“Một mô hình suy nghĩ tốt sẽ định hướng những suy nghĩ của bạn, và một mô hình xấu sẽ phá hủy chúng”
Brian Marick
“Một mô hình suy nghĩ tốt sẽ định hướng những suy nghĩ của bạn, và một mô hình xấu sẽ phá hủy chúng”
Brian Marick
Kỹ năng phân tích là một kỹ năng đều được dạy tại các trường đại học. Tuy nhiên kỹ năng phân tích không được dạy bằng lý thuyết mà nó được hình thành trong mỗi người qua mỗi giả thuyết chúng ta đặt ra và quá trình trải nghiệm các thực tế liên quan. Từ những quan sát thực tế thì các kỹ thuật phân tích được áp dụng để đánh giá một vấn đề. Các phương pháp phân tích tốt được xây dựng trên các khung lý thuyết khoa học và mang tính chất duy lý. Các phương pháp phân tích tốt giúp chúng ta có thể loại được những thông tin nhiễu, cũng như những tin đồn không có cơ sở để tập trung vào các thông tin quan trọng nhất, hỗ trợ việc gia tăng xác suất thành công của những lần ra quyết định.
Ngay từ thời tiền sử thì ông cha ta đã nhìn vào mức độ rung của lá cây để có thể phán đoán được con vật đằng sau đó là hươu, thỏ hay hổ, báo. Những quá trình phân tích được diễn ra rất nhanh trong đầu và nó dần trở thành một bản năng của người thợ săn. Nhưng bản năng đó không được hình thành trong một sớm một chiều, mà được rèn luyện và chiêm nghiệm trong suốt cuộc đời.
Hãy nói về quá trình để chúng ta có thể hình thành một mô hình tư duy tốt cho bản thân mình. Và tôi nghĩ hãy bắt đầu câu chuyện bằng cách nói về quá trình lao động.
Làm việc chăm chỉ trước khi nghĩ đến cách làm việc sáng tạo
Tôi nghĩ hiệu quả là điều mà mọi người trong chúng ta luôn muốn hướng đến. Chúng ta luôn muốn bắt đầu tìm kiếm các cơ hội với khả năng thành công cao nhất. Chúng ta luôn muốn lựa chọn những con đường để rút ngắn thời gian và năng lượng mà chúng ta phải bỏ ra. Chúng ta luôn muốn mỗi nguồn lực chúng ta sử dụng có thể phát huy được hiệu quả cao nhất có thể. Chúng ta thích được gọi là những người sáng tạo trong việc giải quyết các vấn đề hơn là những người cần cù. Chúng ta thật sự hào hứng với những bộ phim hành động nơi đó các nhân vật chính có thể giải quyết các vấn đề trong khoảnh khắc và luôn đưa ra các giải pháp sáng tạo cho mọi vấn đề. Tôi nghĩ đó là một khao khát rất lớn và có phần hợp lý của tất cả mọi người trong bối cảnh xã hội chúng ta đang ngày càng khan hiếm về nguồn lực và thời gian, đồng thời mọi người luôn muốn giá trị bản thân mình được ghi nhận lớn nhất.
Tuy nhiên, tôi muốn nói với các bạn một điều này, một điều mà tôi nghĩ phần nhiều trong các bạn những người đã từng nỗ lực làm một điều gì đó bằng cả sự nhiệt huyết của mình sẽ đồng ý với tôi: “Đó là sẽ không bao giờ có một điều kiện hoàn hảo nhất để bắt đầu và những suy nghĩ trên sẽ chỉ kìm hãm chúng ta chạm tới những khởi đầu cho những công việc ý nghĩa nhất trong cuộc đời của chúng ta.”
Những người giàu có và thành công mà tôi từng gặp đều chia sẻ rằng họ không hề có một kế hoạch cụ thể và hoàn hảo cho sự bắt đầu của họ, mọi thứ bắt đầu chỉ đơn giản họ chỉ muốn mọi thứ được bắt đầu. Sau sự bắt đầu đó là quá trình liên tục chiêm nghiệm bản thân để hoàn thiện.
Bạn còn nhớ tôi đã chia sẻ câu chuyện trong phần trước không, phần lớn những người thành công, suy cho cùng, là họ có nhiều lợi thế hơn chúng ta (những người bình thường) vì họ trải qua nhiều thất bại và rút ra được những bài học sâu sắc từ những thất bại như thế. Tôi nghĩ cả trong tiếng Anh và tiếng Việt đều có những câu thành ngữ về giá trị của thất bại như: “Thất bại là mẹ thành công”, tuy nhiên tôi nghĩ đa phần chúng ta đều suy nghĩ về câu nói đó như một lời động viên hơn là một phương châm sống của mình. Chúng ta đều không hy vọng rằng thành công của mình lại có một người mẹ với tên gọi là “thất bại” như thế. Nhận thức của bạn về giá trị của thất bại có thể quyết định được đoạn đường bạn đi bao xa sắp tới. Thừa nhận thất bại như một điều hiển nhiên không phải là chúng ta sẽ làm mọi thứ với một sự hời hợt hay với một tâm thế “được thì tốt mà thất bại thì cũng chẳng sao”. Khi bạn có nhận thức tốt về thất bại, bạn dự tính nó như một phần trong hành trình của mình thì bạn đã chấp nhận được những rủi ro về ý tưởng. Theo tôi thì phần lớn ý tưởng trong đời của chúng ta sẽ không hiệu quả hay thậm chí là rất ít ý tưởng có thể thương mại hóa được. Tuy nhiên, những ý tưởng thất bại, đặc biệt là những ý tưởng thất bại được kiểm nghiệm trong thực tế lại có thể giúp bạn mài sắt hơn suy nghĩ của mình theo thời gian. Mỗi lần thất bại thì bạn lại càng biết được những gì mình cần phải học tập và rèn luyện cho chặng đường tiếp theo, điều mà tôi nghĩ sẽ chẳng có trường lớp nào có thể dạy cho bạn tốt hơn thế, thậm chí cho dù là đại học Harvard!!!
Tôi nghĩ bạn biết rằng, đâu đó có những người khởi nghiệp sớm và đã thành công ngay từ cơ hội đầu tiên. Nhưng tôi muốn chúng ta hãy thực sự tỉnh táo để có thể phán đoán một vấn đề nào đó. Nếu đã từng biết ai như vậy, bạn hãy tìm hiểu thực sự những gì họ trải qua. Tôi nghĩ bạn sẽ nhìn thấy một kết quả thực tế hơn.
Tôi từng biết trường hợp một doanh nhân đã có những thành tựu nhất định từ rất sớm, thậm chí chỉ sau khi bắt đầu tốt nghiệp đại học được vài năm. Mọi người xung quanh đều dành cho anh những sự trân trọng và tôi cũng thật sự rất trân trọng điều đó. Nhưng thật ngạc nhiên, sau khi tìm hiểu kỹ hơn tôi mới phát hiện ra rằng khái niệm thành công qua câu chuyện của vị doanh nhân này hoàn toàn xuất phát từ suy nghĩ của mọi người xung quanh, còn trong suy nghĩ và dưới các thước đo của anh lại không phải vậy. Anh đã lăn lộn việc kinh doanh từ khá sớm, ngay từ khi bắt đầu bước chân vào đại học, cũng phải trải qua rất nhiều thất bại và hụt hẫng. Sau những trải nghiệm bôn ba, anh đã mở được một vài cửa hàng cà phê trong thành phố Sài Gòn và có mục tiêu tham vọng là mở chuỗi café khắp Đông Nam Á. So với tham vọng mục tiêu của mình thì những thành tựu mà anh đã đạt được vẫn thật nhỏ bé.
Khi nhìn mọi thứ ở một lăng kính toàn diện hơn thì bạn sẽ thấy đôi khi tất cả mọi thứ đều có những quy luật trật tự nhất định. Nếu như bạn đã từng đọc cuốn: “Những Kẻ Xuất Chúng” của John C. Maxwell thì ắt sẽ quen thuộc với quy tắc 10.000 giờ để có thể trở nên thông thạo nhất trong bất kỳ một lĩnh vực nào đó. Và suốt chặng đường 10.000 giờ đó thì phần lớn những gì bạn trải qua sẽ là cảm giác đau đớn và thất bại. Thất bại như một món ăn khai vị mà mọi người sẽ phải trải qua trên hành trình hướng đến thành công của mình. Không có người thất bại mà chỉ có những người bỏ cuộc khi gặp thất bại mà thôi.
Cuộc sống thật muôn màu muôn vẻ nên điều gì cũng có thể xảy ra. Nếu có ai đó thực sự thành công tuyệt vời ngay từ lần khởi nghiệp đầu đầu tiên của họ thì tôi cũng thật sự chúc mừng họ vì họ thật sự là những người đặc biệt trong cuộc sống này. Cuộc sống luôn dành những điều thật đặc biệt nhất cho những con người đặc biệt, đi kèm với sự nỗ lực của họ. Tuy nhiên, sự đặc biệt không phải dành cho tất cả chúng ta. Chúng ta chỉ là những người bình thường, với đầy đủ những khiếm khuyết và điều duy nhất có thể giúp chúng ta thành công đó là không ngừng nỗ lực. Tôi luôn khiêm tốn khi nói về những gì cuộc đời có thể trao cho mình. Tôi không có được những điều kiện tốt nhất để bắt đầu công việc đầu tư của mình với một tấm bằng đại học về khoa học máy tính, và bố mẹ tôi cũng chưa từng ủng hộ tôi đi theo con đường này. Tuy nhiên, tôi luôn biết mình đang có những gì và tôi luôn cố gắng bằng nỗ lực cao độ để có thể khai thác tốt nhất những nguồn lực tôi đang có.
Những trải nghiệm kinh doanh đau thương
Vào cuối năm 2007, tôi nhận ra mình đang trong một trạng thái khá thú vị ở lứa tuổi của mình. Tôi đã thành công hầu như vượt quá những gì mà tôi nghĩ là mình có thể làm được, nhưng tôi trằn trọc vì cảm thấy chưa có nhiều thử thách trong cuộc đời mình. Thành công của tôi tạo nên một việc có ý nghĩa hơn nữa, đó là việc hòa hợp trở lại giữa tôi và bố mẹ tôi sau giai đoạn mâu thuẫn về việc lựa chọn nghề nghiệp lên đến đỉnh điểm. Tuy ông bà vẫn không hiểu tại sao tôi lại muốn sống một cuộc đời bất định như vậy nhưng họ đã dần tôn trọng khát vọng sống đó của tôi.
Đó là vào cuối năm 2007, tôi thấy bị cuốn hút vào ý tưởng là sẽ làm việc trong một thị trường mới nổi nhất thế giới. Ý tưởng đó của tôi mang đến một thách thức hoàn toàn khác với việc học cách đầu tư và giao dịch trong những thị trường phát triển như tại Toronto hay New York. Có nói gì về Wall Street và Bay Street đi chăng nữa thì các thị trường tại đó cũng vận hành theo những quy tắc và luật lệ rất truyền thống. Nếu bạn muốn tham gia các thị trường đó, bạn phải học các quy tắc, bất kể bạn có đồng ý với nó hay không. Cuốn sách này không nhằm thảo luận điều gì về cách thức mà Wall Street đang vận hành. Nó không phù hợp với chủ đề lúc này và cũng không phải là lý do chính khiến tôi quyết định khám phá một thị trường tài chính còn rất hoang sơ như Việt Nam.
Tôi chọn Việt Nam vì vài lý do: đầu tiên và quan trọng nhất là bởi vì vào năm 2007 Việt Nam là nền kinh tế phát triển nhanh thứ hai trên thế giới; thứ hai là bởi vì tôi là người Canada gốc Việt. Tôi quyết định đặt cho mình nhiệm vụ xây dựng một kênh thông tin tài chính, là cái hoàn toàn chưa có tại thị trường Việt Nam vào thời điểm đó. Tôi nhận thấy đấy là một cơ hội, không phải chỉ là thách thức bản thân tôi mà còn giúp đỡ những người trên quê hương Việt Nam nhận ra các cơ hội sinh lời trong nền kinh tế toàn cầu khi đó. Như câu nói mà người ta vẫn thường hay nói: “Nước lên thì thuyền lên”. Với những suy nghĩ đó trong đầu, tôi dấn thân vào một hành trình mới, đầy hứng khởi và ngây thơ như lần đầu tiên tôi bước vào thị trường tài chính.
Tôi lên đường về Việt Nam để đầu tư toàn bộ vốn tích lũy xây dựng một kênh thông tin tài chính cho thị trường chứng khoán. Để làm điều đó, tôi ngừng giao dịch và tập trung sức lực vào việc xây dựng cơ sở đó. Tôi để các khoản đầu tư của mình vào chế độ giao dịch tự động và rời khỏi môi trường quen thuộc nơi tôi đã tạo dựng những thành công ban đầu của mình. Tôi ngừng sử dụng các quy tắc giao dịch của mình, mặc dù vào lúc đó tôi không nhận ra điều đó. Hòa cùng với sự mất tập trung trong việc giao dịch chứng khoán tại thị trường quốc tế là cuộc khủng hoảng tài chính đang sôi sục bắt nguồn từ thị trường nhà đất tại Mỹ, được gọi là cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn. Sự kết hợp của các yếu tố đó, cùng với những rủi ro cố hữu của một công ty khởi nghiệp tại một thị trường đang phát triển đã cùng nhau nhấn chìm tôi và các đồng nghiệp. Khi đó tôi dường như mất hết tất cả tiền mình đã tiết kiệm và phải bắt đầu lại từ đầu.
Rồi tiếp tục là những biến cố gia đình khi bà ngoại tôi qua đời và tôi quán xuyến mọi thứ trong việc tổ chức lễ tang cho bà ngoại theo nghi lễ Á Đông. Những ngày đó khiến tôi suy nghĩ nhiều về cuộc sống, về duyên nghiệp và về tất cả những sai lầm trong suy nghĩ của mình.
Không ai muốn thất bại cả, vì cái giá của nó đôi khi thật ghê gớm. Tôi nhớ lại những ngày khi việc trả hóa đơn hay sinh hoạt với tôi mỗi ngày là cả một vấn đề. Chỉ mới một thời gian trước thì những gì tôi suy nghĩ là liệu chính sách của Fed sẽ như thế nào hay những cổ phiếu của sàn New York xu hướng sẽ ra sao, thì giờ đây tôi nghĩ về liệu tháng này mình có trả được hóa đơn tiền điện cho tháng này hay không? Cuộc sống đôi khi xoay vần quá nhanh.
Tuy nhiên, trải nghiệm đó đã cho tôi rất nhiều bài học về cuộc sống mà sau này đã góp phần hình thành những triết lý đầu tư tại thị trường Châu Á mà tôi sẽ trình bày trong cuốn sách này. Đó là lần đầu tiên tôi cảm nhận được những điều không logic trong sự vận hành của nền kinh tế Việt Nam nói riêng và nền kinh tế Châu Á nói chung. Tôi nhận ra được một sự thật rằng, cho dù mục đích kinh doanh của bạn tốt như thế nào hay cho dù sản phẩm của bạn có cần thiết cho thị trường ra sao, nếu như thị trường vẫn chưa phát triển đến mức cần những sản phẩm đó thì những mô hình kinh doanh đó vẫn không thể phát triển. Nó đưa cho tôi những gợi ý về tính chu kỳ trong các giai đoạn phát triển của nền kinh tế Châu Á. Tương ứng với mỗi giai đoạn phát triển thì sẽ có những ngành nghề được phát triển tương ứng. Và dường như ngành dịch vụ tài chính chính là nấc thang sau cùng trong quá trình phát triển ấy.
Bạn hãy thử nghĩ xem, tôi đã cấu trúc một sản phẩm tại một thời điểm không phù hợp cho một thị trường không phù hợp. Thử hỏi tại sao tôi không thất bại.
Theo tôi, cơ hội tốt là cơ hội có thể mở ra cho bạn một cơ hội kế tiếp.
Cảm hứng từ việc làm việc với người lao động tại Việt Nam
Khi tôi có ý định muốn xây dựng một cơ sở kinh doanh tại Việt Nam thì rất nhiều người bạn đã khuyên tôi nên cân nhắc về quyết định đó. Sẽ không dễ dàng gì để bắt đầu một doanh nghiệp tại một quốc gia đang phát triển bởi những khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa, môi trường pháp lý và đặc biệt là sự khác biệt trong nhận thức về việc làm với những người lao động tại Á Đông nói chung. Lúc đấy thú thật là tôi đã có một sự chủ quan nhất định vì thực tế tôi có một niềm tin rất lớn vào con người, về sức lao động và khả năng tận tụy của con người có thể tạo ra những thành quả rất lớn lao. Ngay cả một người không có nền tảng ban đầu về tài chính thì vẫn có thể phát triển trên lĩnh vực đầu tư, miễn rằng bạn luôn thực sự nỗ lực mỗi ngày.
Trong suốt một thời gian dài làm việc tại Việt Nam, vấn đề chất lượng và thái độ làm việc của người lao động Việt Nam vẫn luôn là một dấu hỏi trong suy nghĩ của tôi. Tôi bắt đầu thấm dần những kết quả nghiên cứu của các tổ chức quốc tế về vấn đề lao động tại Việt Nam. Những nghiên cứu của họ cho rằng, nguồn lao động giá rẻ, dù đang là lợi thế của Việt Nam trong việc thu hút dòng vốn nhưng chất lượng lao động sẽ là một rào cản lớn để nền kinh tế Việt Nam có thể phát triển bền vững trong chuỗi giá trị toàn cầu trong tương lai.
Nói như thế không đồng nghĩa với việc không có nhiều lao động tốt tại Việt Nam. Tôi có may mắn được làm việc với rất nhiều người lao động tại Việt Nam, từ những người trung niên cho đến những người trẻ tuổi, hay thậm chí là rất trẻ. Có rất nhiều người trong số đó đã và đang hỗ trợ tôi để xây dựng công ty lớn mạnh như ngày hôm nay, tôi thật sự tri ân những người đã cùng tôi biến giấc mơ khởi nghiệp của nhiều năm trước thành hiện thực. Phần lớn những người tôi gặp đều rất có tiềm năng và năng động nhưng một điểm hạn chế chung mà tôi nhận ra ở các bạn đó là khả năng tư duy và làm việc độc lập. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy rằng các bạn lao động trẻ thường rất ngại trong việc tiếp cận các ý tưởng, sợ cái mà tôi hay gọi là rủi ro ý tưởng và thậm chí đôi khi khá thiếu niềm tin vào các ý tưởng mới.
Là một người rất thực tế nên từ những bất ngờ, thậm chí cho đến những bất bình, tôi dần nhận ra đó dường như là một xu hướng chung trong thái độ của người lao động Việt Nam. Tôi biết rằng khi một số lượng lớn thể hiện những nét đặc điểm trên thì đó không phải là hiện tượng mà đó sẽ là một điểm đặc trưng của hệ thống văn hóa. Chỉ có những yếu tố liên quan đến văn hóa thì mới có thể biến những điều mà tôi thấy rất khác thường nếu đặt trong bối cảnh xã hội phương Tây nhưng lại được xem làm một điều rất bình thường trong xã hội Việt Nam chúng ta. Đó chẳng phải là vấn đề trong giai đoạn phát triển của nền kinh tế nhưng khi xã hội cần một lực lượng lao động chất lượng hơn để tạo những đột phá thì tôi nghĩ rằng sẽ rất khó cho nền kinh tế Việt Nam.
Lê Hoài Ân cho tôi biết rằng tại Việt Nam nói riêng và Châu Á nói chung, người ta rất ngại việc thừa nhận mình đã phạm sai lầm. Việc người ta đi học và bị rớt một kỳ thi nào đó, đặc biệt là kỳ thi đại học, là một điều gì đó rất khủng khiếp mà có thể vấp phải sự không chấp nhận rất lớn từ gia đình và xã hội. Việc nghiên cứu không thể cho ra được kết quả cũng là một thất bại. Việc một người phá sản là một điều sỉ nhục không chỉ đối với họ mà còn đối với cả một dòng họ. Mọi người khao khát việc không thất bại hơn là có thể tạo ra những đột phá để có những thành công vang dội. Mọi người đều thích sự ổn định. Điều đó không chỉ đúng tại những quốc gia đang phát triển như Việt Nam, mà còn với cả những quốc gia tiên tiến khác tại Châu Á như Nhật Bản và Hàn Quốc.
Với góc độ một người nghiên cứu, tôi luôn tin rằng tính hệ thống đó có thể được hình thành từ các yếu tố lớn lao hơn mà tôi đang có thể nhận thức. Tôi dành nhiều thời gian để tìm hiểu về các vấn đề của hệ thống giáo dục Việt Nam. Tôi biết được có rất nhiều những sinh viên Việt Nam du học tại nước ngoài, tôi biết được cũng rất nhiều các bạn trẻ đang theo đuổi các bằng cấp quốc tế. Tuy nhiên, nhìn chung lại tôi vẫn không thấy có nhiều sự khác biệt về thái độ.
Rồi tôi dần nhận ra đó cũng là các đặc điểm chung của các nền kinh tế Đông Nam Á. Có những sự khác biệt nhất định trong hệ thống giáo dục của các quốc gia Đông Á như Nhật Bản và Hàn Quốc so với các quốc gia Đông Nam Á. Phải chăng đó là lý do tạo nên điều thần kỳ cho nền kinh tế Đông Á trong chỉ khoảng vài thập niên, trong khi đó các quốc gia Đông Nam Á thì lại đang bị mắc kẹt trong những nền kinh tế trung bình trong suốt một thời gian dài. Điều đầu tiên mà tôi nhận thấy tại các quốc gia Đông Á đó là họ chú trọng việc đào tạo các bằng nghề, chú trọng vào khả năng tạo ra các sản phẩm của người lao động trong khi hệ thống giáo dục Đông Nam Á lại chú trọng vào việc đào tạo các bằng cấp nghiên cứu hàn lâm. Tại các quốc gia Đông Á thì hoạt động nghiên cứu khoa học diễn ra rất mạnh ở cấp doanh nghiệp và các nghiên cứu phần lớn sẽ xuất phát từ các nhu cầu cuộc sống và phục vụ cho quá trình xây dựng nền sản xuất của quốc gia. Trong khi đó tại các quốc gia Đông Nam Á, thì hoạt động nghiên cứu chủ yếu diễn ra các cấp các trường đại học và hoàn toàn có một sự tách biệt rất lớn giữa hoạt động đào tạo và nghiên cứu với các nhu cầu phát triển từ doanh nghiệp và xã hội.
Một điều khá đặc biệt mà tôi cũng khá bất ngờ khi tìm hiểu, đó là nền kinh tế của các quốc gia Đông Á lại được xây dựng và kiểm soát chặt chẽ hơn các nền kinh tế tại các quốc gia Đông Nam Á. Nghịch lý thay khi các quốc gia Đông Nam Á lại là những quốc gia tại Châu Á hưởng ứng nhiệt tình hơn cả các chính sách tự do hóa kinh tế và tự do tài chính từ các tổ chức như Tổ chức Tiền tệ Quốc tế IMF hay Ngân hàng Thế giới WB.
Liệu tự do có phải lúc nào cũng tốt?
Bài học từ các quốc gia Đông Nam Á cũng như từ những câu chuyện tôi đang cảm nhận hằng ngày trong cuộc sống tại Việt Nam bỗng đưa tôi đến một suy nghĩ về vấn đề tự do cá nhân. Điều này khác biệt hoàn toàn trong văn hóa phương Tây mà tôi tiếp nhận rằng chính sự tự do tạo ra thịnh vượng. Tuy nhiên những gì diễn ra tại Châu Á lại cho thấy rằng đôi khi không hẳn tự do có thể tạo ra sự thịnh vượng mà chính cấu trúc chặt chẽ của nền kinh tế từ chính phủ lại đang tạo ra sự thịnh vượng. Những gì mà Nhật Bản và Hàn Quốc đã làm trong những thập niên 50 đến 90 của thế kỷ trước, và nền kinh tế hiện tại của Trung Quốc, với một nền kinh tế đóng cửa và được quản lý chặt chẽ bởi sự định hướng của chính phủ lại đang tạo ra những nền kinh tế thịnh vượng nhất Châu Á. Khi chính phủ định hướng phát triển một nền kinh tế sản xuất hướng về xuất khẩu thì nhà nhà và doanh nghiệp đều tuân theo định hướng đó với một mục tiêu kiên định xuất khẩu, thông qua quá trình sàng lọc gay gắt mà cuối cùng các quốc gia này đã tạo nên các tập đoàn khổng lồ có khả năng cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.
Đôi khi chúng ta đòi hỏi tự do như một điều gì đó theo lẽ tự nhiên nhưng đa phần lại không biết làm thế nào để có thể sử dụng chúng một cách hiệu quả. Sự khác biệt giữa người Á Đông và người phương Tây xét về phương diện tự do là người phương Tây họ có khả năng tự chủ bản thân cao hơn. Tự do không có nghĩa là hoang dại, muốn làm điều gì thì làm. Ví dụ như khi công ty cho bạn thời gian làm việc linh hoạt thì lúc đó bạn phải biết sử dụng sự tự do đó như thế nào cho hợp lý. Nếu sự tự do đó chuyển thành sự lạm quyền thì khi đó vô tình sự tự do không còn nâng cánh cho bạn được nữa mà nó sẽ hủy diệt bạn.
Những người thực sự làm chủ được sự tự do sẽ biết rõ mình cần phải làm gì để đạt được những mục tiêu đó. Văn hóa Á Đông đi liền với sự ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Khổng giáo và chủ nghĩa phong kiến tập quyền trong một thời gian dài đã tạo nên một nét văn hóa quen thuộc với sự trật tự và khuôn khổ. Khi đó cái tôi của sự tự do cá nhân đã không được rèn luyện nhiều trong các nét văn hóa của các quốc gia. Người Á Đông cũng khao khát tự do nhưng lại không xác định một cách cụ thể mình cần tự do để làm gì. Nên đôi khi sự tự do cá nhân được trao trong những hoàn cảnh đó thì lại có thể trở thành thảm họa.
Góc nhìn từ việc cấu trúc
Bắt đầu từ những khoảnh khắc đó, tôi chợt nhận ra được tầm quan trọng của vấn đề cấu trúc trong việc vận hành nền kinh tế tại các quốc gia Châu Á hoàn toàn khác với các quốc gia phương Tây như thế nào. Nó lóe lên trong tôi một suy nghĩ về việc xây dựng một mô hình phân tích đầu tư dựa trên việc hiểu các nền tảng vận hành của các nền kinh tế tại Châu Á.
Hãy nhớ lại bài học về những người giàu có mà chúng ta đã bàn trong chương trước. Sở dĩ những người giàu có trở nên giàu hơn chúng ta là vì, thông qua những trải nghiệm sống, họ đã rút ra những quy luật và tự mình xây dựng nên các lăng kính phản chiếu vào cuộc sống để có thể ra các quyết định tốt hơn.
Đó là những khởi đầu của tôi về việc tiếp tục xây dựng các kênh thông tin về tài chính dựa trên việc hiểu biết các vấn đề đặc thù của nền kinh tế Châu Á. Sở dĩ thị trường chứng khoán tại các quốc gia Châu Á không được xếp vào nhóm các thị trường phát triển như các quốc gia phương Tây, cũng bởi vì thị trường chứng khoán đó đang đại diện cho một nền kinh tế được cấu trúc chặt chẽ, do đó thị trường chứng khoán không thể hiện tính năng động như các thị trường tại các quốc gia phương Tây.
Về cơ bản, thị trường chứng khoán là không thể dự báo do những biến đổi trong nền kinh tế tác động lên sự thay đổi của thị trường chứng khoán tại các quốc gia phương Tây. Tuy nhiên, nền kinh tế của các quốc gia Châu Á lại đang được cấu trúc theo những định hướng của chính tính không năng động, từ đó giúp cho các biến số có thể được dự báo. Điều này góp phần đưa ra cho chúng ta các dự báo liên quan đến xu hướng của thị trường chứng khoán.
Vai trò của mô hình phân tích
Mô hình chẳng qua chính là sự đơn giản hóa của những gì diễn ra trong thế giới thực để giúp con người có thể hiểu hơn những gì đang diễn ra trong thực tại. Từ đó có thể đưa ra những nhận định cũng như những dự báo về xu hướng của các sự vật, hiện tượng trong tương lai.
Mỗi ngày khi bật các bản tin thời sự thì ắt hẳn bạn sẽ bắt gặp những tin tức về dự báo thời tiết, dự báo về lượng mưa, dự báo về mức tăng trưởng của nền kinh tế, dự báo xu hướng thay đổi của lạm phát, lãi suất cho đến việc dự báo về xu hướng của thị trường chứng khoán. Tất cả các vấn đề của cuộc sống đều cần có những hoạt động dự báo để các chủ thể trong nền kinh tế có thêm thông tin để đưa ra các quyết định phù hợp.
Bạn tự hỏi làm sao các nhà khoa học hay các trung tâm khí tượng thủy văn có thể đưa ra các dự báo về thời tiết. Hoạt động dự báo thời tiết là một lĩnh vực ứng dụng khoa học và công nghệ để đưa ra các tiên đoán về trạng thái và vị trí của bầu khí quyển trong những khoảng thời gian sau đó. Loài người chúng ta đã có nhiều nỗ lực từ nhiều thiên niên kỷ trước để cố gắng dự báo những gì diễn ra với thời tiết.
Bạn chắc đã từng nghe qua câu nói dân gian này tại Việt Nam: “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng bay vừa thì râm”. Xét một cách đơn giản thì câu truyền miệng dân gian đó đang thể hiện một dạng mô hình đơn giản trong việc dự báo thời tiết. Đó là họ đang dùng biến số về độ bay trung bình của chuồn chuồn như một yếu tố duy nhất để dự báo thời tiết.
Các hoạt động dự báo thời tiết chính thức của nhân loại chỉ bắt đầu ra đời trong thế kỷ XIX khi hoạt động thu thập các số liệu đầu vào về trạng thái hiện tại của bầu khí quyển được hỗ trợ bằng các tiến bộ của khoa học cũng như những hiểu biết của con người về sự vận động và thay đổi của bầu khí quyển dần được hoàn thiện. Do tính chất hỗn loạn của khí quyển nên con người vẫn đang gặp nhiều vấn đề trong việc dự báo chính xác các hiện tượng bất thường như động đất, sóng thần; nhưng thực tế so với 1.000 năm trước đây thì những mô hình dự báo đã thực sự giúp con người tiến những bước tiến khổng lồ trong việc hiểu hơn về sự vận động của tự nhiên.
Trong hoạt động kinh tế, các nhà kinh tế học đã tìm hiểu đâu là những yếu tố quyết định sự tăng trưởng của một nền kinh tế trong dài hạn. Đó chính là ba yếu tố liên quan đến: thứ nhất là số lượng lao động mà một nền kinh tế đang có, thứ hai là lượng vốn mà nền kinh tế đang huy động để có thể cơ giới hóa cho lao động, và yếu tố thứ ba là sự phát triển của công nghệ và năng suất của người lao động. Trong giai đoạn trước khi các cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra tại Châu Âu thì hầu như tất cả các quốc gia đều bị giới hạn trong quy mô dân số của mình. Quốc gia nào có dân số càng lớn thì quy mô của nền kinh tế càng lớn. Đó là lý do đơn giản giải thích tại sao trong một thời gian dài trước thế kỷ XVII thì Trung Quốc và Ấn Độ cộng lại luôn chiếm hơn một nửa GDP của thế giới dựa trên quy mô dân số của mình. Sau giai đoạn cách mạng công nghiệp thì máy móc trở thành một yếu tố quyết định bên cạnh dân số trong việc tạo ra GDP, những quốc gia nào thu hút được nhiều vốn để đầu tư vào máy móc thiết bị thì sẽ có thể tạo ra tăng trưởng kinh tế cao hơn. Vốn và lao động là hai yếu tố chính quyết định quy mô của nền kinh tế cho đến khi sự ra đời của các đột phá trong công nghệ đã khiến cho năng suất lao động dần trở thành yếu tố thứ 3 được đưa vào trong mô hình phân tích tăng trưởng kinh tế. Sự bùng nổ của nền kinh tế tri thức khiến cho lao động và vốn sẽ không đủ để giải thích quy mô của nền kinh tế. Với những công ty như Facebook, Google, hay những khu vực kinh tế như thung lũng Silicon về công nghệ, hay các hãng phim Hollywood của Mỹ, nơi trí tuệ và hàm lượng chất xám mới quyết định giá trị của sản phẩm thì năng suất lao động và công nghệ mới có thể giải thích được sự thay đổi trong giá trị kinh tế họ tạo ra chứ không phải con người và yếu tố vốn nữa.
Có thể trong ngắn hạn sẽ có nhiều yếu tố khác tác động đến mức độ tăng trưởng của một quốc gia nhưng trong dài hạn các nhà kinh tế học đã chỉ ra đó là các yếu tố cơ bản thay đổi quy mô của nền kinh tế. Một ứng dụng từ đó là nếu muốn thay đổi quy mô của một nền kinh tế thì các quốc gia cần phải có những chiến lược khác để có thể tạo ra sự tăng trưởng từ ba yếu tố nói trên.
Tôi muốn nhấn mạnh để bạn hiểu rằng mô hình phản ánh các yếu tố cơ bản mà chúng ta đang muốn phân tích để giải thích hoặc dự báo một vấn đề nào đó. Mô hình sẽ thay đổi khi nhận thức của chúng ta về bản chất của sự vật thay đổi.
Mỗi người chúng ta có thể tự đưa ra cách tư duy để phát triển một mô hình về cách nhìn nhận của chính bản thân mình với các sự vật hiện tượng. Sự khác biệt về các mô hình của mỗi người sẽ giúp anh ta có thể tạo ra được các lợi thế của riêng mình. Mô hình giúp chúng ta đơn giản hóa các vấn đề phức tạp để tập trung vào một số các yếu tố quan trọng nhất trong việc đánh giá một vấn đề. Ai có mô hình phân tích tốt thì có thể giúp loại bỏ được phần lớn các yếu tố gây nhiễu trong quá trình ra quyết định. Khi có thể loại được các yếu tố nhiễu thì xác suất để bạn có thể ra quyết định đúng sẽ cao hơn nhiều so với những người khác.
Rèn luyện tư duy nhân quả
Không phải ý tưởng nào cũng có chất lượng như nhau, do đó nếu bạn là người sống khép kín và mang trong người nhiều suy nghĩ sai thì điều này rất nguy hiểm. Chỉ những người có đầu óc cởi mở luôn tìm kiếm các ý tưởng mới thì mới trở thành người thành công.
Trước khi chúng ta đi sâu vào nội dung của cuốn sách này, một điều rất quan trọng tôi muốn đề cập đến đó là giáo dục tại trường lớp là không đủ. Trong thời gian qua tôi thấy rất thất vọng khi việc tự học và tự tìm tòi đang có xu hướng suy giảm. Là nhà đầu tư vốn vào một trong những công ty phân phối sách hàng đầu tại Việt Nam, tôi hiểu rõ việc truyền bá thông tin đóng một vai trò như thế nào trong cuộc sống ngày nay.
Chúng ta phải hiểu rằng đa số các sáng kiến hiện nay đến từ các đất nước phát triển, do đó luôn tồn tại một độ trễ trước khi các ý tưởng mới đến được những nơi như Việt Nam. Mặc dù công nghệ thông tin đã cải thiện hơn trước và trình độ tiếng Anh của người Việt ở mức cao hơn, sự chậm trễ này sẽ luôn tồn tại vì nhiều lý do mà tôi sẽ không đi sâu vào vì nó là một vấn đề rất lớn và vượt quá giới hạn của cuốn sách này. Quay trở lại vấn đề chính, khi bạn tiếp nhận hằng hà thông tin và hiểu biết mới, điều quan trọng hơn cả số lượng là chúng ta nên học cách suy nghĩ và cố gắng áp dụng những hiểu biết mới này.
Đây là lợi thế cạnh tranh duy nhất của bạn trong một thị trường đang ngày càng thương mại hóa như hiện nay. Thị trường ngày càng thương mại hoá có nghĩa là gì? Đó là thị trường mà các đề xuất giá trị của bạn, tôi lấy ví dụ như kỹ năng Excel, không có gì khác biệt hơn so với những người khác. Sự bão hoà về dịch vụ này làm khả năng cạnh tranh của bạn giảm sút vì số lượng cung về nhân sự quá lớn.
Nói đến phạm trù lớn hơn đó là vấn đề Toàn Cầu Hoá, việc phân công lao động là một kỳ quan cho sự tăng trưởng của các nền kinh tế tại Châu Á khi nó có thể vận chuyển và trao đổi nhân lực từ quốc gia này sang quốc gia khác.
Một đặc điểm của cơ chế phân công lao động là nó tự cân bằng giữa cung và cầu về nhân sự để đảm bảo năng suất của tổ chức. Điều này cũng là một điểm yếu vì nó thường gây ra sự bão hoà về chất lượng nhân sự do quá trình tuyển dụng liên tiếp để đảm bảo đầy đủ đầu người. Là người điều hành Phoenix Capital Group, tôi thường thấy không hài lòng với các chỉ số KPI để đưa ra trong việc đánh giá nhân sự vì nó thiên về các thủ tục đánh giá hơn là quá trình cùng nhau phát triển doanh nghiệp. Chỉ có một vị trí trong công ty mà nơi đó việc chuyên môn hóa lao động không xảy ra. Đó là các vị trí giám đốc điều hành và quản lý doanh nghiệp. Khác với nhân sự bình thường, họ là hiện thân của kinh nghiệm chiến trường. Chúng ta định nghĩa kinh nghiệm là gì? Đó là quá trình tiếp nhận kiến thức hoặc kỹ năng của công việc qua tiếp xúc với thực tế, từ quan sát, suy nghĩ, cảm nhận cho đến thực hành.
Cho nên, để có thể thăng tiến trong nghề nghiệp của mình, chúng ta phải tập trung vào gây dựng kinh nghiệm càng nhiều càng tốt.
Tôi nghĩ điều này hết sức hiển nhiên với người đi làm công như nhiều bạn đọc của cuốn sách này.
Tuy nhiên tôi muốn đề cập một điều ít ai nói đến liên quan đến ngành bạn chọn. Nếu bạn chọn một chuyên ngành có tính cạnh tranh cao, như ca nhạc chẳng hạn, thì xác suất bạn nằm trong top 10 ca sĩ nhiều fan hâm mộ nhất Việt Nam sẽ càng thấp. Tuy nhiên, việc tăng cường thêm kỹ năng, như nhảy giỏi, sẽ nâng tỷ lệ thành công của bạn lên rất nhiều. Một điều khác tôi muốn nói ở đây là kinh nghiệm và sự hiểu biết còn là nhân tố chính cho việc phát triển kỹ năng đa ngành.
Chúng ta nên hiểu rằng bộ não hình thành ký ức hoặc học một nhiệm vụ mới bằng cách điều chỉnh kết nối giữa các tế bào thần kinh. Các nhà thần kinh học tại trường đại học danh tiếng MIT của Mỹ đã phát hiện ra một cơ chế mới lạ góp phần củng cố các kết nối này, gọi là khớp thần kinh. Để tăng cường khả năng học hỏi và trí nhớ, theo logic ở trên thì chúng ta phải tạo ra càng nhiều mạng lưới các khớp thần kinh càng tốt.
Nâng cấp não bộ
Một trong những câu hỏi lớn nhất trong thần kinh học là não bộ thay đổi như thế nào trong hoàn cảnh khác nhau, một khả năng được gọi là sự linh hoạt và mềm dẻo của não bộ. Điều này rất quan trọng trong quá trình phát triển tư duy của trẻ nhỏ và trong suốt cuộc đời của con người khi chúng ta tiếp tục học hỏi và tiếp thu những ký ức mới. Từ lâu, tôi đã suy nghĩ nhiều về khái niệm này và nghiên cứu cách tăng cường khả năng siêu nhân này của não bộ.
Một trong những phương pháp có thể được áp dụng trong trường học mà tôi nghĩ nên được thử nghiệm đó là giảng dạy một môn học qua quan điểm của nhiều ngành khác nhau. Chúng ta sẽ sử dụng cái nhìn đa chiều để minh họa hay mô tả cho một vấn đề hay bài học. Đa ngành và chéo ngành thường được sử dụng như các từ đồng nghĩa để miêu tả mục tiêu kết nối giữa các ngành khác nhau.
Con đường dẫn đến tự do
Để có thể hấp thụ những kiến thức tôi muốn truyền đạt trong cuốn sách này, tôi khuyến khích bạn đọc nên giữ một tư duy cầu tiến, đây là thuật ngữ được sáng tạo bởi giáo sư trường Đại học Stanford Carol Dweck. Những người có tư duy cầu tiến tin rằng trí thông minh hoặc kỹ năng, trong bất kỳ lĩnh vực nào, có thể phát triển nhờ nỗ lực. Về cơ bản, họ tin rằng bất kỳ ai cũng có thể nuôi dưỡng khả năng của mình trong bất cứ hoạt động gì.
Trái ngược với tư duy cầu tiến là tư duy cố định. Những người có suy nghĩ này tin rằng mọi thứ thuộc về con người là bẩm sinh. Họ cho rằng con người sinh ra có trí thông minh và kỹ năng bẩm sinh, cho nên không thay đổi hay phát triển được. Đây là tư duy sai lệch và rất có hại cho sự phát triển của bạn. Tôi khuyên bạn đọc nếu có suy nghĩ tương tự nên từ bỏ và đón nhận cách tư duy cầu tiến để phát triển bản thân và hướng đến một tương lai tươi sáng hơn.
Vừa qua chúng ta đã nói một chút về tư duy cầu tiến, đó là niềm tin vào trí thông minh và kỹ năng, trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng có thể phát triển được. Tuy nhiên, tư duy nào cũng có điểm yếu của nó. Tôi muốn nhắc bạn đọc rằng tư duy cầu tiến không phải là một chiếc đũa thần. Nó không thể giúp bạn có được mọi thứ bạn muốn, hay giúp bạn trở thành một Elon Musk hoặc Steve Jobs tiếp theo. Tuy nhiên, cách tư duy đó tạo ra cho bạn một lăng kính rất mạnh để kiểm nghiệm thế giới và sử dụng tư duy này hiệu quả, để có thể cải thiện xác suất thành công trong cuộc sống của bạn rất nhiều. Tất cả chúng ta mang trong người sự kết hợp của cả tư duy cầu tiến và tư duy cố định. Tuỳ theo hoàn cảnh và vấn đề của cuộc sống, chúng ta hoạt động ưu tiên theo các khuynh hướng tư duy khác nhau. Tuy nhiên, tùy vào cách rèn luyện của bản thân mà một số người lại sẵn sàng đeo những lăng kính cầu tiến thường xuyên hơn và ngược lại.
Tại sao chúng ta nên mang tư duy cầu tiến nhiều hơn là tư duy cố định?
Bởi vì nhiều nghiên cứu về hai đường lối suy nghĩ này đều cho ra chung một kết luận, đó là nhóm người có tư duy cầu tiến thành công hơn nhóm có tư duy cố định.
Chẳng hạn, một nghiên cứu phát hiện ra rằng những học sinh có tư duy cầu tiến giữ xác suất lọt vào nhóm 20% học sinh đứng đầu lớp cao gấp ba lần những học sinh có tư duy cố định trong bài kiểm tra. Một nghiên cứu khác cho thấy khi một số học sinh lớp 7 tham gia chương trình học thiên về cách tư duy năng động, các em có thể tránh được việc suy giảm điểm số ở trường.
Xét về khía cạnh bền bỉ thì người mang tư duy cầu tiến thường kiên cường hơn, điều này cho phép họ vượt qua tình huống khó khăn và thử thách. Ngoài ra họ cũng ưu tiên việc thu thập kiến thức hơn là tập trung vào kết quả thắng bại, cho nên họ không ngần ngại mạo hiểm. Điều này tôi đặt tên là sự ưu tiên phát triển hơn là sự trì trệ. Ngược lại, những người có tư duy cố định thường ngại thử thách vì họ tin rằng tài năng và trí thông minh là bẩm sinh. Họ coi thất bại là một sự tấn công vào cái tôi và lòng tự trọng của mình. Đối với họ, thiếu kiến thức là dấu hiệu của sự ngu ngốc và thất bại một lần có nghĩa là sẽ thất bại mãi mãi.
Một người có tư duy cầu tiến luôn tin rằng họ đang thay đổi và phát triển không ngừng, vì vậy họ thường không gắn kết cái tôi của mình với kết quả trước mắt. Thay vào đó, người này sẽ tập trung vào quá trình học hỏi và phát triển chuyên môn của mình. Rất ít người sẽ phủ nhận rằng tư duy cầu tiến được thể hiện rõ ràng như các hiện tượng thiên nhiên trong cuộc sống.
Chúng ta biết rằng bộ não có thể tiếp tục học hỏi cho đến ngày chúng ta chết, nhờ vào các nghiên cứu quan trọng trong ngành thần kinh học. Có vẻ khá trực quan rằng mọi người phải làm việc chăm chỉ và kiên trì, bất chấp trở ngại, để đạt thành công. Vì vậy, tư duy cầu tiến cho cái nhìn chính xác hơn về thực tế so với tư duy cố định. Cho nên, những người có tư duy cầu tiến sống sát với thực tế hơn là những người có tư duy cố định. Họ có thể đưa ra quyết định đúng đắn khi mà một người có tư duy cố định sống trong trạng thái ảo tưởng và cổ hủ.
Hãy tưởng tượng hai doanh nhân: một người có tư duy cầu tiến và một người có tư duy cố định.
Cả hai đều đang ở giai đoạn đầu của hành trình khởi nghiệp. Do hoàn cảnh, họ bị buộc vào một tình thế tiến thoái lưỡng nan. Người có tư duy cố định thường sẽ nhìn thấy một cuộc hành trình dài và gian nan phía trước và điều quan trọng nhất đối với anh ấy là kết quả của sự đấu tranh này. Những người tương tự như anh ta tin rằng thành công là do số mệnh. Sau một thời gian chiến đấu, anh ta sẽ chán nản và từ bỏ giấc mơ khởi nghiệp. Ngược lại, người có tư duy cầu tiến sẽ mỉm cười khi đứng trước một hoàn cảnh tương tự. Vượt qua gian khó là mục tiêu của cô ta và sự hài lòng không nằm tại đích đến mà là con đường đến đích. Đảm nhận vai trò của người học hỏi, cô ta cởi mở đón nhận con đường dài và gian nan phía trước như là một người thầy khắt khe của mình.
Cô ấy không ngại để các khó khăn và thử thách rèn luyện mình thành mẫu người mà cô ấy muốn vươn tới. Sự quyết tâm vượt khó là quyết định cuối cùng. Khi nhìn lại hai ví dụ này, hầu hết bạn đọc chúng ta sẽ đồng ý với tôi rằng người doanh nhân có tư duy cầu tiến có hiểu biết về thực tế cao hơn. Vì mọi thứ có giá trị trong cuộc sống đòi hỏi thời gian, nỗ lực và chiến lược để xây dựng. Nếu thành công dễ dàng đạt được thì thế giới này đã trở thành thiên đàng rồi, bạn có đồng ý với tôi không? Chỉ có tư duy cầu tiến mới giúp bạn biến các ước mơ thành hiện thực.
Phát triển tư duy cầu tiến như thế nào?
Chìa khóa đầu tiên rất đơn giản: tin tưởng rằng khái niệm tư duy cầu tiến là có thật và khả năng thay đổi nhiệm màu của não bộ. Thần kinh học đã chỉ ra rằng bộ não của chúng ta không cố định, và trên thực tế chúng rất dễ uốn nắn thay đổi theo thời gian dựa vào khả năng rèn luyện của bạn. Tôi đã nhắc đến khái niệm này trong phần trước của cuốn sách.
Chúng ta luôn có thể phát triển và học các kỹ năng mới
Ví dụ, một nghiên cứu khoa học cho thấy những người lái xe taxi có não bộ phát triển hơn sẽ giúp họ tìm hướng đi hiệu quả hơn trong các thành phố lớn. Ngoài ra, các nhà khoa học cũng phát hiện ra rằng lượng chất xám trong não của họ tương quan với thời gian họ lái xe. Điều này cho thấy việc thực hành dẫn đến những thay đổi trong bộ não của chúng ta, cho phép chúng ta hoạt động hiệu quả hơn trong công việc.
Chìa khóa thứ hai trong tư duy cầu tiến là tập trung vào quá trình hơn là kết quả. Giáo sư Carol Dweck dựa trên các nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng chúng ta nên khen ngợi người khác về nỗ lực của họ, hơn là ca ngợi về kết quả đạt được. Tôi lấy ví dụ về một lời khen mang tư duy cầu tiến. Thay vì khen bạn học A vừa được điểm 10 là “A giỏi quá, được 10 điểm luôn”, thì hãy thay đổi là “Chà, cách bạn học chắc hiệu quả lắm. Bạn có thể hướng dẫn giúp mình được không?”
Các bạn thấy tôi ca ngợi quá trình học của A hơn là kết quả của bạn ấy. Vì sao? Quá trình học tập ôn bài là thứ mà A có thể kiểm soát được. Hy vọng của tôi là sẽ học hỏi và lặp lại được quá trình này để đạt kết quả tốt hơn cho mình. Bạn hiểu ý tôi không? Ngược lại, khen ngợi A về điểm 10, điều mà A không thể kiểm soát được là lời sáo rỗng vì nó không thực tế và cũng không có lợi gì cho người khen.
Tôi muốn bạn ngẫm thêm về câu chuyện của A và hiểu tư duy cầu tiến rất khác biệt so với các cách suy nghĩ phổ biến khác. Tư duy cầu tiến, mặc dù rất hiệu quả trong việc hoàn thiện bản thân nhưng lại không dễ truyền bá cho người khác. Nó không đơn giản như bảo ai đó rằng chăm chỉ và nỗ lực thì sẽ dẫn đến thành công thôi. Họ cần phải luôn tự lý trí với bản thân là họ có thể thay đổi vận mệnh của họ bằng cách thay đổi quy trình sống và làm việc. Điều quan trọng nhất ở đây là việc kiến tạo một hoặc nhiều quy trình hiệu quả. Kết quả tốt hơn sẽ được tạo ra từ đó. Một giải pháp khá đơn giản nhưng rất hữu hiệu mà tôi thường xuyên sử dụng là luôn giữ một sổ nhật ký để ghi lại những kỹ năng và một thói quen nào đó mà bạn đang muốn cải thiện cho cuộc sống mình trở nên hoàn thiện hơn.
Làm sao để có thể xây dựng được một mô hình tốt?
Tư duy tích cực chính là yếu tố nền tảng để giúp bạn có được một mô hình tốt cho bản thân mình. Bạn cần xác định được rất rõ đâu là các yếu tố nguyên nhân và kết quả của một vấn đề. Khi chúng ta xác định không đúng các vấn đề nguyên nhân và kết quả thì các hành động của chúng ta có thể tạo ra các kết quả không được mong đợi so với kỳ vọng. Đó là một trong những điều kiện đầu tiên của quá trình tư duy để đưa ra một hệ thống tốt.
Hãy xem một ví dụ kinh điển sau đây về quá trình không xác định rõ nguyên nhân của vấn đề có thể dẫn tới những hệ lụy khôn lường như thế nào. Chiến dịch diệt chuột lớn nhất tại Hà Nội những năm 1902 không diễn ra theo như kế hoạch đã dự tính. Thay vì thuyên giảm, loài động vật mang bệnh truyền nhiễm này tiếp tục sinh sống ung dung và gây phiền toái cho người dân và chính quyền Đông Dương. Dưới những con đường tại Hà Nội, chuột cống sinh sôi nảy nở lên cả bề mặt của thành phố, gây ra rất nhiều vấn đề trong đó có vệ sinh và bệnh tật, đặc biệt là khi các trường hợp bệnh dịch hạch được phát hiện trong dân chúng.
Để giải quyết vấn đề nan giải này, các thợ săn chuột do chính quyền Thuộc địa Pháp thuê và được trả công dựa trên số lượng chuột bị giết bắt đầu tiến vào các cống rãnh của thành phố. Và cuộc tàn sát chuột trên quy mô lớn nhất chưa từng được thực hiện bắt đầu. Theo ước tính, trong tuần cuối tháng 4 năm 1902 có khoảng 7.985 con chuột bị thợ săn giết chết. Một tháng sau, con số này tăng lên vượt bậc với tiến độ 4.000 con mỗi ngày. Đỉnh điểm của chiến dịch là có hơn 20.000 con chuột bị tiễu trừ vào ngày 21 tháng 6 cùng năm.
Chiến dịch tiễu trừ chuột này được biết đến trong lịch sử qua nghiên cứu của nhà sử học Michael Vann vào những năm 90 khi ông đọc qua tài liệu về thuộc địa của Pháp có tên: “Tiêu diệt động vật: Chuột Cống”. Sự lôi cuốn của đề tài này là động lực thúc đẩy ông Vann thu thập và xây dựng lại câu chuyện hoàn chỉnh về sự kiện lịch sử từ nhiều nguồn tài liệu và thông tin hỗn độn của chính quyền thực dân Pháp xưa.
Trở lại với chiến dịch diệt chuột, nhà cầm quyền thực dân nhận ra rằng nhóm thợ săn chuyên nghiệp của mình mặc dù làm việc không ngừng, vẫn không làm suy suyển nổi dân số đông như quân Nguyên của loài gặm nhấm kia. Họ phải quyết định tiến hành kế hoạch B, đó là mở rộng phạm vi tuyển dụng thợ săn bao gồm cả người dân bình thường không chuyên nghiệp, với phần thưởng là một xu cho một con chuột bị giết. Ngoài ra, người tham gia có thể nộp đuôi chuột thay vì nguyên xác để tránh phiền toái về chỗ chứa cho chính quyền sở tại.
Nhà cầm quyền Pháp rất hài lòng về chính sách mới này vì họ cho rằng mình đang khuyến khích phong trào kinh doanh tại Việt Nam. Ban đầu thì mọi thứ diễn ra rất trôi chảy vì hằng hà sa số những cái đuôi chuột đổ về các văn phòng chính phủ. Sự sáng tạo của người Pháp thật tuyệt vời, có phải không?
Sự thật khác xa với mong đợi khi người Pháp phát hiện ra rằng thay vì bị tiêu diệt, những con chuột này trở nên… cụt đuôi.
Các thợ săn chuột người Việt đã chặt những cái đuôi có giá nộp thay vì bẫy nguyên con, để chúng có thể sinh sôi nảy nở tạo ra nguồn doanh thu cho họ. Nhiều người còn đem chuột từ những nơi khác về thành phố. Chiến dịch diệt chuột của người Pháp cuối cùng cũng kết thúc khi thanh tra y tế phát hiện ra nhiều nông trại nuôi chuột tại ngoại ô Hà Nội chuyên cung cấp đuôi chuột để lấy lời.
Phong trào khởi nghiệp của người Pháp đã thất bại hoàn toàn và từ đó người dân Hà Thành phải tiếp tục sống chung với loài vật mang dịch bệnh nguy hiểm này.
Sau tất cả, người Pháp vẫn làm đúng một điều đó là dự đoán chuẩn xác về mầm mống bệnh dịch hạch nguy hiểm mà loài gặm nhấm này mang trên người nếu không bị kiểm soát. Vài năm sau chiến dịch thất bại, chuột cống lan tràn đã gây ra nạn dịch hạch giết chết 263 người tại Hà Nội, trong đó đa số là người Việt. Trong khi đó, Toàn quyền Đông Dương Doumer trở về Pháp được vinh danh là nhà cầm quyền Đông Dương hữu hiệu nhất từ trước đến nay. Sau này, ông ta trở thành Tổng thống Pháp.
Trở về hiện tại, cuộc Tàn sát chuột lớn nhất trong lịch sử Hà Nội là ví dụ được đề cập nhiều nhất để mô tả Hiệu Ứng Rắn Hổ Mang (Cobra Effect). Đây là một lý thuyết kinh tế khi sự ưu đãi trong một hệ thống phức tạp có thể dẫn đến những hậu quả tai hại không lường trước được. Đôi khi, nó cũng được sử dụng bởi nhiều nhà lập luận khi họ phản biện lại sự can thiệp của chính phủ trong bất cứ hoàn cảnh nào của xã hội, như vấn nạn chuột tại Hà Nội được tôi miêu tả ở trên.
Mô hình A + B = C
Nếu bạn có một mô hình đơn giản như trên, thể hiện mối quan hệ giữa A, B và C. Tuy nhiên do những giới hạn trong nhận thức khiến bạn không thể hình dung ra là yếu tố B thực sự liên quan đến A và C. Điều đó dẫn đến việc nếu mô hình của bạn chỉ là A = C, thì bạn hoàn toàn không quan tâm đến sự thay đổi của C, xem liệu tác động từ B là như thế nào. Thậm chí có những giai đoạn mà phần lớn sự thay đổi từ B chính là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự thay đổi của C. Sự phớt lờ yếu tố quan trọng của mô hình dẫn đến việc phân tích và quá trình áp dụng ra quyết định của bạn trở nên các quyết định mang tính 50:50. Chỉ khi nào những yếu tố tác động của B là không đáng kể thì bạn sẽ thấy mô hình suy nghĩ của bạn khá hiệu quả, tuy nhiên khi các tác động của B trở thành chủ đạo thì bạn sẽ thấy mô hình của mình không hiệu quả.
Việc không nhận thức đầy đủ đâu là những nguyên nhân tận gốc của vấn đề khiến cho giá trị kết luận của bạn bị đặt dấu chấm hỏi.
Kế đến, tôi muốn bạn tiếp tục nhìn vào các vấn đề chúng ta đang thảo luận ở một góc nhìn sâu hơn về cách thức để tìm ra yếu tố B trong mô hình, trong khi những giới hạn về nhận thức của bạn chỉ hướng dẫn cho bạn đến yếu tố A. Trong suốt nhiều năm nghiên cứu tôi cảm thấy rằng việc chúng ta không biết không đáng sợ mà điều đáng sợ đó là chúng ta trong phần lớn thời gian đều không biết ở phía trước, và quan trọng nó lại đang chờ chúng ta ở phía trước.
Quá trình đơn giản hóa tư duy
Tôi muốn chia sẻ với các bạn một ví dụ để làm đơn giản hóa tư duy phân tích nhân quả mà chúng ta vừa thảo luận. Toàn bộ những gì chúng ta biết đó chính là nhánh cây, quả và thân cây. Nếu bạn đặt mọi yếu tố đó tách rời với nhau thì chúng là những vật tách rời nhưng khi bạn có thể ghép tất cả lại với nhau thì đó lại là một thân cây hoàn chỉnh. Khi đó các cành cây, nhánh cây và quả sẽ được nhìn lại theo một trật tự nhất định do thân cây quy định.
Vấn đề là ở chỗ nhiều người có xu hướng chỉ tập trung vào những số liệu và những con số thực tế mà họ biết trong khi không dành nhiều thời gian suy nghĩ để tư duy về mối liên hệ giữa con số với nhau để hình dung ra các bức tranh lớn hơn. Đó là lý do tại sao tôi vừa lấy một ví dụ so sánh về nhánh cây, quả và thân cây ở trên. Việc nhìn mọi thứ cô lập khiến bạn không thể thấy được sự liên hệ giữa các bộ phận của toàn bộ một cây. Để rồi từ đó bạn có thể dễ dàng giải thích được sự thay đổi của từng thớ vỏ cây, từng cành cây sẽ đâm chồi như thế nào và từ đó từng quả được tạo ra thế nào. Tất cả như một hệ sinh thái hoàn chỉnh, được kết nối một cách cơ bản và logic với nhau. Vấn đề là bạn phải có một tư duy mở để đón nhận được sự kết nối đó của hệ thống.
Nguyên tắc của phân tích phải là việc kết hợp các quan điểm vĩ mô để có thể hiểu được những xu hướng chuyển dịch bên ngoài, kế theo đó bạn cần phải phát triển một tư duy vi mô thực tế để có thể đưa ra các chiến lược đầu tư phù hợp dựa trên các quan sát vĩ mô.
Trong những mô hình mà chúng tôi phân tích thì chúng tôi cố gắng tạo ra một hệ thống với tư duy vĩ mô làm nền tảng. Tuy nhiên những cách nhìn vĩ mô được sử dụng từ các dữ liệu vi mô của doanh nghiệp như đầu tư mới hay phần gia tăng nợ của doanh nghiệp để có thể đưa ra các chiến lược đầu tư lý tưởng. Những dữ liệu vi mô đó lại đang xuất phát từ các thông tin vĩ mô liên quan đến sự thay đổi trong nhu cầu của người tiêu dùng ở một vài phân khúc mục tiêu. Những câu hỏi của các bạn về sự thay đổi trong thị hiếu và quy mô tiêu dùng sản phẩm của các người dùng cuối sẽ được chuyển hóa thành mức tăng trưởng lợi nhuận của công ty trong tương lai.
Tôi muốn mở rộng câu chuyện của chúng ta thêm một bước xa hơn mà tôi chưa đề cập trước đây đó là nhiều người, thậm chí là các chuyên viên phân tích có kinh nghiệm chỉ có thể nhìn thấy các cành lá riêng lẻ hay là những sự kết nối rất đơn điệu với nhau. Nếu nhìn từ góc nhìn đa chiều, bạn biết đâu sẽ còn thấy sự kết nối của những cành gần bạn nhất và những cành thật xa. Tôi hy vọng rằng những ví dụ đơn giản vừa rồi đã giúp bạn hiểu sâu hơn về tư duy nhân quả và cách nhìn đa chiều đã giúp chúng ta thấy được sự kết nối của các bộ phận trong một tổng thể ra sao, qua đó giúp bạn nhận ra được những giới hạn hiểu biết của mình để tìm kiếm đâu là những yếu tố quan trọng trong một thế giới đầy các yếu tố gây nhiễu này.
Rèn luyện tư duy đa chiều (multi-disciplinary mindset)
Cách tiếp cận đa chiều là một phương pháp liên quan đến việc kết nối một cách phù hợp các vấn đề tưởng chừng không liên quan trực tiếp với nhau để xác định lại một vấn đề theo một cách nghĩ khác với tư duy truyền thống. Cách tiếp cận đa chiều được sự quan tâm từ các chuyên gia phát triển các kỹ năng nhưng nếu nhìn theo một góc độ đời thường thì đây chỉ là việc chúng ta định hướng nhìn nhận các vấn đề theo hướng đa chiều thay vì chỉ tập trung vào một vài khía cạnh nào đó mà chúng ta cảm thấy hiểu nhiều nhất. Một trong những rào cản lớn nhất của phương pháp tiếp cận đa chiều đó là quan niệm truyền thống về quá trình chuyên môn hóa trong việc giải quyết các vấn đề. Quan niệm truyền thống này thực tế đã có tác động không tốt đến lợi ích của xã hội. Trong những năm gần đây, phương pháp tư duy đa chiều là một mối quan tâm của chính phủ bởi vì họ đang rất cần các nhân sự có các lợi thế trong việc suy nghĩ về các hệ thống phức tạp như nền kinh tế họ đang quản lý.
Người có lẽ là thiên tài nhất trong việc áp dụng tư duy đa chiều cho những lĩnh vực khác nhau chính là Elon Musk. Vị tỷ phú được mệnh danh là “Iron Man” của đời thực này đã xây dựng được tới 4 công ty trị giá hàng tỷ đô la Mỹ trong 4 lĩnh vực khác nhau gồm phần mềm, năng lượng, phương tiện giao thông và không gian chỉ ở độ tuổi hơn 40.
Tục ngữ Việt Nam có dạy là: “Một nghề cho chín còn hơn chín nghề”, rằng chỉ nên tập trung vào một lĩnh vực cốt lõi của mình thôi, đừng cái gì cũng biết nhưng cuối cùng lại chẳng thể thuần thục cái gì cả. Lời khuyên này có ý nói nếu cố học trong nhiều lĩnh vực, bạn sẽ chỉ nắm được bề nổi và không bao giờ đạt đến cấp độ thành thạo được. Thông thường mọi người nói rằng để đạt được đẳng cấp như Elon Musk, chúng ta chỉ nên tập trung vào một lĩnh vực duy nhất. Nhưng Musk đã phá vỡ những định kiến từ quy tắc này. Ông tinh thông trong nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau từ tên lửa, kỹ thuật, vật lý, trí thông minh nhân tạo cho đến năng lượng mặt trời.
Elon Musk thuộc kiểu người nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực khác nhau, nắm vững sâu sắc những quy tắc kết nối các lĩnh vực này và sau đó ứng dụng những quy tắc đó vào chuyên môn chính của họ. Học và nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực đa dạng mang lại cho bạn những lợi thế về thông tin mà hầu hết những người chỉ tập trung vào một lĩnh vực duy nhất không thể có được.
Hãy tưởng tượng thử những giáo sư tại các trường đại học nhưng lại rất có tư duy marketing thì cái họ sẽ tập trung vào trong quá trình truyền đạt không phải là nội dung có đầy đủ hay không, mà là liệu điều họ nói có thể chạm đến sinh viên hay không và liệu những gì họ dạy sẽ có thể tốt cho sinh viên hay không. Đó là tư duy của một người marketing đích thực, nhưng nó lại đang được áp dụng cho một lĩnh vực vốn rất mang tính một chiều truyền thống.
Trên thực tế có rất ít người nỗ lực học hỏi thêm ngoài lĩnh vực chuyên môn chính của mình. Trong khi đó, mỗi lĩnh vực mới lại mang đến cho ta khả năng kết hợp mà những người khác không thể có được. Đây chính là lợi thế của những người có tư duy khái quát đa chiều. Nếu dành thời gian học những khái niệm cốt lõi trong nhiều lĩnh vực và luôn liên kết chúng với cuộc sống xung quanh, việc trao đổi giữa các lĩnh vực sẽ trở nên dễ dàng và nhanh chóng hơn rất nhiều.
Việc phát triển tư duy đa chiều cho người lao động đặc biệt rất quan trọng đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam trong bối cảnh cần phải thay đổi vị trí trong chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu. Muốn phát triển các ngành dịch vụ chất lượng cao như tài chính và tư vấn tài chính cá nhân thì chúng ta cần những con người có khả năng tư duy phức tạp trong việc giải quyết các nhu cầu cấp cao. Đây là một đòi hỏi rất quan trọng mà hệ thống giáo dục cần phải tạo ra những đột phá rất lớn thì mới bắt kịp các nhu cầu của xã hội. Tuy nhiên, những gì chúng ta thấy ở cách giáo dục Việt Nam là nơi đào tạo lý thuyết vẫn đang không thể bắt kịp được yêu cầu thực hành của xã hội.
Việc áp dụng rập khuôn các lý thuyết kinh tế mà không cân nhắc đến các yếu tố điều kiện môi trường đặc thù cũng làm cho quá trình nhận thức của chúng ta bị mắc kẹt lại trong một thời gian dài. Đối với các quyết định kinh tế, tôi nhận thấy rằng trong suốt một thời gian dài chúng ta lại đang phụ thuộc quá nhiều vào các số liệu vĩ mô từ chính phủ để đưa ra các dự báo kinh tế. Chúng ta phụ thuộc vào các con số từ tổng cục thống kê như chỉ số lạm phát, chỉ số tăng trưởng kinh tế, chỉ số PMI để đánh giá về sức khỏe của nền kinh tế từ đó đưa ra các quyết định đầu tư tương ứng.
Tôi thấy có hai vấn đề liên quan đến cách làm phổ biến nói trên của các nhà kinh tế học cũng như các chuyên gia phân tích đầu tư trên thị trường liên quan đến việc phân tích các chỉ số vĩ mô để đánh giá sức khỏe của các nền kinh tế.
Vấn đề thứ nhất, về mặt mô hình phân tích thì vấn đề đang nằm ở chỗ mỗi mô hình kinh tế có những yếu tố đặc thù trong các yếu tố cấu trúc của nền kinh tế dẫn đến việc sử dụng các chỉ số kinh tế chuẩn hóa sẽ không phải là một mô hình phân tích yếu tố năng động của các nền kinh tế. Hơn nữa việc phân tích quá nhiều các thông số đầu vào trong khi không dựa các yếu tố bản chất của nền kinh tế sẽ khiến cho quá trình phân tích mang tính hình thức và không thể rút ra các vấn đề đặc thù của nền kinh tế.
Vấn đề thứ hai đó là tính tin cậy của các dữ liệu. Việc chỉ dựa vào các thông tin kinh tế được công bố định kỳ mà chúng ta hoàn toàn không thể kiểm tra được tính tin cậy của các dữ liệu. Trong giai đoạn nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn thì số liệu nợ xấu tại các ngân hàng đã được báo cáo thấp hơn số thực tế rất nhiều. Các tổ chức quốc tế cũng cho rằng nợ xấu của Việt Nam thực tế phải cao gấp 3 - 4 lần những con số được báo cáo. Thậm chí những ước tính của ngân hàng nhà nước cũng cao hơn hẳn con số từ ngân hàng thương mại.
Một ví dụ nữa để cho thấy bạn cần hết sức thận trọng trong việc sử dụng các dữ liệu vĩ mô trong việc đưa ra các quyết định kinh tế.
Minh họa 2.1: Tăng trưởng tín dụng của Việt Nam theo tháng qua các năm
Biểu đồ trên thể hiện mức tăng trưởng tín dụng biến động qua các tháng trong năm như thế nào. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) luôn đặt ra một mức tỷ lệ tăng trưởng mục tiêu cho nền kinh tế, trên cơ sở đó sẽ là chỉ tiêu cho hệ thống ngân hàng thương mại. Như chúng ta có thể thấy, mức tăng trưởng tín dụng luôn được hệ thống ngân hàng xoay sở để đạt được mức chỉ tiêu vào cuối năm. Vấn đề ở đây đó là trong phần lớn các năm thì đến tháng Mười mức tăng trưởng tín dụng mục tiêu vẫn chưa đạt được. Nghĩa là có một lượng lớn tín dụng được giải ngân trong hai tháng cuối năm và liệu khoản tín dụng trên có thực sự được đưa vào hoạt động kinh doanh thực hay không thì đó vẫn là câu hỏi. Nếu chúng ta nhìn chi tiết hơn vào tăng trưởng tín dụng của tháng Một sẽ thấy mức tăng trưởng này thường âm, trong khi tháng Một là tháng cận Tết, nhu cầu vay của doanh nghiệp thường sẽ tăng để nhập kho hàng hóa. Điều đó hàm ý rằng có thể đã có những tăng trưởng tín dụng ảo trong giai đoạn tháng Mười Một và Mười Hai để đáp ứng kịp mức tăng trưởng tín dụng mục tiêu của NHNN từ các ngân hàng thương mại. Với một mức tăng trưởng tín dụng đang theo mệnh lệnh hành chính như vậy thì những con số về tăng trưởng tín dụng hằng năm không còn là một thước đo tốt cho mức độ tăng trưởng của nhu cầu tiêu dùng và đầu tư trong nền kinh tế. Nhìn ở một góc độ khác những con số thống kê trên đã cho các bạn thấy mức độ can thiệp trực tiếp của chính phủ vào nền kinh tế như thế nào.
Hãy thử tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra nếu các mô hình kinh tế của các nhà nghiên cứu phân tích về các yếu tố tác động đến mức tăng trưởng tín dụng hằng tháng hoặc hằng quý từ các tổ chức tín dụng. Kết quả phân tích dựa trên những số liệu mà tính tin cậy có thể bị sai lệch vì nhiều lý do phi kinh tế như vậy liệu có thể cung cấp cho bạn những hỗ trợ hiệu quả trong việc ra các quyết định kinh tế hay đầu tư được hay không?
Điều này sẽ đặc biệt sai khi phân tích các mô hình kinh tế đặc thù tại các quốc gia Châu Á. Đã từng có một thời gian các nhà kinh tế học cho rằng giữa tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng trưởng kinh tế của thị trường chứng khoán Trung Quốc có mối quan hệ nghịch biến với nhau. Trong những giai đoạn nền kinh tế tăng trưởng cao thì thị trường chứng khoán lại không tăng trưởng nhưng khi nền kinh tế Trung Quốc giảm tốc mạnh mẽ từ sau 2015 thì thị trường chứng khoán lại bắt đầu có những dấu hiệu biến động lớn qua các đợt tăng và giảm giá mạnh.
Sự tương đồng giữa tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng trên thị trường chứng khoán là một lập luận kinh điển về mối quan hệ giữa thị trường chứng khoán và hoạt động của nền kinh tế thực. Tuy nhiên, lập luận đó sẽ không đúng khi áp dụng vào những gì diễn ra đối với các nền kinh tế tại Đông Bắc Á, đặc biệt là đối với nền kinh tế Trung Quốc. Đối với các quốc gia phát triển thì thị trường chứng khoán là một kênh huy động vốn của nền kinh tế nên việc các doanh nghiệp hoạt động tốt trên thị trường kinh tế thực sẽ được phản ánh vào những kết quả tăng trưởng của những cổ phiếu này trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, điều này sẽ không đúng khi áp dụng cho tình huống của Trung Quốc, vì vai trò của thị trường chứng khoán tại Trung Quốc khác hẳn so với những gì trong các mô hình kinh tế truyền thống.
Một lần nữa, chúng ta thấy được khi nhận thức sai về mô hình phân tích của mình thì các kết luận sẽ chẳng đưa bạn đến một phát hiện nào chính xác, thậm chí nó có thể dẫn đến các sai lầm nghiêm trọng trong quá trình ra quyết định. Tương quan không quyết định nhân quả là một trong những lời khuyên kinh điển dành cho các nhà thống kê học khi chỉ đơn thuần dựa vào mối quan hệ giữa hai biến số để đưa ra các nhận định mà không dựa trên những lập luận và phân tích mang bản chất giải thích vấn đề.
Rồi các dữ liệu liên quan đến các chỉ số CPI hay PMI được công bố hằng tháng cũng là các dữ liệu dựa trên mẫu thống kê, vậy nên cũng có thể mang tính cảm tính rất cao trong quá trình chọn mẫu. Do đó, trong quá trình phân tích tôi luôn rất hạn chế sử dụng các dữ liệu này để phân tích vì chúng không đảm bảo tính thực tế của dữ liệu. Trong phần lớn thời gian thì có lẽ đây là những dữ liệu quan trọng đối với bạn, nhưng với tôi thì tôi muốn lựa chọn những biến số có mức độ tin cậy cao hơn bởi vì không muốn quá trình ra quyết định phụ thuộc vào những yếu tố mà mình không thể kiểm soát được.
Thay vì tìm kiếm các tín hiệu từ các thông tin vĩ mô thì tôi lại tập trung mọi nỗ lực của mình để đánh giá các thông tin từ báo cáo tài chính của các công ty niêm yết. Theo tôi diễn biến của nền kinh tế sẽ được phản ánh tốt nhất thông qua các diễn biến về tình hình tài chính của các doanh nghiệp trên sàn chứng khoán. Theo tôi đó là những thông tin thật. Bạn có thể nói tôi rằng các báo cáo tài chính vẫn có thể không đáng tin cậy, điều đó hoàn toàn có cơ sở trong bối cảnh rất nhiều vụ thao túng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết trong những năm qua. Tuy nhiên, cái tôi nhìn từ báo cáo tài chính là không phải từ một công ty riêng lẻ mà là từ tổng thể nền kinh tế hoặc một nhóm ngành nghề nhất định.
Các nhà kinh tế học và các nhà phân tích đầu tư đang thể hiện một sự tách biệt hoàn toàn trong quá trình thực hiện công việc của mình. Các nhà kinh tế học thì chỉ quan tâm đến sự biến động các yếu tố tổng thể của nền kinh tế mà phần nhiều không chỉ ra được những yếu tố đó sẽ tác động đến các hoạt động ở tầng doanh nghiệp như thế nào và quan trọng nhất là sự tác động đó sẽ ảnh hưởng như thế nào đến kết quả kinh doanh và giá trị của doanh nghiệp. Mặt khác thì các nhà phân tích lại quá tập trung vào việc phân tích doanh nghiệp mà không quan sát được những gì đang diễn ra trong bức tranh lớn của nền kinh tế. Đó là những khoảng chênh trong việc nghiên cứu và hoạt động đầu tư thực tế mà tôi đã quan sát trong suốt 15 năm trong lĩnh vực đầu tư của mình. Đôi khi chúng tôi cảm thấy thật may mắn vì đang có cơ hội để có thể giải quyết phần chênh đó cho các nhà nghiên cứu và các nhà đầu tư thực tế ngoài thị trường.
Khi phân tích một báo cáo tài chính của doanh nghiệp thì tôi nghĩ sẽ có đến 1.000 trường phái có thể phân tích. Mỗi người sẽ có lựa chọn riêng hoặc cách tiếp cận riêng trong việc phân tích các vấn đề từ báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Cho đến giờ thì vẫn chưa có một phương pháp phân tích báo cáo tài chính nào được xem là hoàn hảo nhất. Việc xem xét đâu là vấn đề quan trọng trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp cũng giống như mọi vấn đề trong thực tế mà chúng ta phải trả lời đâu là vấn đề quan trọng cần xem xét. Sẽ rất nhiều các yếu tố nhiễu xung quanh quá trình phân tích của bạn. Tôi biết có rất nhiều người chỉ biết tính các chỉ số tài chính mà không thể phân tích được ý nghĩa của những con số trên liên quan đến tình hình kinh doanh của doanh nghiệp như thế nào. Tôi hy vọng rằng bạn sẽ không nằm trong số đó. Nếu như bạn không may mắn nằm trong nhóm người có thể đọc hiểu các thông tin từ báo cáo tài chính thì hãy cố gắng lên, tôi nghĩ rằng đây là một kiến thức rất cơ bản cho các bạn nếu bạn muốn bắt đầu quá trình kinh doanh của mình. Đừng xem chúng như những con số vô hồn, mà hãy xem chúng chính là kết quả từ quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, những diễn biến hay thay đổi của những con số nói trên sẽ thể hiện những thay đổi trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Nếu như bạn may mắn không bị mắc kẹt ở vấn đề thứ nhất thì hãy xem liệu mình có may mắn vượt qua vấn đề thứ hai hay không? Nếu như bạn đã hiểu được các con số tài chính của doanh nghiệp rồi thì bước tiếp theo của bạn sẽ là gì? Tôi cũng biết rất nhiều người có khả năng đọc hiểu rất tốt các vấn đề tài chính của doanh nghiệp nhưng khi hỏi họ đưa ra những nhận định về triển vọng của công ty trong tương lai thì họ lại không thể đưa ra một nhận định nào. Có thể họ đúng khi cho rằng các thông tin trên báo cáo tài chính là các thông tin quá khứ do đó không thể nào thể hiện được các vấn đề trong tương lai của doanh nghiệp được.
Theo tôi thì có ba yếu tố mà chúng ta cần phải quan tâm trên báo cáo tài chính của một doanh nghiệp để đánh giá triển vọng tương lai của doanh nghiệp. Ba yếu tố có tính dự báo tương lai (leading indicators) mà tôi đang đề cập ở đây đó là mức chi đầu tư của doanh nghiệp, việc gia tăng nợ của doanh nghiệp và mức huy động thêm vốn cổ phần của doanh nghiệp.
Có thể bạn sẽ quan tâm phân tích các chỉ số tài chính như ROA, ROE hay vòng quay tài sản cố định… Tôi xin lỗi nếu những thuật ngữ chuyên môn ở trên có thể làm các bạn đọc không chuyên về tài chính cảm thấy rối rắm. Cơ bản thì mọi người phần lớn thường thích phân tích mức độ sinh lời của công ty, nó có thể là mức sinh lời trên tài sản của công ty đã đầu tư (ROA) hay mức sinh lời hằng năm trên phần vốn của cổ đông đã bỏ ra (ROE). Với tôi thì những chỉ tiêu đó cũng là một vấn đề quan trọng cần xem xét nhưng nó chỉ giúp tôi hiểu thêm về tình hình hoạt động của doanh nghiệp trong quá khứ chứ hoàn toàn không cung cấp cho tôi những thông tin về triển vọng của doanh nghiệp trong tương lai.
Tại sao tôi lại quan tâm đến ba yếu tố nói trên đến như vậy? Yếu tố đầu tiên về mức chi đầu tư tài sản cố định, nó sẽ cho bạn biết sắp tới công ty sẽ đang quyết định tăng trưởng mở rộng hoạt động kinh doanh như thế nào, từ đó giúp cho bạn đưa ra những dự báo về mức tăng trưởng doanh thu tiềm năng của công ty trong những năm tới. Về yếu tố thứ hai liên quan đến mức gia tăng nợ của công ty, nó cho tôi thấy rằng công ty đang đặt cược như thế nào cho triển vọng của công ty sắp tới với mức độ nợ trong quá trình mở rộng sản xuất của mình. Về yếu tố thứ ba liên quan đến phần vốn cổ phần kêu gọi thêm thì nó lại cho tôi thấy các cổ đông đang tin tưởng vào tương lai của công ty như thế nào. Nếu bạn biết rằng không nhiều công ty trên thị trường chứng khoán có thể huy động vốn cổ phần (điều này sẽ được tôi giải thích chi tiết trong những chương sau) thì bạn sẽ cảm thấy yếu tố thứ ba là một điều rất đáng để bạn trăn trở đấy.
Khi xét về bình diện của một ngành nghề hay của cả một nền kinh tế thì ba yếu tố trên cũng là ba yếu tố giúp tôi có thể phân tích được xu hướng chung của một ngành nghề hay của cả nền kinh tế. Đó thực sự là những chỉ báo tuyệt vời để tôi có thể đánh giá sức khỏe của một nền kinh tế. Nền kinh tế chính là tổng thể của các doanh nghiệp nên xét về phương diện thống kê thì một mẫu đủ lớn gồm hàng trăm công ty chứng khoán đã có thể đại diện tốt để bạn có thể nhận ra các xu hướng của nền kinh tế. Tôi thực sự yêu thích các chỉ tiêu này hơn hẳn các chỉ số thống kê vĩ mô từ các cơ quan thống kê. Đối với tôi, những con số thống kê thật vô cảm nhưng những con số từ thị trường chứng khoán chính là nhịp đập của các doanh nghiệp, là những điều mà chúng ta đang thực sự phải lắng nghe để có thể hiểu những chuyển động của thị trường.
Bạn có thể nói với tôi rằng lẽ ra tôi nên chỉ cho bạn những chỉ tiêu nào thực sự phức tạp và huyền bí hơn chứ, bởi vì những chỉ tiêu này thì đến cả những sinh viên đại học còn biết mà. Bạn hãy nhớ lời tôi nói, điểm đặc biệt của bạn khi bạn có một mô hình phân tích sau khi đã hiểu bản chất hiện tượng của vấn đề thì bạn sẽ bắt đầu tập trung vào những vấn đề cốt lõi nhất của doanh nghiệp. Những chương về sau của tôi sẽ giúp các bạn hiểu thêm tại sao ba yếu tố trên lại đóng một vai trò quan trọng như vậy trong mô hình phân tích doanh nghiệp của tôi.
Các yếu tố trên dù rất đơn giản nhưng nó là sự kết tinh của quá trình nghiền ngẫm của tôi về những điểm đặc biệt trong mô hình vận hành của các quốc gia Châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng. Thú thật, tôi như phát rồ lên khi bắt đầu tìm ra được những công thức mà tôi đang muốn chia sẻ với các bạn ở đây. Đó là cách thức nhìn nhận thị trường xung quanh với niềm hy vọng rằng nó sẽ giúp các bạn ra quyết định tốt hơn cho các vấn đề tài chính của bản thân và gia đình.
---------------------------------------------
Chúng ta đang ở đâu trên hành trình?
Trong chương này, tôi đã thật sự nỗ lực hết sức để chia sẻ với bạn không chỉ những câu chuyện cá nhân trong quá trình tìm kiếm mô hình phân tích cho bản thân mà còn chia sẻ quá trình khái quát hóa toàn bộ mô hình để có thể giúp các bạn sử dụng nó một cách đơn giản và dễ hiểu.
Như tôi đã nói với bạn, tôi biết rằng thật khó để bạn có thể cảm nhận hết những trải nghiệm mà tôi đã rút ra trong ngần ấy thời gian. Do đó, tôi đã cố gắng khái quát hóa những sự thay đổi trong tư duy của tôi sau quá trình nhận thức. Tôi nhận ra đó chính là những yêu cầu trong sự thay đổi của một thế giới đang ngày càng đòi hỏi những kỹ năng toàn diện hơn của cả người lao động và người quản lý doanh nghiệp:
• Một tư duy nhân quả giúp bạn luôn xác định được đâu là những gốc rễ của vấn đề.
• Một tư duy đa chiều giúp cho bạn luôn nhìn mọi thứ trong sự kết nối và tương tác với nhau.
• Và cuối cùng là một mô hình phân tích để giúp bạn loại ra các yếu tố gây nhiễu hằng ngày, để tập trung vào những điểm cốt lõi và có giá trị nhất.
---------------------------------------------