• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Hang dã thú
  3. Trang 51

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 50
  • 51
  • 52
  • Sau

PHẦN KẾT

Thứ Bảy, ngày 21 tháng 11 năm 1936

Một đêm lạnh giá trong khu Rừng Đen.

Hai người đàn ông chậm chạp lê bước qua lớp tuyết mỏng. Chắc chắn họ đã lạnh buốt nhưng dường như trong đầu họ đã định sẵn điểm đến, cùng một nhiệm vụ quan trọng phải làm một khi đến nơi.

Mục đích, giống như khát vọng, luôn luôn giúp xua tan sự khó chịu trong người.

Cũng như loại rượu Áo mạnh mẽ, Obstler, họ đang chia nhau tu ừng ực từ một bình nhỏ.

“Cái bụng anh sao rồi?” Paul Schumann hỏi người bạn đồng hành bằng tiếng Đức, để ý một tiếng rên nghe đặc biệt rõ trên gương mặt râu ria của anh ta.

Người kia càu nhàu, “Dĩ nhiên là đau rồi. Vẫn luôn đau, cậu John Dillinger ạ.”

Sau khi quay về Berlin, Paul đã mất nhiều công sức dò hỏi tại quán cà phê Aryan về nơi Otto Webber sinh sống. Gã muốn làm những gì mình có thể để giúp đỡ bất kỳ ai trong số những ‘cô nàng’ của anh ta. Gã đến gặp một người - Berthe - và kinh ngạc xen lẫn vui sướng khi biết Webber vẫn còn sống.

Viên đạn đã găm vào bụng anh ta tại nhà kho bên bờ sông Spree tuy nghiêm trọng, nhưng không gây chết người vì nó chỉ xuyên qua phần mềm một đoạn ngắn. Anh ta đang trôi bồng bềnh trên sông trong chiếc thuyền theo kiểu tang lễ Viking, thì có vài ngư dân đã kéo anh ta ra. Họ cho rằng anh ta vẫn còn sống bất chấp tình trạng bên ngoài. Họ đưa anh ta vào giường và giúp cầm máu. Không lâu sau đó, anh ta được gửi đến một bác sĩ trong băng nhóm cũ đã làm phẫu thuật cho anh ta, dĩ nhiên với một cái giá là không được hỏi han gì đến ông ta nữa. Chứng nhiễm trùng về sau còn tệ hơn vết thương. (“Những khẩu Luger,” Webber kêu ca, “Chúng mang những gì bẩn thỉu nhất của viên đạn. Mang theo cả vi trùng đấy.”) Nhưng Berthe đã đền bù cho việc vụng nấu nướng hoặc dọn dẹp nhà cửa, bằng cách trở thành một y tá tận tâm. Cùng với Paul chăm sóc cho tay anh chị người Đức này bình phục trong vài tháng.

Paul chuyển đến một căn nhà trọ khác tại một vùng bị lãng quên trong thành phố cách xa ngõ Magdeburger và Quảng trường Alexander Plaza. Gã ở ẩn tại đây một thời gian, làm mấy trận quyền anh trong các phòng tập thể hình, kiếm được vài mác ở đây đó trong các xưởng in và thi thoảng hẹn hò với vài phụ nữ địa phương: hầu hết họ đều đã từng là những người theo Chủ nghĩa Xã hội, là nghệ sĩ hoặc nhà văn phải trốn tránh tại nhiều nơi như phía Bắc Berlin và Quảng trường Tháng 11 năm 1923. Trong những tuần đầu tiên của tháng Tám, gã đều đặn đến bưu điện hoặc quảng trường để xem Thế vận hội trên các màn hình lớn truyền trực tiếp được lắp đặt tại đó dành cho những ai không có vé vào sân. Với vẻ ngoài đích thị của một kẻ Quốc Xã (mái tóc Aryan được nhuộm bạc, chỉ cần vậy thôi), gã hẳn sẽ phải ép mình thốt ra câu chửi thề vài lần khi Owens dành huy chương vàng. Tuy nhiên, hầu hết những người Đức ngồi xung quanh gã nhiệt tình chúc mừng chiến thắng của tay Da màu kia. Những Vận động viên người Đức giành nhiều huy chương vàng lại chẳng khiến họ ngạc nhiên, tuy nhiên đoàn Vận động viên người Mỹ dành nhiều huy chương vàng thứ hai. Paul rất phiền lòng khi thấy bóng ma duy nhất ám ảnh sự kiện này là những Vận động viên điền kinh người Do Thái của Mỹ, Stoller và Glickman, thực sự không được tham gia Thế vận hội này.

Sau khi Thế vận hội kết thúc và tháng Tám sắp qua, kỳ nghỉ hè của Paul cũng đến hồi kết. Quyết tâm đền bù cho sai lầm trong phán xét của mình tại Trường Đại học Quân sự Waltham, gã tiếp tục cố gắng giết tên đại diện toàn quyền về ổn định đất nước người Đức.

Tuy nhiên, hệ thống công chức hiệu quả như van thời tiết của Webber báo cáo những thông tin thú vị: Reinhard Ernst đã biến mất. Tất cả những gì họ biết được đó là văn phòng của hắn tại Phủ Thủ tướng đã bỏ không. Dường như hắn đã chuyển ra khỏi Berlin cùng gia đình, và đang dành phần lớn thời gian rong ruổi trên đường. Hắn được ban cho một chức danh mới (Paul biết rằng, như các tấm băng rôn và huy chương, các chức danh được Quốc Xã ném ra như quẳng thóc cho gà). Giờ đây Ernst là ‘lãnh đạo tối cao nhà nước về liên kết công nghiệp đặc biệt.’

Gã không biết thêm thông tin nào khác về hắn. Phải chăng như thế nghĩa là hắn đã bị gạt ra ngoài rìa? Hay đây chỉ đơn thuần là những biện pháp an ninh nhằm bảo vệ kẻ bạo chúa về tái thiết vũ trang?

Paul Schumann không biết.

Nhưng có một điều rõ ràng. Việc xây dựng quân đội của Đức đang diễn ra với tốc độ nguy hiểm. Mùa thu năm đó, chiến đấu cơ mới, Me 109 do các phi công Đức cầm lái, đã có màn ra mắt đầu tiên tại Tây Ban Nha giúp Pháp và đội quân theo Chủ nghĩa Dân tộc của ông ta. Loại chiến đấu cơ này đã thành công rực rỡ, phá hoại rất nhiều vị trí chiến đấu của Đảng Cộng hòa.

Ngày càng nhiều thanh niên Đức trẻ tuổi nhập ngũ. Các xưởng đóng tàu hải quân đang hoạt động hết công suất cho ra mắt các tàu chiến và tàu ngầm.

Nhưng vào tháng Mười, ngay cả các vùng hẻo lánh tại Berlin cũng ngày càng trở nên nguy hiểm. Ngay sau khi Otto Webber đủ khỏe mạnh cho một chuyến đi xa, anh ta đã cùng Paul lên đường.

“Đến Neustadt còn bao xa?” lúc này tay người Mỹ hỏi. “Không xa nữa đâu. Mười cây hoặc hơn.”

“Mười cây?” Paul làu bàu. “Chúa trên Thiên đàng.”

Cho dù thực ra gã thấy mừng khi điểm đến tiếp theo của họ không ở gần đây. Tốt nhất là tăng thêm khoảng cách giữa họ với St.Margen, điểm dừng chân mới nhất của họ, nơi các sĩ quan Cảnh sát có lẽ đang tìm kiếm thi thể một tay đứng đầu Đảng Quốc Xã địa phương. Hắn đã từng là một kẻ tàn bạo. Hắn ra lệnh cho tay chân bao vây và đánh đập các thương nhân, tiến hành Aryan hóa công việc làm ăn của họ. Có không ít người mong muốn giết chết hắn, tuy nhiên theo điều tra của Cảnh sát Hình sự hoặc Gestapo cho biết, hoàn cảnh gây ra cái chết của hắn chẳng có gì đáng ngờ. Rõ ràng hắn đã dừng xe cạnh đường để thư giãn dưới sông rồi bị trượt ngã trên bờ sông băng giá. Hắn đã ngã xuống sông sâu sáu mét và đập đầu vào các tảng đá, chết đuối dưới con sông chảy xiết. Một chai rượu snap còn một nửa được tìm thấy bên cạnh hắn. Một tai nạn đáng buồn. Chẳng cần phải điều tra thêm.

Lúc này Paul cân nhắc điểm đến tiếp theo của họ. Họ đã biết Neustadt sẽ là địa điểm đọc diễn văn của một trong số những kẻ cầm đầu hữu danh vô thực của Hermann Göring, kẻ đã khởi xướng cuộc mít tinh tại Nuremberg quy mô nhỏ đang được tiến hành. Paul đã từng nghe hắn phát biểu, kích động các công dân phá hủy nhà của người Do Thái ở vùng lân cận. Hắn tự phong mình là ‘tiến sĩ’ nhưng hắn chẳng là gì ngoài một tên tội phạm cố chấp, bảo thủ, đầu óc thiển cận và là một kẻ nguy hiểm - một kẻ sẽ chứng minh rằng mình có nguy cơ ngoẻo như người đứng đầu của Đảng tại St. Margen nếu Paul và Webber ám sát thành công.

Có lẽ là một sự sụp đổ khác. Hoặc có thể hắn sẽ kéo theo cái đèn điện vào bồn tắm với mình. Như nhiều tên Lãnh tụ Quốc Xã khác, hắn có xu hướng tự bắn mình, hoặc tự treo cổ trong một cơn điên loạn. Sau Neustadt, họ sẽ chuồn thẳng về Munich. Tại đây nếu được Chúa phù hộ, Webber sẽ tìm được một trong số những ‘cô nàng’ của anh ta để họ có thể ở lại.

Những ngọn đèn pha sáng lóe lên sau lưng họ, cả hai lẻn vào rừng thật nhanh và ở yên trong đó cho đến khi chiếc xe tải đi qua. Khi ánh đèn hậu biến mất tại một khúc quanh trên đường, hai người lại tiếp tục hành trình.

“Chà, cậu John Dillinger, cậu biết con đường này từng được dùng làm gì không?”

“Kể tôi nghe đi, Otto.”

“Đây là trung tâm buôn bán đồng hồ báo thức cúc cu. Nghe nói bao giờ chưa?”

“Tất nhiên. Bà nội tôi có dùng một chiếc. Ông nội tôi đã tháo hết tạ ra khỏi dây xích nên nó chết hẳn rồi. Tôi ghét cái đồng hồ chết tiệt đó. Cứ một tiếng qua đi, nó lại cúc cu, cúc cu... “

“Và đây chính là con đường các lái buôn thường dùng để mang đồng hồ ra chợ bán. Bây giờ không còn nhiều thợ đồng hồ nữa, nhưng có thời cậu sẽ thấy xe cộ nườm nượp lên xuống đường cao tốc suốt ngày đêm... Chà, nhìn đằng kia kìa. Thấy con sông đó không? Nó đổ ra sông Danube, còn các con sông phía bên kia con đường đổ ra sông Rhine. Đây là trái tim của đất nước chúng tôi. Dưới ánh trăng nó đẹp tuyệt vời đúng không?”

Gần đó, một con cú kêu lên, gió vi vu và băng giá phủ trên những cành cây giòn tan như vỏ lạc trên sàn quán rượu.

Anh ta nói đúng, Paul nghĩ, đây là một nơi tuyệt đẹp. Và trong thâm tâm gã cảm thấy sự thỏa mãn lạnh khô như lớp tuyết lâu ngày dưới gót giày. Những bước ngoặt dường như không có thật biến gã thành kẻ cư trú trên xứ sở xa lạ. Nhưng gã đã đi đến quyết định rằng xứ sở này vẫn chưa xa lạ bằng đất nước nơi xưởng in của em trai gã đang đợi gã, một thế giới gã biết mình sẽ chẳng bao giờ quay về.

Không, nhiều năm trước gã đã bỏ lại cuộc đời ấy sau lưng, bỏ lại bất kỳ hoàn cảnh nào liên quan đến một nghề kiếm ăn khiêm tốn, một ngôi nhà ván lợp gọn gàng, một người vợ sáng ngời, đáng yêu với những đứa trẻ tinh nghịch. Nhưng điều này hoàn toàn tốt đối với gã. Paul Schumann chẳng mong muốn gì hơn những thứ mình đã có vào lúc này: bước đi dưới ánh mắt e thẹn của vầng trăng khuyết, với một người bạn đồng hành dễ tính trên một hành trình hoàn thành mục đích Chúa đã ban tặng cho gã - ngay cả nếu đó là một sứ mệnh khó khăn và táo bạo để chỉnh sửa lại những sai lầm của Chúa.

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 50
  • 51
  • 52
  • Sau