• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Hang dã thú
  3. Trang 50

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 49
  • 50
  • 51
  • 52
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 49
  • 50
  • 51
  • 52
  • Sau

Chương 43

H

ọ phát ốm vì đợi chờ.

Trong suốt kỳ nghỉ cuối tuần tại Amsterdam, các Trung úy Andrew Avery và Vincent Manielli đã thấy những bông tu-lip với mọi sắc màu chỉ có trong tưởng tượng, nhìn ngắm rất nhiều các bức họa đẹp tuyệt vời, tán tỉnh các nàng tóc vàng phục vụ ở nhà hàng với khuôn mặt tròn trịa, hồng hào (ít nhất là với Manielli thôi, Avery thỏa mãn với cuộc hôn nhân của cậu ta). Họ thích thú làm bạn với một phi công Không lực Hoàng gia bảnh bao có tên Len Aarons. Hiện cậu ta vẫn đang ở trong nước thực hiện những nhiệm vụ ngầm (về khoản này cậu ta cũng hay lảng tránh hệt hai tay người Mỹ). Họ cùng uống mấy lít bia Amstel và nốc đến chán ngấy rượu Genever.

Nhưng cuộc sống tại căn cứ quân sự xa lạ nhanh chóng hết hứng thú. Nói thật là họ cũng mệt khi lòng dạ lúc nào cũng như lửa đốt, không ngừng lo lắng cho Paul Schumann.

Cho dù lúc này sự chờ đợi đã chấm dứt. Vào lúc 10 giờ sáng thứ Hai, chiếc máy bay hai động cơ, có hình dáng như con chim mòng biển, nhấp nháy một lúc rồi hạ xuống mặt cỏ trên Sân bay nhỏ Machteldt bên ngoài Amsterdam. Máy bay hạ cánh bằng bánh đuôi cố định rồi giảm tốc chạy vào ga ra, lượn thành vòng zic-zac vì phi công không thể nhìn qua mũi máy bay nhô lên khi ở trên mặt đất.

Avery giơ tay lên vẫy chiếc phi cơ bóng mượt, màu bạc tiến về phía mình.

“Tớ nghĩ mình sẽ làm vài hiệp với anh ta,” Manielli quát lên át tiếng động cơ và tiếng cánh quạt.

“Với ai cơ?” Avery hỏi.

“Schumann. Đấu với anh ta vài trận quyền anh. Tớ đã xem anh ta chơi rồi, anh ta không giỏi được như anh ta nghĩ đâu.”

Tay trung úy nhìn cậu bạn đồng nghiệp, phá lên cười. “Gì chứ?”

“Anh ta sẽ đập nát cậu như một hộp bắp rang bơ, rồi to mồm đòi giải thưởng cho xem.”

“Tớ trẻ hơn và nhanh hơn.” “Cậu ngu hơn thì có.”

Máy bay nhẹ nhàng lướt đến đường băng, phi công tắt máy. Cánh quạt ngừng quay. Các nhân viên mặt đất vội chạy đến khóa bánh máy bay to đùng của Hãng Pratt & Whitneys.

Hai trung úy bước đến cửa máy bay. Họ đã vắt óc nghĩ ra món quà nên tặng Schumann. Manielli nói, “Bọn mình sẽ nói rằng bọn mình đã cho anh ta hưởng chuyến bay đầu tiên trong đời. Đó sẽ là món quà tặng anh ta.”

Nhưng Avery lại nói, “Không. Cậu không thể nói với ai đó một thứ cậu đã làm cho họ là quà tặng được.”

Manielli cho rằng cậu trung úy sẽ hiểu điều này, những người đàn ông đã có gia đình sẽ hiểu hết những nghi thức tặng quà. Thế nên họ đã mua tặng gã một hộp bao cao su Packs o’ Pleasure - Chesterfields - mà họ phải tốn chút công sức và tiền bạc để tìm kiếm tại Hà Lan. Manielli lúc này kẹp cái hộp dưới nách.

Một trong số các nhân viên mặt đất bước đến cửa máy bay, kéo xuống thành cầu thang. Hai tay trung úy bước lên phía trước, cười toe toét nhưng nhanh chóng khựng lại khi trông thấy một thanh niên mới hai mươi tuổi, mặc quần áo bẩn thỉu bước ra ngưỡng cửa, cúi khom người để tránh cụng đầu.

Anh ta chớp mắt, giơ tay lên che ánh nắng mặt trời rồi bước xuống cầu thang. “Chào buổi sáng... Cứ tự nhiên nhé. Tên tôi là Georg Mattenberg.”13 Anh ta mở rộng vòng tay nhiệt thành ôm chầm lấy Avery. Rồi bước qua cậu ta, anh ta đưa tay lên dụi mắt như thể vừa mới dậy.

13 Tiếng Đức

“Thằng quái nào đấy”. Manielli thì thầm.

Avery nhún vai rồi nhìn trừng trừng cửa máy bay, khi mấy thanh niên khác xuất hiện. Có cả thảy năm người. Tất cả đều tầm hai mươi tuổi, thậm chí là vừa qua tuổi thiếu niên, thể hình khá ổn, nhưng đều kiệt sức với đôi mắt mệt mỏi, râu ria lởm chởm, quần áo rách tơi tả, mồ hôi mồ kê nhễ nhại.

“Nhầm máy bay rồi,” Manielli thì thầm. “Chúa tôi, thế...” “Đúng máy bay này mà,” cậu bạn sĩ quan ngắt lời, nhưng cũng bối rối không kém.

“Trung úy Avery phải không?” một giọng nói mang trọng âm nặng cất lên từ ngưỡng cửa. Một người đàn ông lớn hơn mấy thanh niên kia vài tuổi. Thêm một người khác trẻ hơn đi cùng anh.

“Vâng, là tôi. Anh là ai?”

“Tôi nói tiếng Anh tốt hơn những người kia, tôi sẽ trả lời. Tôi là Kurt Fischer và đây là em trai tôi, Hans.” Phá lên cười trước vẻ mặt của hai cậu trung úy, anh nói tiếp, “Phải, phải, người các anh đang đợi không phải chúng tôi. Nhưng Paul Schumann đã cứu chúng tôi.”

Anh kể câu chuyện Schumann đã cứu mười hai thanh niên khỏi sự đầu độc bằng hơi ngạt của Phát xít. Tay người Mỹ đã cố gắng tập hợp đám thanh niên lại khi họ chạy trốn vào rừng, đề nghị cho họ một cơ hội trốn khỏi đất nước. Vài người muốn ở lại và tận dụng cơ hội của họ, chỉ có bảy người đồng ý bỏ đi gồm cả anh em nhà Fischer. Schumann đã mang họ theo trên thùng xe tải Dịch vụ Lao động, nơi họ nắm chặt mấy cái xẻng, túi vải bao bố và hóa trang thành công nhân. Gã đã đưa họ qua được chốt kiểm soát an toàn tới Berlin nơi họ lẩn trốn qua đêm.

“Vào lúc bình minh, anh ấy đưa chúng tôi đến một sân bay nhỏ ngoài thành phố, nơi chúng tôi lên chiếc máy bay này. Và giờ chúng tôi ở đây.”

Avery vừa định hỏi dồn dập anh ta thêm nhiều câu nữa, thì đúng lúc này một người phụ nữ xuất hiện trên ngưỡng cửa máy bay. Cô khoảng chừng bốn mươi tuổi, khá mảnh mai và cũng mệt mỏi như những người khác. Một tay cô xách va li nhỏ, tay kia cầm theo một cuốn sách đã xé rách bìa.

“Chào cô,” Avery nói, ném về phía những người kia lẫn người đồng đội cái nhìn dò hỏi.

“Cậu là Trung úy Avery phải không? Hay có lẽ cậu là Trung úy Manielli?” Tiếng Anh của cô thật hoàn hảo mang theo trọng âm rất nhẹ.

“Tôi... à vâng, tôi là Avery.”

Người phụ nữ nói, “Tên tôi là Käthe Richter. Cái này gửi cho cậu.”

Cô trao cho cậu một lá thư, cậu ta mở ra và huých nhẹ Manielli. Cả hai cùng đọc:

Gửi Gordon, Avery và Manelli (hoặc mấy cậu đánh vần thế quái nào cũng được):

Hãy đưa những người này đến Anh hay Mỹ hoặc bất kỳ nơi đâu họ muốn đến. Tìm nhà cho họ, giúp họ ổn định cuộc sống. Tôi không cần biết các cậu làm thế nào, nhưng hãy chắc chắn rằng các cậu làm được.

Và nếu các cậu nghĩ đến chuyện tống họ trở về Đức, hãy nhớ rằng Damon Runyon, hay một trong những người bạn của tôi trên tờ The Sun hoặc Washington Post sẽ rất quan tâm đến chuyện mọi người cử tôi sang Đức làm gì. Giờ chuyện này sẽ thành bản tin cực kỳ sốt dẻo, đặc biệt là trong kỳ bầu cử.

Làm tốt lắm, các chàng trai!

Paul

Tái bút: Có một người Da đen đang sống trong căn phòng phía sau phòng tập thể hình của tôi, Sorry Williams. Hãy chuyển nhượng chỗ này lại cho ông ấy, nó vẫn còn hoạt động được đấy. Và tặng ông ấy chút tiền nữa. Hào phóng vào.

“Còn cái này nữa,” cô nói rồi đưa cho Avery vài trang giấy rách nát đánh máy bằng tiếng Đức. “Nội dung về cái gì đó tên là Nghiên cứu Waltham. Paul nói rằng tư lệnh phải xem nó.”

Avery nhận tập hồ sơ đút vào trong túi. “Tôi chắc chắn ông ấy sẽ nhận được nó.”

Manielli bước đến chiếc máy bay. Avery đến bên cạnh, họ cùng nhìn vào buồng lái trống không. “Anh ta không tin chúng ta. Anh ta nghĩ rằng chúng ta rốt cuộc sẽ trao anh ta lại cho Dewey. Phi công đã hạ cánh đâu đó trước khi họ tới đây.”

“Cậu nghĩ có thể là Pháp không?” Manielli gợi ý. “Có thể anh ta biết điều này trong Thế Chiến thứ I... Không, tớ biết. Tớ cá đó là Thụy Sỹ.”

Đau đớn khi cho rằng Schumann tưởng họ sẽ bội ước, Avery gọi về phía buồng lái, “Này, anh đã thả anh ta xuống đâu thế?”

“Cái gì?”

“Anh đã hạ cánh xuống đâu? Thả Schumann xuống đâu?” Viên phi công nhíu mày khi liếc nhìn buồng lái. Rồi anh ta lại nhìn Avery. Giọng anh ta vọng qua thân máy bay mỏng tang.

“Ý anh là anh ta không nói gì à?”