn 2001-2015
Như bạn có thể thấy trong biểu đồ, các quốc gia trên khắp Châu Á đã trải qua sự gia tăng lớn về tỷ lệ nợ trên GDP của họ trong giai đoạn từ năm 2001 đến 2015, ngoại trừ Indonesia.
Lý do nhiều nước Châu Á vật lộn với các khoản nợ đang gia tăng từng ngày là vì thực tế, vốn thường được bơm vào chính quyền địa phương, các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và các công ty được ưu đãi nguồn vốn.
Có một sự liên kết chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng, tăng trưởng kinh tế thần kỳ tại Châu Á vài năm gần đây được bơm đầy nhờ nguồn vốn tín dụng mạnh.
Minh họa 3.10: Tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng tín dụng tại Trung Quốc
Tăng trưởng tín dụng đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao của Trung Quốc trong thập kỷ qua. Khi tăng trưởng tín dụng được giữ ở mức trên 20%, Trung Quốc đã duy trì nền kinh tế tăng trưởng mạnh 10% trong khoảng thời gian dài. Tuy nhiên, khi tăng trưởng tín dụng giảm dưới 20% trong 5 năm qua thì tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng chạm đáy trong vòng 20 năm qua.
Chúng ta hãy cùng nhau phân tích làm thế nào mà sử dụng nợ có thể đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Tăng trưởng kinh tế phụ thuộc phần lớn vào cách nền kinh tế hấp thụ hàng hóa và mua các tài sản mới. Khi bạn mua nhiều hơn so với năm trước, tăng trưởng kinh tế ắt hẳn sẽ khả quan. Khi bạn tiếp cận nhiều các khoản vay ngân hàng, bạn có thể có nhiều nguồn vốn có sẵn để thúc đẩy tăng trưởng. Khi đó, hàng hóa được sản xuất tăng mạnh đồng biến với khoản nợ ngân hàng.
Khi vốn vay được sử dụng hiệu quả để gia tăng năng lực sản xuất thì là một dấu hiệu tốt nhưng nếu dòng vốn đó được sử dụng không hiệu quả và tham nhũng thường xuyên xảy ra thì khi đó nợ sẽ trở thành con dao hai lưỡi.
Vai trò của hệ thống ngân hàng tại Châu Á
Vừa rồi chúng ta đã bàn đến những tác động của hệ thống ngân hàng nhưng nếu như nghĩ theo một logic bình thường thì bạn sẽ đặt ra câu hỏi là tại sao các doanh nghiệp tại Châu Á lại phụ thuộc hoàn toàn vào kênh này mà không tìm kiếm các kênh từ thị trường chứng khoán như phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Hoặc bạn cũng sẽ nghĩ tại sao chính phủ không phát triển các thị trường trên để khơi thông dòng vốn cho các doanh nghiệp mục tiêu của mình, để giảm gánh nặng cung cấp vốn cho ngân hàng.
Nhờ sự phát triển của thị trường tài chính, chúng ta có rất nhiều kênh huy động vốn bên cạnh kênh ngân hàng để đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Chúng ta có thị trường chứng khoán với cổ phiếu và trái phiếu, là nơi các tập đoàn lớn có thể phát hành chứng khoán huy động vốn từ các thị trường. Thị trường càng phát triển, các doanh nghiệp càng ít phụ thuộc vào các khoản vay ngân hàng trong việc tìm kiếm nguồn vốn để mở rộng hoạt động kinh doanh của mình.
Tuy nhiên, đó là câu chuyện hoàn hảo từ các thị trường tài chính phương Tây. Nền kinh tế Châu Á vẫn bị chi phối bởi tín dụng ngân hàng. Tại Trung Quốc, gần 70% vốn cung cấp cho các doanh nghiệp là từ các khoản vay ngân hàng. Những điều tương tự cũng diễn ra tại Nhật Bản, Hàn Quốc và các quốc gia Châu Á khác. Các doanh nghiệp tại Châu Á phụ thuộc vào nguồn vay ngân hàng cao hơn nhiều so với mức trung bình tại các quốc gia phương Tây, trung bình vào khoảng 40%. Ví dụ tại thị trường Mỹ, theo số liệu 2017 thì vốn vay ngân hàng chỉ chiếm 33% trên tổng nguồn cung cấp vốn dài hạn cho doanh nghiệp.
Minh họa 3.11: Nguồn tài trợ dài hạn của các nền kinh tế Châu Á so với Mỹ
Trước đây tôi cũng giống như các bạn khi vẫn thắc mắc tại sao các thị trường chứng khoán tại các quốc gia Châu Á không thể phát triển mạnh như thị trường chứng khoán các quốc gia phương Tây. Sau này khi tìm hiểu về tầm quan trọng của hệ thống ngân hàng tại các quốc gia Châu Á thì những câu hỏi trên dần được sáng tỏ. Thị trường tài chính của các quốc gia Châu Á luôn là lựa chọn thứ yếu đằng sau tầm quan trọng của hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong thị trường vốn Châu Á, có thể được giải thích bởi các lý do sau đây. Thực chất hệ thống ngân hàng chính là kênh quan trọng giúp chính quyền kiểm soát tầm ảnh hưởng đến nền kinh tế, đặc biệt là hỗ trợ các doanh nghiệp nhà nước hoặc các doanh nghiệp liên quan đến nhà nước. Với cơ chế này, vốn có thể dễ dàng chảy vào các ngành nghề ưu tiên theo định hướng chính phủ hơn là dựa trên hệ thống thị trường vốn bình thường.
Và với cơ chế này, ngân hàng đóng vai trò gắn kết với các doanh nghiệp, tôn trọng các điều khoản quan hệ và cam kết lâu dài với doanh nghiệp, khác hẳn so với các kênh khác của thị trường vốn như thị trường cổ phiếu và thị trường trái phiếu. Trong thị trường vốn thuần túy, cam kết lâu dài không phải là điều then chốt mà chính là việc ưu tiên phân bổ nguồn vốn một cách hiệu quả. Trong khi đó, việc vận hành dưới nền tảng ngân hàng lại đặc biệt nhấn mạnh vai trò của các mối quan hệ lâu dài và chia sẻ lợi ích dựa trên lịch sử gắn kết của ngân hàng với doanh nghiệp đó.
Lý do gốc rễ của việc tăng trưởng chậm trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp Châu Á là do thiếu vắng các tổ chức xếp hạng tín nhiệm trái phiếu, dẫn đến trái phiếu doanh nghiệp bị phụ thuộc hoàn toàn vào các cơ quan xếp hạng quốc tế để phân tích độ tin cậy. Ngoài ra, các công ty Châu Á phần lớn thuộc sở hữu gia đình và họ không sẵn lòng để minh bạch hóa thông tin.
Nếu không cải thiện các điều kiện để phát triển thị trường vốn bền vững (tồn tại các tổ chức tài chính yếu kém và sự thiếu vắng các trung gian tài chính khác như các công ty bảo hiểm và quỹ hưu trí), chi phí huy động vốn từ các kênh này sẽ đắt hơn nhiều so với tín dụng ngân hàng. Điều này hoàn toàn diễn ra ngược lại tại các quốc gia có thị trường vốn phát triển với chi phí huy động từ thị trường chứng khoán thấp hơn nhiều so với chi phí vay ngân hàng vì ở đó ngân hàng không phải là định chế duy nhất có khả năng thẩm định năng lực tín dụng cũng như tính khả thi của các dự án từ tổ chức phát hành.
Tỷ lệ tài trợ trái phiếu tại Châu Á thấp không chỉ khi so với tiêu chuẩn của các nền kinh tế đã phát triển, mà còn đối với các thị trường mới nổi khác. Trong các nền kinh tế đã phát triển, tài trợ trái phiếu thường chiếm khoảng 30-40% tổng số nợ vốn tài trợ, con số này tại thị trường Mỹ là đến hơn 50%. Riêng khu vực Châu Á không có gì ngạc nhiên khi con số này thấp hơn rất nhiều trong khi tỷ trọng tài trợ trái phiếu ở khu vực phát triển hiện luôn có xu hướng tăng qua các năm. Chúng ta có nhiều lý do để giải thích cho thực trạng này.
Trước hết, để phát triển thị trường trái phiếu đòi hỏi cơ sở hạ tầng đa dạng, bao gồm các hệ thống kế toán, luật pháp và quy định, hệ thống thanh toán, cơ quan xếp hạng tín nhiệm, mạng lưới môi giới để giao dịch trái phiếu,… Huy động vốn từ trái phiếu cũng phù hợp hơn với các công ty hoạt động tốt có hoạt động và chất lượng tín nhiệm đáng tin cậy. Tại các thị trường mới nổi, vốn là nơi mà các doanh nghiệp đang phát triển nhanh chóng và số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm ưu thế, các ngân hàng rõ ràng có lợi thế so sánh trong việc cung cấp tài chính, vì họ có thể biết rõ hơn về hoạt động kinh doanh của người vay và phần nào đánh giá rủi ro tín dụng. Thực tế là tỷ lệ tài chính trái phiếu tại Châu Á thấp hơn so với các thị trường mới nổi khác, một sự khác biệt đáng chú ý chính là do chính phủ Châu Á có ít nợ hơn chính phủ tại các thị trường mới nổi khác.
Dù rằng đang trong quá trình tăng trưởng, thị trường trái phiếu Châu Á vẫn còn bị các nhà đầu tư quốc tế đánh giá không đúng tiềm năng. Nhà đầu tư nước ngoài chỉ đang sở hữu khoảng 5% giá trị trái phiếu Châu Á đã phát hành, khá thấp so với nhiều quốc gia khác. Ví dụ như các số liệu tại thị trường Úc và Mỹ cho thấy con số đó vào khoảng 25%. Một phần lý giải của vấn đề này có thể là do thị trường trái phiếu Châu Á vẫn còn tương đối thiếu thanh khoản.
Thiếu thanh khoản cũng là một điểm mấu chốt của thị trường vốn hiện tại. Các yếu tố khác nhau có thể góp phần vào việc thiếu thanh khoản như sau. Một là một tỷ lệ lớn các trái phiếu được nắm giữ bởi các ngân hàng thương mại, thường là do những can thiệp từ chính phủ mà cụ thể là từ ngân hàng nhà nước. Trên toàn khu vực, các ngân hàng nắm giữ hơn một nửa số trái phiếu chính phủ phát hành, trái ngược với con số dưới 5% tại thị trường Mỹ và Úc. Tại một số nước Châu Á, các quỹ đầu tư của nhà nước cũng có xu hướng là chủ sở hữu lớn của trái phiếu, đặc biệt là trái phiếu chính phủ. Các loại tổ chức này có xu hướng chỉ “mua và giữ,” do đó cũng góp phần tạo nên tính thiếu thanh khoản của thị trường. Cộng với các vấn đề khác như các chủ sở hữu không bị yêu cầu đánh giá lại giá trị trái phiếu của họ theo giá thị trường, điều này làm giảm đáng kể động lực để thực hiện các giao dịch trái phiếu.
Những rủi ro tiềm ẩn của nền kinh tế phụ thuộc vào hệ thống ngân hàng
Các doanh nghiệp thường ưu tiên vay vốn ngân hàng bởi vì nó mất ít công sức lẫn thời gian để huy động vốn cần thiết cho hoạt động mở rộng kinh doanh. Tuy nhiên, rủi ro vốn có của một nền kinh tế dựa vào hệ thống ngân hàng không chỉ ảnh hưởng đến bản thân ngân hàng đó mà còn ảnh hưởng đến cả nền kinh tế và các doanh nghiệp đi vay.
Trước hết là những rủi ro liên quan đến hiệu quả của việc sử dụng vốn. Việc nguồn vốn tín dụng được cung cấp dễ dàng từ hệ thống ngân hàng đã làm cho nền kinh tế và doanh nghiệp khuếch đại rất nhanh quy mô tài sản của các công ty. Tuy nhiên điều đó làm cho hiệu quả hoạt động của cả nền kinh tế sụt giảm xuống đáng kể trong những giai đoạn các nền kinh tế được bơm nợ mạnh mẽ.
Chúng tôi có phân tích về sự thay đổi nợ đã ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của các quốc gia Châu Á như thế nào dựa trên các số liệu từ các doanh nghiệp niêm yết trong 20 năm qua. Cơ bản thì hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp tại Châu Á thấp hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp tại Mỹ. Trong khi đó, xu hướng của hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp giảm dần cùng với mức độ gia tăng nợ. Đặc biệt trong những giai đoạn nợ tăng mạnh thì mức độ sụt giảm hiệu quả càng lớn.
Minh họa 3.12: Hiệu quả sử dụng nợ giảm dần tại các nước
Một điều thú vị nữa mà tôi nhận ra là cách cấu trúc kinh tế của các chính phủ Châu Á làm cho nền kinh tế tương đối cứng nhắc, tất nhiên điều đó tốt trong bối cảnh mọi thứ phát triển trong một trật tự ổn định, do đó mỗi khi chính phủ các quốc gia thực hiện các cải cách về kinh tế cho thị trường thì hiệu quả các doanh nghiệp sẽ được cải thiện đáng kể. Điều này đã được thể hiện tại Nhật Bản sau giai đoạn 2009 và Trung Quốc trong những năm gần đây.
Nguồn: Bloomberg, One Road Research
Minh họa 3.13: Hiệu quả sử dụng vốn thấp tại các nước Châu Á
Về lý thuyết thì một doanh nghiệp cần hoạt động ở mức hiệu quả sử dụng vốn lớn hơn chi phí sử dụng vốn để có thể được gọi là hiệu quả sử dụng vốn, do mức sinh lời từ nguồn vốn lớn hơn chi phí để doanh nghiệp huy động nguồn vốn đó. Tuy nhiên như tôi đã nhấn mạnh nhiều lần, mục tiêu của các doanh nghiệp tại Việt Nam nói riêng và các quốc gia Châu Á nói chung đó là làm sao để tăng trưởng chứ không hẳn là bài toán hiệu quả sử dụng vốn.
Minh họa 3.14: So sánh chi phí và hiệu quả sử dụng vốn giữa các quốc gia
Do đó đôi khi việc phân tích hiệu quả của các doanh nghiệp tại Châu Á sẽ khó hơn rất nhiều trong việc đánh giá tiềm năng. Một phần những lý do như bạn đang nghĩ đến từ lý do về minh bạch thông tin, nhưng phần lớn lại đến từ việc chúng ta không nhận thức được hết mục tiêu chiến lược hoạt động của những doanh nghiệp này, đặc biệt là các doanh nghiệp liên quan đến nhà nước gắn liền với các mục tiêu tăng trưởng.
Hãy thử suy nghĩ về một công ty hàng đầu tại Châu Á như Samsung. Trong quá trình phát triển 10 năm qua thì tổng tài sản của Samsung đã gia tăng với tốc độ rất nhanh, tuy nhiên bạn có thể sẽ bất ngờ nếu nhìn vào hiệu quả sử dụng vốn của Samsung. Làm sao bạn có thể tưởng tượng được, một công ty cạnh tranh toàn cầu với Apple lại có hiệu quả sinh lời trên tài sản thấp như vậy? Nếu so sánh với hiệu quả sử dụng vốn của Apple thì bạn sẽ thấy có một sự chênh lệch rất lớn. Tuy nhiên, bạn có thể thấy rằng giá của Samsung vẫn có thể gia tăng mạnh mẽ trong những giai đoạn vừa qua.
Minh họa 3.15: Hiệu quả sử dụng vốn của Samsung và Apple.
Samsung là một tập đoàn kinh tế gánh cả nền kinh tế Hàn Quốc nên vai trò tăng trưởng của những doanh nghiệp như Samsung là cực kỳ quan trọng để duy trì đà tăng trưởng cho quốc gia. Bạn sẽ thấy, nếu là một nhà đầu tư dựa trên tiêu chí hiệu quả là trên hết thì có lẽ bạn đã không chọn Samsung để đầu tư.
Những phân tích trên đã cho tôi một cảm nhận rất sâu sắc về quá trình phát triển của các quốc gia Châu Á, về một cấu trúc mà mọi thứ đang bắt buộc phải gắn chặt vào nhau. Nền kinh tế của những quốc gia này bắt buộc phải đầu tư để tăng trưởng và để tăng trưởng thì không nguồn vốn nào lý tưởng bằng nợ ngân hàng. Hiệu quả kinh tế thấp không phải là vấn đề mà các doanh nghiệp tại các quốc gia này quan tâm, tăng trưởng mới là yếu tố quan trọng hàng đầu. Những kết luận trên có thể gợi ý cho tôi rất nhiều về các chiến lược đầu tư tại thị trường Châu Á trong việc tìm kiếm các cơ hội đầu tư. Thực tế thì những doanh nghiệp có thể tăng trưởng mà vẫn duy trì được hiệu quả sử dụng vốn sẽ là những cơ hội đầu tư tuyệt vời mà bạn có thể lựa chọn. Tôi sẽ quay trở lại vấn đề này khi bàn với các bạn về các chiến lược đầu tư cụ thể tại Việt Nam.
Vấn đề thứ hai tiềm ẩn các chu kỳ nợ xấu tương ứng với các chu kỳ nợ. Sự khởi đầu của cuộc khủng hoảng vào năm 1997 nhanh chóng phơi bày những rủi ro mà một nền kinh tế phải đối mặt khi quá phụ thuộc vào hệ thống ngân hàng. Nếu có khủng hoảng xảy ra trong ngành ngân hàng, dòng chảy tài chính tổng thể cho nền kinh tế bị ảnh hưởng trực tiếp vì không có các kênh dẫn vốn thay thế khác. Vấn đề nghiêm trọng hơn khi thực tế nguồn vốn từ ngân hàng có thể tương đối ngắn hạn, do đó, không chỉ dòng chảy của các khoản vay mới giảm mà các khoản vay hiện tại cũng có thể bị cắt giảm nhanh chóng.
Chắc hẳn bạn đã hiểu nguyên nhân sâu xa của sự khác biệt trong thị trường vốn tại Châu Á nói chung. Đây là nền tảng để chúng ta phân tích sâu vào cấu trúc của từng phân đoạn trong thị trường vốn.
Vậy tại sao thị trường vốn tại các quốc gia Châu Á vẫn tồn tại?
Chính phủ đủ thông minh để biết rằng cơ chế huy động nguồn vốn từ trái phiếu không phù hợp cho các doanh nghiệp tại Châu Á nhưng họ vẫn duy trì sự tồn tại của thị trường này.
Thực tế là các ngân hàng đang chiếm phần lớn số lượng người tham gia trong thị trường trái phiếu làm nổi bật tầm quan trọng của câu hỏi này. Việc thị trường trái phiếu của Trung Quốc đã phát triển trong 30 năm qua bởi vì ngân sách quốc gia cần được tài trợ trong khi nếu chỉ phụ thuộc vào nguồn tiền thuế là quá mỏng. Các công ty có thể dựa vào tín dụng ngân hàng, nhưng Bộ Tài chính thì không thể. Bộ Tài chính sẽ như thế nào nếu họ không thể phát hành trái phiếu chính phủ đủ để bù đắp các thiếu hụt ngân sách tạm thời và cả những thâm hụt dài hạn? Nền kinh tế hiện đại sẽ là gì nếu nó không có đường cong lợi suất trái phiếu chính phủ để đo lường rủi ro lợi tức ở các kỳ hạn khác nhau?
Điều này chứng minh rằng nhu cầu tài chính của chính phủ là lý do chính cho sự xuất hiện của thị trường trái phiếu. Đây là phương tiện huy động vốn của chính phủ thay vì của doanh nghiệp Châu Á.
Thế còn đối với thị trường cổ phiếu?
Hầu hết các thị trường chứng khoán tại Châu Á đã phát triển sau ngành ngân hàng và thị trường trái phiếu chính phủ. Ngành ngân hàng phải đi trước khi toàn bộ nền kinh tế bắt đầu với các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đối với các doanh nghiệp mới thành lập chưa có hồ sơ theo dõi hoặc danh tiếng cần thiết để huy động từ kênh trái phiếu, tài chính ngân hàng là giải pháp duy nhất cho họ.
Tuy nhiên, khi các công ty phát triển hơn so với giai đoạn vừa thành lập, họ chủ động triển khai các kế hoạch niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán để nhận tài trợ trực tiếp từ công chúng thay vì gián tiếp thông qua hệ thống ngân hàng như trước đây.
Việc thiết lập thị trường chứng khoán là một mốc quan trọng đối với mỗi quốc gia tại khu vực Đông Bắc Á.
Trường hợp của Trung Quốc
Thị trường chứng khoán Thượng Hải tại Trung Quốc được thành lập vào tháng 6 năm 1990, chỉ một năm sau sự kiện Thiên An Môn. Thị trường mở cửa vào cuối năm giữa cuộc xung đột chính trị liên quan đến việc liệu những cải cách những năm 1980 đi theo con đường “Tư bản chủ nghĩa” hay “Xã hội chủ nghĩa”.
Thị trường lúc bấy giờ không quan trọng mục đích phân bổ nguồn vốn vào nền kinh tế. Sau đó, như hiện tại, 4 ngân hàng lớn nhất cung cấp tất cả các nguồn vốn chảy vào khu vực nhà nước theo định hướng chính phủ.
Lý do thiết lập thị trường chứng khoán không liên quan đến tính chính trị hoặc yêu cầu vốn của doanh nghiệp nhà nước. Thay vào đó, Bắc Kinh đã quyết định thành lập thị trường chứng khoán vào năm 1990, phần lớn là do thôi thúc kiểm soát các tiềm ẩn bất ổn xã hội và một phần là do các doanh nghiệp nhà nước không có khả năng hoạt động hiệu quả trong môi trường cạnh tranh.
Quyết định này dẫn đến việc thị trường vốn thực sự hoạt động đầu tiên tại Trung Quốc và các ý tưởng cũng như công nghệ tài chính đã tạo ra siêu tập đoàn kinh tế cho quốc gia. Tất cả những quyết định này góp phần tập trung quyền lực tài chính mà tại Bắc Kinh chưa từng có.
Việc IPO các doanh nghiệp nhà nước lớn là một trong những động thái chiến lược quan trọng giúp chính phủ Trung Quốc tái cấu trúc hệ thống tài chính của họ. Số vốn huy động được từ thị trường chứng khoán đại lục và thị trường chứng khoán Hồng Kông sẽ giúp cho những công ty giảm phụ thuộc vào một hệ thống ngân hàng gặp nhiều vấn đề của Trung Quốc, đồng thời có thể tiếp cận nguồn vốn dài hạn phát triển các dự án của công ty.
Việc thiết lập thị trường chứng khoán đã nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước tại Trung Quốc theo như chúng ta thấy trong biểu đồ dưới đây, tỷ lệ doanh thu của các doanh nghiệp nhà nước trong doanh thu toàn cầu 500 doanh nghiệp nhà nước đã tăng đáng kể từ 3% năm 2005 lên 15% năm 2014.
Minh họa 3.16: Tỷ lệ doanh nghiệp nhà nước trong top 500 doanh nghiệp
Trong số 10 công ty có doanh thu lớn nhất thế giới thì các tập đoàn kinh tế nhà nước của Trung Quốc đã chiếm 3 trên 4 vị trí đầu tiên. Chính những giai đoạn tập trung nguồn vốn của xã hội vào các tập đoàn kinh tế chủ lực đã giúp Trung Quốc hình thành các tập đoàn kinh tế khổng lồ đủ sức cạnh tranh trên bình diện toàn cầu.
Minh họa 3.17: Top 10 doanh nghiệp hàng đầu của Global Fortune 500
Chính phủ đẩy mạnh các ngành nghề chủ lực như thế nào?
Có lẽ một trong những công cụ quan trọng nhất được sử dụng để vận hành phát triển công nghiệp hóa định hướng ngành nghề cụ thể tại quốc gia Đông Á là định hướng hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước và phân bổ tín dụng vào một số ngành nghề nhà nước ưu tiên. Chính phủ với ngân sách quốc gia đại diện phần lớn tỷ trọng trong GDP, sẽ sử dụng nguồn ngân sách đó để phát triển các dự án quốc gia.
Trong nền kinh tế quốc doanh, chính phủ sẽ lập các kế hoạch chi tiết để tăng trưởng kinh tế theo từng thời kỳ. Hầu như chính phủ đều cho rằng họ đủ khôn ngoan hơn thị trường trong việc định hướng toàn bộ nền kinh tế từng bước tiến đến sự tăng trưởng hoàn hảo. Trong một vài trường hợp, chính phủ có thể mắc sai lầm. Tuy nhiên cách vận hành này đã được áp dụng tại các quốc gia Đông Bắc Á và đã góp phần tạo ra sự thịnh vượng của khu vực này ngày nay.
Trường hợp của Hàn Quốc
Tôi nghĩ câu chuyện của Hàn Quốc sau đây sẽ giúp bạn hiểu hơn về việc các ngành nghề trong nền kinh tế được phát triển tuần tự như thế nào theo quá trình định hướng của chính phủ.
Kinh tế phát triển thần kỳ của Hàn Quốc có thể được xem như là một ví dụ điển hình. Trong giai đoạn phát triển khác nhau, chính phủ đã vận hành trực tiếp toàn bộ nền kinh tế chuyển hướng đáp ứng với các biến động toàn cầu.
Trong những năm 1950, họ tập trung vào việc tái lập các ngành nghề quan trọng nhằm phục hồi kinh tế sau giai đoạn chiến tranh, nhiều chính sách khuyến khích được ban hành đối với ngành nông nghiệp nhằm giúp quốc gia này tự chủ về nguồn cung thực phẩm trong nước, tập trung phát triển nhằm thay thế các sản phẩm hiện đang phải nhập khẩu.
Hoạt động xuất khẩu được đẩy mạnh trong những năm 1960, đặc biệt tập trung vào phát triển công nghiệp nhẹ trước khi chuyển sang giai đoạn sản xuất công nghiệp nặng những năm 70.
Kể từ năm 1980, Hàn Quốc tập trung vào ngành công nghệ cao và định hướng kinh tế sáng tạo trong những năm 2000.
Minh họa 3.18: Lịch sử phát triển kinh tế tại Hàn Quốc 1960-2010
Quá trình phát triển công nghiệp được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ tại Hàn Quốc trong giai đoạn từ 1960 đến những năm 2000. Vào đầu những năm 1960, công nghiệp nhẹ là định hướng phát triển chính nhưng sau này thì công nghiệp nặng và công nghiệp hóa chất bắt đầu gia tăng dần để chiếm tỷ trọng lớn trong lĩnh vực phát triển công nghiệp.
Sự chuyển dịch theo thời gian đó được phản ánh rõ trong cấu trúc các sản phẩm xuất khẩu từ Hàn Quốc. Trong năm 1960, top 10 hàng hóa xuất khẩu chủ yếu là các hàng hóa chính yếu (quặng sắt, than đá, cá biển và gạo). Tất cả các mặt hàng này chiếm khoảng 62% trên tổng sản phẩm. Năm 2008, top 10 sản phẩm xuất khẩu nghiêng về sản phẩm sản xuất (tàu và thiết bị đóng tàu, thiết bị điện thoại, điện thoại, linh kiện bán dẫn, màn hình phẳng và máy tính). Hầu hết đều là các sản phẩm công nghệ có giá trị cao, chiếm khoảng 61% tổng sản phẩm xuất khẩu.
Chính phủ đã cung cấp nhiều ưu đãi bao gồm ưu đãi tín dụng và lãi suất hấp dẫn. Sự chênh lệch trong lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực xuất khẩu có định hướng chính phủ với các hoạt động xuất khẩu thương mại thông thường thấp hơn khoảng phân nửa. Điều này khuyến khích các hoạt động cạnh tranh trên thị trường quốc tế của các quốc gia được hỗ trợ từ chính phủ.
Trung Quốc cũng tiếp bước con đường này
Tổng dư nợ tín dụng của Ngân hàng Phát triển Trung Quốc (CDB) trong giai đoạn 2001-2014 cho thấy chính phủ Trung Quốc đã phân bổ nguồn vốn vào các ngành được định hướng phát triển theo kế hoạch.
CDB là một trong các ngân hàng nhà nước Trung Quốc, không giống như các ngân hàng thương mại nhà nước khác, CDB không huy động tiền gửi. Ngân hàng này huy động vốn từ các trái phiếu phát hành cho các tổ chức và dân cư. Những tài sản này được xem như tài sản phi rủi ro trong bảng cân đối kế toán của NHTM do được sự bảo lãnh từ chính phủ. Cấu trúc trái phiếu này cho phép CDB cung cấp các khoản vay tài trợ với kỳ hạn dài hơn so với các NHTM khác. Nguồn vốn huy động được sẽ trực tiếp bơm vốn vào các ngành trọng điểm theo định hướng chính phủ.
CDB hiện có dư nợ tín dụng khoảng $900 tỷ vào cuối năm 2011, chiếm 10% tổng dư nợ toàn hệ thống và gấp đôi số tín dụng mà Ngân hàng Thế giới đang cho vay trên phạm vi toàn cầu.
Theo bảng bên dưới, chính phủ định hướng phát triển các ngành tiện ích như điện năng và giao thông vận tải trong những năm 1990-2000, điều này được phản ánh qua việc phân bổ nguồn vốn vay của ngân hàng CDB vào các ngành này. Khi định hướng chuyển đổi sang các ngành khác thì việc phân bổ nguồn vốn cũng thay đổi nhanh chóng. Ngày nay, những ngành nghề không thuộc lĩnh vực quản lý của nhà nước lại đang là những ngành nghề thu hút nhiều vốn với tỷ trọng tăng dần trong giai đoạn nói trên.
Nguồn: Hiệp hội Ngân hàng Trung Quốc
Minh họa 3.19: Phân bổ dư nợ của Ngân hàng Phát triển Trung Quốc
Cách các quốc gia Châu Á duy trì lợi thế
Quả thật các quốc gia Châu Á đúng là bậc thầy trong việc sử dụng nguồn vốn tín dụng để tạo nên sự thịnh vượng cho quốc gia của mình. Chỉ trong một thời gian ngắn, các thị trường Châu Á đã nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu toàn cầu bằng các tập đoàn kinh tế khổng lồ được hình thành từ nguồn lực chung của xã hội. Với quy mô to lớn của mình, các tập đoàn kinh tế này đã nhanh rút ngắn khoảng cách với các doanh nghiệp phương Tây về mặt công nghệ và nguồn vốn, thậm chí họ còn nhận được sự hậu thuẫn rất lớn từ các chính sách bảo hộ của chính phủ.
Tạo ra lợi thế đã khó nhưng để duy trì lợi thế thì còn khó hơn do khi tích trữ một lượng lớn ngoại hối từ xuất khẩu thì lẽ ra đồng tiền của các quốc gia Châu Á sẽ tăng giá đáng kể so với đồng đô la Mỹ. Tuy nhiên, một lần nữa họ lại can thiệp vào thị trường ngoại hối như cái cách họ đã can thiệp vào thị trường tín dụng. Lượng ngoại hối tích lũy không được đưa vào sản xuất mà thay vào đó sẽ được tích lũy trong quỹ dự trữ ngoại hối của Ngân hàng Trung ương nhằm mục tiêu tác động vào xu hướng biến động của tỷ giá. Tỷ giá của các đồng tiền như đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc, đồng Yên của Nhật và đồng Won của Hàn Quốc luôn biến động theo một xu hướng có lợi nhất cho cán cân mậu dịch của những quốc gia này. Với quy mô quỹ dự trữ ngoại hối lớn nhất thế giới, những quốc gia Châu Á này luôn được mệnh danh là những quốc gia thao túng giá trị đồng tiền của họ theo quan điểm của người Mỹ.
Minh họa 3.20: Dự trữ ngoại hối tại các quốc gia Châu Á
Một trong những thông tin mà các quốc gia Châu Á thường hay công bố hằng tháng là mức dự trữ ngoại hối của các quốc gia này. Dự trữ ngoại hối được hiểu là các loại tiền tệ hay các loại tài sản được mệnh giá bằng đồng tiền của các quốc gia khác được ngân hàng nhà nước nắm giữ. Thông thường các quốc gia sẽ dự trữ vàng hoặc các loại ngoại tệ mạnh như đô la Mỹ, Bảng Anh, Euro,… Do vàng thường không được trả lãi nên các quốc gia thường dự trữ các tài sản mệnh giá bằng đồng đô la Mỹ như trái phiếu của chính phủ Mỹ.
Đô la Mỹ được xem là đồng tiền có khả năng chuyển đổi lớn nhất trên thế giới do đó việc dự trữ đồng đô la Mỹ sẽ giúp cho quốc gia đó đảm bảo khả năng thanh toán các hàng hóa và mua dịch vụ từ các quốc gia khác. Tuy nhiên, có bao giờ bạn đặt câu hỏi là tại sao các quốc gia thuộc các châu lục khác có mức dự trữ ngoại hối rất thấp trong khi các quốc gia Châu Á lại là trung tâm của giá trị dự trữ ngoại hối toàn cầu như bản đồ bên trên.
Vai trò của quỹ dự trữ ngoại hối này là nhằm can thiệp vào thị trường ngoại hối để duy trì tỷ giá trong một biên độ mong muốn của chính phủ. Quốc gia có dự trữ ngoại hối càng lớn thì khả năng can thiệp của chính phủ vào thị trường ngoại hối càng cao. Chính phủ cũng như một chủ thể trên thị trường ngoại hối nhưng với quy mô dự trữ ngoại hối lớn, những mua bán của chính phủ sẽ có tác động rất mạnh lên xu hướng tỷ giá.
Như chúng ta cũng thấy trên biểu đồ, phần lớn các quốc gia có dự trữ ngoại hối lớn đều nằm tại Châu Á. Lớn nhất và thứ hai thế giới là Trung Quốc và Nhật Bản với mức dự trữ vào khoảng 3.162 tỷ và 1.205 tỷ. Các quốc gia có quy mô nhỏ hơn như Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore thì mức dự trữ cũng lớn hơn rất nhiều so với các quốc gia phương Tây.
Như chúng ta đã biết, trong mô hình ACD thì tỷ giá đóng vai trò rất quan trọng để các doanh nghiệp định hướng xuất khẩu có thể có được những lợi thế về giá trên thị trường thương mại quốc tế. Quốc gia nào có xuất khẩu đóng vai trò càng quan trọng thì sẽ càng đặt nặng vai trò quan trọng của việc can thiệp tỷ giá, khi đó dự trữ ngoại hối sẽ đóng vai trò đặc biệt trong mô hình phát triển kinh tế tại các quốc gia này.
Suốt một thời gian dài Trung Quốc đã bị Mỹ cáo buộc về tội thao túng tỷ giá khi duy trì đồng Nhân dân tệ ở mức giá thấp trong một thời gian dài qua đó tạo mức thâm hụt khổng lồ trong cán cân thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc.
Chúng ta có thể hình dung là trong một thị trường tự do thì khi một quốc gia có thặng dư thương mại với một quốc gia khác, giá trị đồng tiền của quốc gia đó phải mạnh hơn tương đối trong tương lai. Khi giá trị đồng tiền của một quốc gia có thặng dư thương mại nó chứng minh giá trị đồng tiền tăng giá, qua đó làm cho giá trị hàng hóa từ quốc gia có thặng dư trở nên đắt hơn, khiến cho thặng dư giữa hai quốc gia giảm xuống và trở lại mức cân bằng. Khi chính phủ các quốc gia sử dụng dự trữ ngoại hối để can thiệp vào thị trường ngoại hối, các thông tin về cung cầu trong thị trường sẽ bị sai lệch từ đó tỷ giá được giữ theo định hướng của chính phủ.
Để có thể xây dựng những quỹ dự trữ đó thì các quốc gia Châu Á lại phải tiếp tục gia tăng sử dụng một công cụ quen thuộc. Đó là nợ. Tuy nhiên lần này là các khoản nợ từ chính phủ. Do đó để có thể tích trữ một lượng ngoại tệ lớn thì đòi hỏi ngân hàng Trung ương các quốc gia phải cung ứng một lượng nội tệ lớn ra ngoài thị trường. Tất nhiên, khi đó để tránh lượng nội tệ ngoài thị trường lớn có thể tạo nên lạm phát thì một lượng lớn trái phiếu chính phủ được phát hành để trung hòa lượng tiền dư thừa trong nền kinh tế này. Kết quả cuối cùng là nợ công của chính phủ sẽ gia tăng lên nhanh chóng. Chúng ta sẽ thấy điều này trong sự tương quan giữa những giai đoạn gia tăng quỹ dự trữ ngoại hối và nợ công của chính phủ Nhật và Trung Quốc.
Nguồn: IMF, World Bank, One Road Research
Minh họa 3.21: Nợ công và dự trữ ngoại hối của Trung Quốc và Nhật Bản
Tôi biết chúng ta thường quan tâm nhiều đến mức gia tăng trong nợ công của quốc gia nhưng đến đây chúng ta sẽ có cái nhìn đa chiều hơn về vai trò của nợ công, đặc biệt là tại các quốc gia Châu Á. Nếu nợ công gia tăng đến từ các dự án đầu tư công không hiệu quả thì đó mới là vấn đề đáng quan ngại còn nếu việc nợ công gia tăng đến từ việc gia tăng trong quỹ dự trữ ngoại hối của quốc gia thì nhìn chung tài sản và nợ trên bảng cân đối kế toán của quốc gia đều tăng lên như nhau, nên không để lại các tác động tiêu cực đáng kể. Vì thế khi đánh giá nợ công gia tăng cần có một sự bóc tách phân tích kỹ lưỡng các yếu tố tác động từ sự gia tăng trong quỹ dự trữ ngoại hối. Tuy nhiên, việc duy trì quỹ dự trữ ngoại hối lớn đã giúp gia tăng lợi thế của quốc gia trong việc giữ ổn định giá trị đồng tiền, hỗ trợ quá trình tăng trưởng kinh tế.
Tự do hóa quá sớm tại các quốc gia Đông Nam Á
Tôi đã đề cập với các bạn nhiều về sự khác biệt trong việc phát triển theo mô hình ACD của các quốc gia Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Trong phần này tôi sẽ giải thích cho các bạn sự khác biệt trong chính sách kinh tế giữa hai khu vực trên trong 50 năm qua. Thực tế vào những năm 1960 thì nền kinh tế Nam Triều Tiên, tức là Hàn Quốc ngày nay nghèo hơn Malaysia tại Đông Nam Á rất nhiều. Tuy nhiên, những định hướng chính sách phát triển của hai quốc gia trên đã tạo nên sự khác biệt khổng lồ giữa hai quốc gia. Một bên là nền kinh tế Hàn Quốc vươn lên các cường quốc kinh tế của thế giới với các tập đoàn kinh tế khổng lồ như Samsung và Huyndai trong khi đó thì nền kinh tế Malaysia vẫn trong giai đoạn tiếp tục tìm kiếm hướng đi cho con đường phát triển.
Một nhân vật rất nổi tiếng trong giai đoạn này tại các quốc gia Đông Nam Á là thủ tướng Malaysia Mahathir bởi các chính sách kinh tế nổi tiếng của mình tại Malaysia. Cuốn sách ra đời trong một giai đoạn rất thú vị khi nhắc lại thời điểm cầm quyền của ông Mahathir gần 30 năm trước, đặc biệt hơn là ông lại vừa được bầu trở lại vị trí thủ tướng trong năm 2018 vừa qua để giải quyết các vấn đề khó khăn của kinh tế Malaysia, khi ông đã 92 tuổi…
Ông Mahathir tiếp quản vị trí thủ tướng Malaysia lần đầu tiên vào năm 1981. Khi đó ông Mahathir đã học hỏi các chính sách của ông Park Chung Hee, nhà độc tài Hàn Quốc, người đã lãnh đạo đất nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề thoát khỏi đói nghèo để trở thành một trong những nền kinh tế lớn nhất Châu Á. Không giống như Mahathir, Park Chung Hee đã nghiên cứu chính sách phát triển kinh tế của Đức và Nhật Bản theo mô hình phát triển ACD.
Và kết quả đã diễn ra tại Hàn Quốc như thế nào?
Sản lượng nông nghiệp của Hàn Quốc bùng nổ. Dưới sự lãnh đạo của ông, năng suất lúa gạo tăng từ mức trung bình 3 tấn/ha vào giữa những năm 1950 đến 5,3 tấn/ha trong những năm 1970.
Lĩnh vực sản xuất cũng đã có sự tăng trưởng tốt. Năm 1962 (một năm sau khi tổng thống Park Chung Hee lên nắm quyền) xuất khẩu hàng hóa của Hàn Quốc đạt 56 triệu đô la Mỹ và ba năm sau giá trị xuất khẩu đã tăng lên gấp 3 lần.
Sự thành công này một phần là do nghiên cứu của Ông Park về chính sách phát triển của Đức và Nhật Bản, Hàn Quốc giờ đây là cái nôi của những công ty đẳng cấp thế giới như Hyundai Motors và Samsung Electronics.
Mahathir - người lên nắm quyền chỉ hai thập kỷ sau ông Park nhưng cách tiếp cận về phát triển kinh tế Malaysia đi theo một hướng khác. Mặc dù ông đã khuyến khích kinh tế cạnh tranh với chính sách ‘Hướng về phía Đông’ của mình, tuy nhiên ông đã dành quá nhiều thời gian lo lắng về sắc tộc (Malaysia có 3 sắc tộc chính là người Mã, người Trung Quốc và người Ấn) thay vì xây dựng các chính sách kinh tế phù hợp trong bối cảnh thương mại toàn cầu bùng nổ. Cuối cùng, sau một thời gian dài phát triển thì nông nghiệp của Malaysia vẫn dậm chân tại chỗ và ngành sản xuất của nước này bị suy yếu từ sự quản lý thiếu hiệu quả của nhà nước.
Trên thực tế, Mahathir là người có quan hệ gần gũi nhất với các nhà lãnh đạo Đông Nam Á nhằm thực hiện các chính sách phát triển kinh tế dựa trên việc học hỏi các quốc gia đi trước rất thành công như Nhật Bản, Hàn Quốc và sau đó là Trung Quốc. Các nhà lãnh đạo Đông Nam Á khác tại Thái Lan, Indonesia và Philippines đã thất bại trong việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế Đông Á, kết quả là nền kinh tế không có ngành sản xuất mạnh và nền kinh tế dễ bị suy thoái.
Mô hình kinh tế của các quốc gia Đông Nam Á
Hầu hết các nước Đông Nam Á (chúng ta sẽ thảo luận về Indonesia, Philippines, Malaysia và Thái Lan bên dưới) đã thử một số hình thức phát triển ‘Đông Á’ nhưng lại rút ngắn trong bước đầu tiên: đó là không thực hiện triệt để quá trình cải cách ruộng đất. Và đây là lúc câu chuyện về hai khu vực kinh tế của Đông Á bắt đầu.
Tại sao phải cải cách ruộng đất?
Trước khi công nghiệp hóa, canh tác nông nghiệp là xương sống của bất kỳ nền kinh tế nào. Ngạc nhiên thay, chính sách nông nghiệp mà chính phủ thực hiện có vai trò quan trọng trong việc xác định liệu một quốc gia có trở thành một nhà sản xuất khổng lồ hiện đại hay không.
Các nước Đông Bắc Á khuyến khích nông hộ quy mô nhỏ thay vì đẩy mạnh sớm sang nông nghiệp quy mô lớn như các nước Đông Nam Á. Nuôi trồng hộ gia đình tối đa hóa sản lượng bằng cách sử dụng hiệu quả lực lượng lao động có tay nghề thấp, trong khi nông nghiệp quy mô lớn tạo ra ít việc làm và sản lượng nông nghiệp thấp.
Ví dụ, khi Malaysia được cai trị bởi Vương quốc Anh, chính phủ đã chỉ đạo trợ cấp (như cơ sở hạ tầng nông thôn, thủy lợi và các dịch vụ khuyến nông) đối với các cư dân Anh kiểm soát đồn điền cao su, ngành công nghiệp có lợi nhất của đất nước vào thời điểm đó. Các địa chủ nhỏ được cho là không hiệu quả và lạc hậu, vì vậy họ nhận được rất ít sự hỗ trợ của chính phủ. Nhưng hóa ra (sau một nghiên cứu dẫn đầu về sản lượng cao su do chính phủ định hướng) sản lượng cao su của các hộ sản xuất nhỏ hơn cao hơn so với sản lượng cao su - năng suất trung bình cao hơn 50%. Nông dân sở hữu đất nhỏ có năng suất cao hơn vì họ gặt hái được phần thưởng lao động của họ.
Trong nửa sau của thế kỷ XX, các nước Đông Bắc Á đã thực hiện cải cách đất đai lớn, chuyển quyền sở hữu đất cho đa số nông dân. Kết quả là năng suất trên hecta và tổng sản lượng đã tăng lên nhanh chóng. Tại Đông Nam Á, địa chủ gần như kiểm soát ngành nông nghiệp dẫn đến việc nông dân không có động lực canh tác và tiếp tục nợ tiền thuê đất. Không có đất làm tài sản thế chấp, nông dân không có cách nào để tiếp cận tín dụng ngân hàng để thực hiện quá trình cơ giới hóa nông nghiệp.
Tại sao Đông Nam Á không phân chia lại ruộng đất?
Khi nhìn một người nấu ăn ngon thì bạn thấy mọi thứ có vẻ dễ dàng để tạo ra một món ăn ngon. Đôi khi bạn còn được hướng dẫn đầy đủ và chi tiết cách thực hiện món ăn. Nhưng những ai đã từng nấu ăn rồi sẽ biết rằng ngay cả việc tìm kiếm lựa chọn các nguyên liệu đầu vào đúng tiêu chuẩn trước sự chèo kéo, đôi khi lừa lọc của những người bán hàng thật không dễ dàng. Liệu bạn có đủ kiên nhẫn để chuẩn bị các loại phụ gia hay không? Cuối cùng là cảm giác của một đầu bếp tuyệt vời để có thể điều chỉnh nước súp và các nước chấm phù hợp.
Nhà điều hành tại các quốc gia Đông Nam Á cũng đã gặp các vấn đề tương tự như vậy khi xây dựng các chính sách kinh tế theo mô hình phát triển kinh tế ACD. Họ cũng học theo từng bước bài học của Nhật và Hàn Quốc đã thực hiện nhưng thất bại.
Các nước Đông Nam Á đã cố gắng cải cách quyền sở hữu đất ít nhất một lần. Nhưng mọi chính sách cải cách ruộng đất đơn lẻ đều bị thất bại bởi những kẽ hở trong quá trình thực hiện.
Tại nhiều nước, địa chủ chịu trách nhiệm thực hiện chính sách cải cách ruộng đất. Nhưng tất nhiên, họ có rất ít động cơ để phân phối lại đất của họ cho những người không có đất. Số tiền kiếm được của nông dân cũng không được chuyền đến tay họ. Thay vào đó, các quan chức chính phủ (địa chủ) đã gian lận số tiền. Một số chính phủ thậm chí đã ăn cắp trắng trợn bằng cách đánh thuế xuất khẩu nông nghiệp và đầu vào nguyên liệu quan trọng như phân bón.
Chính sách cải cách ruộng đất lỏng lẻo
Những gì diễn ra tại Philippines là một ví dụ cực đoan nhất về chính sách ruộng đất rối rắm dù rằng họ đã cố gắng nhiều lần để thực hiện cải cách ruộng đất nhưng đều gặp thất bại thảm hại.
Lần đầu tiên là khi người Mỹ kiểm soát các đảo. Chính phủ Philippines đã lấy đất từ các vùng đất Công giáo nhưng theo các đơn đặt hàng của Mỹ, giá nhượng đất cho nông dân được ấn định theo giá đất trên thị trường. Điều này rất khủng khiếp vì nông dân không có khả năng mua đất ở mức giá cao như vậy. Do đó, gần như tất cả 165.000 ha đã kết thúc trong tay của các doanh nhân.
Những cải cách ruộng đất tiếp theo được ban hành trong thế kỷ tiếp theo, nhưng đã rơi vào một mô típ quen thuộc: Chính phủ đã thực hiện một số cải cách nông nghiệp tối thiểu cần thiết để dập tắt bất đồng chính kiến. Ước tính từ năm 1900 đến năm 1986 chỉ có 315.000 ha đất (khoảng 4% diện tích canh tác) được phân phối lại.
Trong một đất nước mà đất canh tác chiếm một phần ba diện tích đất, nhiều hơn Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, đó là chưa tính đến yếu tố năng suất, người Philippines lẽ ra phải có khả năng phát triển ngành nông nghiệp của mình một cách bền vững. Nhưng ngày nay, 8,5 triệu trong số 11,2 triệu lao động nông thôn sống trong nghèo đói. Năng suất nông nghiệp vẫn không tăng. Thật không may, chính sách cải cách ruộng đất nửa vời không phải là duy nhất đối với Philippines và cản trở phần lớn Đông Nam Á.
Những người nắm giữ đất đai
Tại các nền kinh tế Đông Bắc Á, địa chủ đã bị tước đoạt ruộng đất và thậm chí đôi khi bị giết để cuộc cải cách có thể diễn ra triệt để nhất. Nhưng tại khu vực Đông Nam Á, các địa chủ đóng vai trò là nhà độc tài địa phương và nắm quyền lực của họ thông qua vũ lực, làm cản trở tiến trình cải cách ruộng đất.
Một trong những nhà độc tài là Roberto Benedicto, hắn quản lý độc quyền việc buôn bán đường tại Philippines và sở hữu Hacienda Esperanza - một khu đất rộng 564 hecta trên Negros Occidental. Hắn có nhiều tai tiếng tại Negros vì đã tài trợ cho các nhóm bảo kê địa phương, giúp hắn hại những người đối nghịch với lợi ích của hắn.
Câu chuyện kể rằng chính quyền trung ương đã cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu đất cho một số công nhân bất động sản của mình. Để thể hiện cam kết của chính phủ đối với cải cách ruộng đất, thư ký của chương trình cải cách nông nghiệp tự mình đi đến Negros để đảm bảo đất đai đã được chuyển sang công nhân. Nhưng các vệ sĩ vũ trang của Benedicto đã từ chối để cho thư ký vào bên trong. Khi các công nhân cố gắng đòi lại đất, các lính canh bắn một trong số họ chết và làm bị thương hai người khác.
Cuối cùng, cải cách ruộng đất đã được thực thi. Nhưng chính phủ đã không hỗ trợ các dự án đầu tư nông nghiệp với các dịch vụ khuyến nông và trợ cấp. Nếu không có sự đầu tư của chính phủ, nông dân phải hoặc (1) thuê lại lô đất của gia đình Benedicto hoặc (2) vay vốn với lãi suất cắt cổ (50% - 120% một năm). Nhưng khi những người đi vay không thể trả tiền, đất đã bị thu hồi. Kết quả là nông dân đã kết thúc tại cùng một nơi họ bắt đầu: Không có đất.
Không phân phối đất đai phù hợp cho hầu hết nông dân, sự kém hiệu quả tiếp tục gây ra dịch bệnh cho ngành nông nghiệp tại Philippines. Ngày nay, năng suất trung bình của lúa và ngô, hai loại cây trồng lớn nhất, lần lượt là 3,8 tấn và 2,6 tấn/ha. Tại Đài Loan (một quốc gia đã ban hành thành công chính sách cải cách ruộng đất) là 4,8 tấn và 3,8 tấn.
Tham nhũng lan rộng
Giống như Philippines, Indonesia đã cố gắng thực hiện cải cách ruộng đất nhưng tham nhũng từ tất cả các cấp chính phủ đã cản trở quá trình này.
Sau khi Indonesia giành độc lập vào năm 1945, Tổng thống Sukarno hứa hẹn thực thi các chính sách phát triển nông nghiệp triệt để trong những năm 1950. Năm 1957, các đồn điền nước ngoài đã bị quốc hữu hoá. Năm 1960, một chương trình cải cách ruộng đất chung đã được công bố. Nhưng có quá nhiều sơ hở và rất ít đất được phân phối lại.
Sau khi Suharto lên nắm quyền vào năm 1967, chế độ của ông đã đưa ra mức bình ổn giá tối thiểu cho gạo. Trong giai đoạn đầu thì năng suất và sản lượng được cải thiện. Nhưng đến giữa những năm 1970, số tiền được phân bổ để trả cho nông dân giá tối thiểu đã bị bỏ túi bởi các quan chức làng và dẫn đến sản lượng giảm.
Không giống như Philippines, chính phủ Indonesia hỗ trợ nông nghiệp thông qua các chiến dịch khuyến nông và các quỹ cho cơ sở hạ tầng. Nhưng trong trường hợp không có cải cách ruộng đất, điều này ít tác động đến năng suất. Người thuê đất lâm vào cảnh nợ nần và nông dân không có động lực để sản xuất nhiều hơn khi phần lớn các thặng dư đều do địa chủ nắm giữ. Hơn nữa, chủ nhà và các tầng lớp địa phương khác đã tham nhũng phần lớn các quỹ phát triển của chính phủ.
Vai trò hạn chế của các chính phủ
Nếu Philippines, Indonesia và Malaysia là ví dụ đầu tiên về các quốc gia có cải cách ruộng đất thất bại thì Thái Lan hầu như không diễn ra cải cách ruộng đất.
Trong thời kỳ thuộc địa tại Châu Á, nền kinh tế Thái Lan phụ thuộc vào xuất khẩu gạo. Năng suất chiếm một phần năm tổng năng suất sản xuất sau cải cách đất đai Đông Bắc Á. Thế nhưng sự phong phú của đất đai liên quan đến dân số đã làm cho điều này không quan trọng và đến năm 1930, Thái Lan đã xuất khẩu 1,5 triệu tấn gạo mỗi năm.
Nhưng sau thế chiến thứ hai, gạo trở nên khan hiếm tại vùng nông thôn Thái Lan. Dân số tăng, đất đai thì không đổi cộng với khoảng cách lớn về bất bình đẳng thu nhập tại khu vực nông thôn dẫn đến nghèo đói gia tăng. Điều này đã dấy lên các cuộc nổi loạn thậm chí ảnh hưởng đến an ninh của đất nước ngày nay.
Cuộc sống người nông dân còn gặp khó khăn hơn khi chính phủ vận hành chính sách xuất khẩu gạo độc quyền của nhà nước. Chính sách này đã đẩy giá trong nước xuống thấp, có nghĩa là nông dân thậm chí nhận được ít tiền hơn so với trước đó. Chính phủ đã bỏ qua sự khác biệt giữa giá trong nước và giá xuất khẩu. Đôi khi số tiền này chiếm tới một phần ba tổng thu nhập của quốc gia. Chính phủ Thái Lan cũng đánh thuế nhập khẩu phân bón. Chính sách này làm tăng chi phí đầu vào gấp 5 lần so với trước đó.
Mặc dù chính phủ Thái Lan giảm sức ép chi phí lên người nông dân hơn vào những năm 1960 và 1970, 30-50% nông dân trồng lúa vẫn tiếp tục chỉ là người làm thuê. Một Đạo luật Cải cách Đất đai năm 1975 đã dẫn đến việc hầu như không phân chia lại đất. Không có quyền chính thức về đất đai, các hộ nông dân tại khu vực nông thôn Thái Lan cũng không thể tiếp cận tín dụng ngân hàng và công nghệ lạc hậu, mức độ tập trung thấp và năng suất thấp như các nước khác tại Châu Á.
Lĩnh vực sản xuất không thể phát triển ở mức cao
Không phát triển các chính sách cải cách ruộng đất mạnh mẽ, quyền lực và tài sản không được chuyển từ địa chủ sang người làm thuê. Dẫn đến thiếu vắng tầng lớp tiêu thụ tại khu vực nông thôn của các nước Đông Nam Á.
Tình trạng diễn ra tiêu cực hơn tại các nước Đông Nam Á tự do hóa ngành ngân hàng, dẫn đến thực trạng đầu cơ cao vào bất động sản, làm hạn chế vốn sẵn có chảy vào lĩnh vực sản xuất sơ khai.
Tự do hóa ngành ngân hàng có nghĩa là chính phủ đã bị trói buộc liên quan đến chính sách kinh tế. Thực tế này tạo ra môi trường không dễ dàng đầu tư trực tiếp đến các ngành nghề để phát triển kinh tế cạnh tranh… hoặc khuyến khích các công ty xuất khẩu.
Ông Mahathir của Malaysia, nhà lãnh đạo tiếp cận nhiều nhất đến mô hình phát triển Đông Á vẫn bị thất bại thảm hại trong việc phát triển ngành sản xuất.
Đầu tiên, thay vì chỉ đạo đầu tư đối với một số doanh nghiệp tư nhân mạnh đầy triển vọng trong lĩnh vực sản xuất, nhà nước lại chỉ khuyến khích độc quyền kinh tế nhà nước duy nhất trên mỗi ngành, tất cả các nguồn vốn đầu tư đã chảy vào doanh nghiệp nhà nước dù rằng năng lực thật sự không hiệu quả.
Nhìn vào nền công nghiệp sản xuất xe hơi năm 1983, thị trường xe hơi của Malaysia sản xuất khoảng 90.000 chiếc, nhưng chính phủ chỉ tài trợ một nhà sản xuất quốc doanh. Ngược lại, chính phủ Hàn Quốc kiểm soát ngân hàng trung ương và bắt buộc ba công ty ô tô khác nhau nhận tài trợ và cạnh tranh trực tiếp với nhau mặc dù thị trường xe hơi nội địa năm 1973 nhỏ hơn nhiều so với Malaysia. Theo thời gian, các công ty sản xuất ô tô yếu hơn nhận được ít nguồn vốn tài trợ hơn. Mahathir đã phạm sai lầm khi chọn người chiến thắng hơn là những kẻ thua cuộc.
Thứ hai, chính phủ của Mahathir không thể buộc các công ty trong nước đẩy mạnh xuất khẩu trong khi chính hoạt động xuất khẩu sẽ góp phần tạo ra khả năng cạnh tranh quốc tế và gia tăng lợi nhuận. Không giống như các nền kinh tế Đông Bắc Á luôn gắn các khoản vay và trợ cấp cho hạn ngạch xuất khẩu cho các công ty, chính phủ của Mahathir có rất ít quyền kiểm soát ngân hàng trung ương và không có yêu cầu nào tương tự.
Do hai chính sách này, các nước Đông Bắc Á có các ngành sản xuất cạnh tranh toàn cầu và Malaysia cùng với các chính phủ Đông Nam Á khác khi không tuân theo mô hình phát triển kinh tế ACD thuần túy đã không phát triển được tương tự.
Các quốc gia Châu Á bị mắc kẹt trong quá trình kinh tế như thế nào khi tự do quá sớm?
Đến đây tôi muốn chia sẻ lại với các bạn một lần nữa về vấn đề tự do. Phải đến sau những năm 80 tại Nhật Bản và 90 tại Hàn Quốc, hay thậm chí Trung Quốc là những năm gần đây thì các quốc gia này mới bắt đầu mở cửa theo các chính sách quốc tế. Trong giai đoạn mà các quốc gia Đông Nam Á gặp khủng hoảng thì nền kinh tế Hàn Quốc phục hồi rất nhanh, Nhật Bản cũng gặp những khó khăn nhất định liên quan đến những vấn đề nội tại của họ sau bong bóng bất động sản giữa những năm 90, trong khi đó Trung Quốc vẫn tiếp tục duy trì đà tăng trưởng cao trong giai đoạn sau đó.
Những quốc gia đã phát triển kinh tế thành công tại Châu Á đều có một điểm chung rất đặc biệt. Đó là họ không tuân theo các chính sách mở cửa thị trường tài chính của các IMF, họ luôn bị Mỹ và các nước phương Tây cáo buộc là các quốc gia có dấu hiệu thao túng đồng tiền của mình so với đồng đô la Mỹ để tạo lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu.
Các quốc gia Đông Nam Á thì ngược lại, họ luôn phát triển theo các định hướng phát triển theo định hướng của IMF về mức độ mở của nền kinh tế từ rất sớm. Các chính sách kinh tế của họ ít hà khắc hơn rất nhiều, tức là vẫn định hướng phát triển xuất khẩu nhưng sức ép để các doanh nghiệp tuân thủ không đủ lớn. Hoạt động bảo hộ các doanh nghiệp hoặc một số ngành nghề vẫn diễn ra nhưng thay vì như các quốc gia Đông Bắc Á là bảo hộ để tạo nên những con hổ kinh tế thực sự sau này thì các doanh nghiệp được bảo hộ tại khu vực Đông Nam Á chỉ tìm cách giữ vị thế được bảo hộ của mình. Thay vì tranh thủ giai đoạn được bảo hộ để tập trung phát triển nâng cao năng lực sản xuất thì các doanh nghiệp được bảo hộ lại tiếp tục trì trệ để đến khi các cánh cửa mở cửa thị trường được mở ra thì phần lớn họ không đủ năng lực cạnh tranh trong thị trường khu vực và toàn cầu. Kết quả là các nền kinh tế này vẫn đang bị mắc kẹt lại trong quá trình sản xuất các sản phẩm có hàm lượng giá trị thấp.
Nếu xét về mức độ tự do thì những nền kinh tế Đông Nam Á có mức độ tự do hơn hẳn, các tập đoàn và các doanh nghiệp được nhiều cơ hội hơn trong việc lựa chọn các định hướng phát triển. Tuy nhiên, họ đã không thể sử dụng sự tự do đó một cách hiệu quả, mà kết quả lại càng làm cho các nền kinh tế của mình bị trì trệ sau các quốc gia khác trong khu vực. Tôi thấy được sự tương quan này trong quá trình phát triển của quốc gia và quá trình phát triển của cá nhân chúng ta. Nên một bài học ở đây và cũng là thông điệp của tôi dành cho các bạn đó là trước khi nghĩ đến tự do thì hãy nghĩ đến khả năng kiểm soát bản thân của chúng ta đã như thế nào rồi.
---------------------------------------------
Chúng ta đang ở đâu trên hành trình?
Với một tư duy đa chiều và một tư duy nhân quả đã được trang bị trong chương trước thì tôi đã cố gắng sử dụng cách phân tích trên cho mô hình phân tích của các quốc gia Châu Á. Nợ không phải là một chủ đề gì mới đối với giới nghiên cứu kinh tế và tài chính chính, tuy nhiên việc đặt nợ làm trọng tâm của quá trình phân tích để giải thích quá trình phát triển của các quốc gia Châu Á là điểm nhấn trong cách thức phân tích của tôi. Nợ như một thân cây để từ đó các vấn đề phân tích được kết nối chặt chẽ với nhau trong việc giải thích các vấn đề phức tạp của kinh tế vĩ mô.
Khung phân tích đó hoàn toàn có thể được áp dụng để phân tích tình hình vĩ mô của bất kỳ quốc gia nào tại Châu Á. Qua đó, có thể đánh giá đúng mức độ phát triển của nền kinh tế cũng như xu hướng phát triển sắp tới. Trong chương tới chúng ta sẽ xem mô hình này sẽ giúp các bạn soi rọi các vấn đề cơ bản của nền kinh tế Việt Nam như thế nào.
---------------------------------------------