• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Hành trình thấu hiểu bản thân và tìm thấy tự do
  3. Trang 9

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 8
  • 9
  • 10
  • More pages
  • 18
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 8
  • 9
  • 10
  • More pages
  • 18
  • Sau

Chương 2Các bám chấp và hệ tư tưởng ràng buộc

Có một câu chuyện cổ của người Toltec đã được kể lại qua nhiều thế hệ trong gia đình tôi, câu chuyện kể về một pháp sư tự gọi bản thân là Gương Khói (Smokey Mirror). Ông tự đặt tên này cho mình khi ý thức về sự tồn tại của một làn khói không chỉ che mờ nhận thức và kiểm soát ý chí của riêng ông, mà còn làm điều tương tự với tất cả mọi người xung quanh. Câu chuyện này rất hữu ích cho hành trình đi sâu vào việc thấu hiểu và làm chủ bản thân.

Sau nhiều năm nghiên cứu và đạt đến sự thức tỉnh, vị pháp sư đã trải nghiệm được một chân lý: “Ta chính là ánh sáng và ta đến từ các vì sao. Bản chất con người thật của ta chính là tình yêu và ánh sáng thuần khiết”. Khi pháp sư nhìn quanh ngôi làng của mình, ông biết rằng tất cả mọi người và mọi vật ngay trước mắt chính là hiện thân của Thượng Đế, và trực giác mách bảo cho ông biết rằng hành trình của đời người chính là quá trình Thượng Đế ý thức được chính bản thân Ngài.

Cảm thấy xúc động bởi phát hiện của mình, vị pháp sư lập tức chia sẻ thông tin này với mọi người trong làng. Nhưng khi bắt đầu chia sẻ, ông chợt nhận ra là chẳng ai hiểu điều ông đang nói. Ông nhận thấy có một làn khói mờ ảo đang chắn giữa ông với người khác, và ngăn cản họ nhìn nhận sự việc dưới một góc độ khác. Mọi hành vi và niềm tin của họ đều bị kiểm soát bởi làn khói này.

Ngoài ra, vị pháp sư còn để ý thấy rằng mỗi khi ông tương tác với người khác thì làn khói này lại tìm cách áp đặt sự kiểm soát lên ông. Nhưng ngay khi ông ý thức được sự có mặt của làn khói, chỉ đơn giản là ý thức được sự tồn tại của nó thì đã có thể khiến làn khói ấy tan biến. Khi làn khói dần tan ra, ông nhìn thấy trước mặt mình là một tấm gương và lúc này ông nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của bản thân một cách mờ nhạt. Nhưng một khi làn khói ấy hoàn toàn biến mất, ông lại có thể nhìn thấy bản thân một cách rõ ràng.

Từ đó, vị pháp sư này ý thức được bản thân ông chính là sự thật và hình ảnh phản chiếu trong gương là một lời nhắc nhở rằng tấm gương chỉ phản chiếu duy nhất sự thật mà thôi. Việc tự nhìn lại và soi chiếu bản thân hẳn là một phương pháp để nhận thức chính mình.

Mỗi khi làn khói bắt đầu xâm chiếm và cản trở ông nhìn rõ bản thân thực sự là ai, ông chỉ cần nhìn vào tấm gương. Nếu tấm gương đục mờ hay ông không thể nhìn rõ hình ảnh của chính mình, vị pháp sư biết rằng mình đang đi sai đường và đã bị lạc trong làn khói mờ ảo. Và ngay khi ông nhớ ra bản chất thực sự của mình thì làn khói ấy cũng lập tức biến mất. Để tự nhắc nhở mình thực sự là ai và sức mạnh của làn khói có thể che mờ nhận thức của bản thân, vị pháp sư đã đổi tên thành Gương Khói.

Câu chuyện này chứa đựng lời dạy cốt lõi của người Toltec: Làn khói chính là biểu tượng của sự bám chấp và hệ tư tưởng ràng buộc chúng ta, ngăn cản chúng ta nhận ra và chứng nghiệm sự thật về bản chất của mình.

Hệ tư tưởng

Tôi sẽ giải thích thế nào là hệ tư tưởng bằng một câu chuyện đơn giản sau đây.

Hãy hình dung một đứa trẻ tám hoặc chín tuổi đang ăn trưa với bà của bé, trước đó người bà đã chuẩn bị món súp cho bữa trưa. Họ ngồi trò chuyện cùng nhau, tận hưởng niềm vui khi ở bên nhau và cảm nhận tình yêu thương dành cho nhau.

Sau khi ăn hết nửa tô súp, đứa trẻ đã cảm thấy no và nói với bà: “Bà ơi, cháu không muốn ăn nữa. Cháu no rồi”. Người bà đáp lại: “Cháu phải ăn hết tất cả chỗ súp này mới được”.

Dù đã làm cha mẹ hay chưa thì ta vẫn có thể hiểu được vì sao người bà lại đưa ra yêu cầu như vậy. Bà muốn cháu trai ăn hết tô súp nhằm đảm bảo đứa bé được nuôi dưỡng đầy đủ. Đây là một ý định tốt đẹp và đáng trân trọng. Khi cậu bé từ chối ăn tiếp, người bà cố gắng thuyết phục bằng cách đưa ra một phần thưởng. Khen thưởng chính là công cụ đầu tiên để thuần hóa con người, hình thành nên hệ tư tưởng ràng buộc chúng ta.

“Cháu phải ăn hết thì mới trở nên cao lớn và có sức mạnh giống như siêu nhân được”. Người bà tìm cách thuyết phục, nhưng cậu bé không bị lay chuyển mà tiếp tục nài nỉ bà: “Không, cháu no rồi. Cháu không muốn ăn nữa đâu”.

Bên cạnh cảm giác no, cậu bé còn cảm giác thấy thích thú khi được thể hiện suy nghĩ của bản thân – việc nói “không” và bày tỏ ý muốn của mình mang đến cho cậu bé cảm giác về sức mạnh của bản thân. Tương tự, cậu bé cũng có được cảm giác này khi nói “có” với điều cậu bé muốn, bởi vì việc đồng ý cũng mang lại cảm giác thật tuyệt vời. Đây chính là cách những đứa trẻ (bao gồm cả chúng ta khi còn nhỏ) hiểu về sức mạnh có được từ quyết định của mình thông qua việc bày tỏ lời đồng thuận “có” hay lời từ chối “không”.

Cuối cùng, khi cậu bé chạm đến giới hạn kiên nhẫn của người bà, lúc này khen thưởng không còn tác dụng nữa, người bà tìm đến hình phạt để áp đặt ý muốn của bà lên cậu bé. Cũng giống như cách mà ông bà và cha mẹ của bà đã làm trước đây, người bà đã không tôn trọng sự lựa chọn của đứa trẻ và quyết định đưa ra hình phạt để kiểm soát đứa trẻ, trong trường hợp này chính là khiến cho cậu bé cảm thấy xấu hổ và tội lỗi. Hình phạt chính là công cụ thứ hai để thuần hóa con người, hình thành nên hệ tư tưởng ràng buộc chúng ta.

“Bao nhiêu trẻ em trên thế giới này đang chết đói vì không có cái để ăn, mà cháu thì lại lãng phí thức ăn của mình. Lãng phí là mang tội đấy!”.

Giờ đây cậu bé cảm thấy lo lắng. Cậu không muốn làm một người ích kỷ và càng không muốn trở thành một tội nhân trong mắt của bà. Cậu cảm thấy bị thuyết phục nên đành nhượng bộ và thuận theo ý bà.

“Bà ơi, cháu sẽ ăn hết ạ”.

Cậu bé tiếp tục ăn cho đến khi hết sạch tô súp. Lúc này, người bà đáp lại cậu bé bằng cử chỉ và lời nói dịu dàng khiến cậu bé cảm thấy an toàn và được yêu thương: “Thế mới là cháu ngoan của bà chứ”.

Cậu bé học được rằng cậu sẽ được khen thưởng nếu biết tuân thủ các luật lệ, và trong trường hợp này, cậu bé đã trở thành một đứa cháu ngoan ngoãn tốt đẹp trong mắt người bà, được bà yêu thương và khích lệ. Hình phạt có thể xảy ra chính là bị bà của mình xem như là một đứa trẻ hư hỏng, ích kỷ và tội lỗi.

Đây là một ví dụ cơ bản minh họa cho hệ tư tưởng ràng buộc con người. Người bà rõ ràng có ý định tốt đối với đứa cháu vì bà yêu thương cậu bé và mong muốn cậu ăn hết bữa ăn. Nhưng cách làm của bà lại mang đến hậu quả tiêu cực mà chính bà cũng không mong muốn. Bởi bất kỳ lúc nào ta lợi dụng cảm giác xấu hổ và tội lỗi như một công cụ để thúc đẩy hành động của người khác thì ta đang đi ngược lại những điều tốt đẹp mà mình muốn hướng tới. Cuối cùng, năng lượng tiêu cực sẽ xuất hiện trở lại bằng cách này hay cách khác.

Ở ví dụ trên, hãy hình dung sau này khi cậu bé lớn lên, hệ tư tưởng hình thành trong tâm trí của cậu mạnh mẽ đến mức có thể chi phối cậu xuyên suốt cả quá trình trưởng thành. Chẳng hạn vào nhiều năm sau, cậu vào một nhà hàng mà họ phục vụ một phần ăn thật lớn và khi đang dùng bữa, cơ thể gửi tín hiệu thông báo với cậu rằng cơ thể đã no. Khi đó, từ ý thức hoặc tiềm thức của mình, cậu có thể sẽ nghe thấy một giọng nói vang lên “Lãng phí thức ăn là mang tội”. Sau đó, trong ý thức hoặc tiềm thức của mình, cậu đáp lời “Vâng, bà ạ” và tiếp tục ăn hết.

Ngoan ngoãn ăn như thế là hành động nghe theo hệ tư tưởng cũ ràng buộc tâm trí hơn là lắng nghe nhu cầu thực sự của bản thân trong hiện tại. Ngay khi đó, cậu đã hoàn toàn đi ngược lại mong muốn của chính mình, tiếp tục ăn dù cậu biết rằng mình đã no. Hệ tư tưởng hình thành trong cậu mạnh mẽ đến mức điều khiển luôn cả mong muốn tự nhiên của cơ thể là ngừng ăn. Ăn no quá mức có thể gây hại đến cơ thể, và đây chính là một trong những hậu quả tiêu cực của việc lợi dụng cảm giác xấu hổ và tội lỗi làm công cụ để chi phối hành vi của con người. Những hậu quả khác có thể xảy ra là cậu phải chịu đựng nỗi đau khổ khi hồi tưởng lại khoảnh khắc xấu hổ và tội lỗi trong quá khứ, và những hành vi của cậu trong hiện tại có thể bị cảm giác đó chi phối.

Hãy lưu ý rằng người bà của cậu thậm chí còn không có mặt ngay trong tình huống hiện tại. Nhưng giờ đây cậu đã chấp nhận sự thuần hóa và chịu khuất phục dù lúc đó không có bất kỳ sự tác động nào từ người khác. Người Toltec gọi đây là sự tự khuất phục. Giống như lời cha tôi từng nói rằng: “Con người là loài động vật duy nhất trên Trái đất có khả năng tự khuất phục chính mình”.

Mối quan hệ giữa cậu bé và người bà đã góp phần xây dựng nên thế giới hiện tại mà mọi người đang sống, và bữa ăn giữa hai bà cháu là một ví dụ đơn giản minh chứng cho cách thức sự thuần hóa và tự khuất phục diễn ra ở con người. Trong quá khứ, người bà đã khuất phục cậu bé bằng hệ tư tưởng cũ nhưng chính cậu đã tiếp tục tự ràng buộc bản thân mình về sau. Quá trình tự khuất phục này là hành động chấp nhận sống theo lý tưởng của người khác mà chưa từng suy xét liệu những lý tưởng đó có thực sự là điều chúng ta mong muốn hay không.

Trong khi việc ăn hết tô súp chỉ tạo ra hậu quả rất nhỏ, thì sự thuần hóa và tự khuất phục lại dẫn đến hậu quả nghiêm trọng và tiêu cực hơn rất nhiều. Chẳng hạn như nhiều người trong chúng ta đã trở thành người hay chê bai chỉ trích ngoại hình của bản thân bởi vì tiêu chuẩn của xã hội nói rằng như thế là “chưa đủ”. Chúng ta tin rằng bản thân chưa đủ cao, chưa đủ gầy, màu da chưa đủ sáng, và khoảnh khắc mà chúng ta tin vào những tư tưởng này là lúc chúng ta đã bắt đầu tự khuất phục và tự ràng buộc bản thân. Khi chúng ta tiếp nhận những niềm tin từ bên ngoài, chúng ta thường hành xử theo hai hướng – hoặc là tìm cách thay đổi ngoại hình hoặc là tự chối bỏ chính mình. Dù là cách hành xử nào thì chúng ta cũng đang tìm kiếm sự chấp nhận từ người khác và từ cả chính bản thân mình. Hãy nghĩ mà xem, nếu tất cả chúng ta đều yêu thương cơ thể tự nhiên của mình thì nhiều ngành công nghiệp có thể sẽ không còn tồn tại.

Ta cần phải xác định rõ ràng sự khác nhau giữa hệ tư tưởng do thế giới bên ngoài định hình và mong muốn thực sự của bản thân, ví dụ như giảm cân để trở nên khỏe mạnh hoặc vì đây là sở thích cá nhân. Điểm mấu chốt ở đây chính là, trong khi mong muốn và sở thích xuất phát từ thái độ chấp nhận và yêu thương bản thân thì hệ tư tưởng nảy sinh từ cảm giác tội lỗi, xấu hổ và cảm thấy bản thân “chưa đủ” tốt đẹp. Đôi khi lằn ranh giữa hai điều này khá mong manh, cho nên người thấu hiểu và làm chủ bản thân là người có thể nhìn sâu vào nội tâm và xác định được động cơ thực sự của mình là gì.

Một hình thái phổ biến khác của hệ tư tưởng trong thế giới hiện nay có liên quan đến tầng lớp xã hội và việc sở hữu của cải vật chất. Trong xã hội hiện nay đang tồn tại một niềm tin rằng những ai sở hữu nhiều thứ hơn hoặc nắm giữ những công việc nhất định thì bằng cách nào đó họ quan trọng hơn so với những người khác. Cá nhân tôi chưa bao giờ gặp bất kỳ ai có tầm quan trọng lớn hơn so với những người khác, bởi vì tất cả chúng ta đều là sự sáng tạo đẹp đẽ và độc đáo của Đấng tạo hóa. Thế mà, nhiều người vẫn theo đuổi con đường sự nghiệp mà họ không hề yêu thích và mua sắm những món đồ mà họ không thực sự muốn hay cần. Tất cả những nỗ lực này của họ chỉ nhằm đạt được những mục tiêu khó nắm bắt là sự chấp thuận của tập thể và sự tự chấp nhận của bản thân. Những trường hợp như thế này (và nhiều trường hợp khác nữa) đã minh họa cho ta thấy con người đã bị hệ tư tưởng cũ trói buộc và sau đó tự trói buộc chính mình như thế nào. Kết quả là, nhiều người đang sống một cuộc đời không thực sự là của chính họ.

Tôi sẽ chia sẻ ví dụ về một người bạn thân của tôi, người bị ràng buộc bởi hệ tư tưởng đề cập ở trên và cách thức mà anh ấy đã thoát khỏi hệ tư tưởng đó. Từ khi còn nhỏ, người thân trong gia đình đã khuyến khích anh trở thành luật sư. Họ lấp đầy tâm trí non trẻ của anh bằng những câu chuyện về quyền lực và tiền bạc, và bảo rằng anh ấy có đủ mọi kỹ năng cần thiết để thành công trong lĩnh vực này. Từ sự động viên của gia đình, anh lựa chọn học dự bị đại học ngành luật và học tiếp lên trường luật ngay sau đó. Nhưng chẳng bao lâu sau khi nhập học, anh nhận ra rằng bản thân anh không có chút thích thú nào với nghề luật sư. Trong nhận thức muộn màng, anh phát hiện ra bản thân đã tiếp nhận tư tưởng từ người khác, rằng trở thành luật sư sẽ khiến anh trở nên giàu có, quyền lực và quan trọng nhất là khiến anh trở nên đặc biệt trong mắt gia đình mình. Nhưng sự thật là anh đang theo đuổi giấc mơ của họ chứ không phải của chính anh. Khi anh thông báo với gia đình rằng anh sẽ bỏ học luật, nhiều thành viên trong gia đình cảm thấy thất vọng và cố gắng thuyết phục anh thay đổi quyết định. Nhưng anh vẫn kiên quyết với quyết định của mình. Câu chuyện này đã diễn ra cách đây vài năm. Còn hiện tại mỗi khi nhớ lại chuyện cũ, anh ấy đều bật cười vì giờ đây anh đang vô cùng hạnh phúc với công việc của mình. Anh đã trở thành một tác giả viết sách và một bậc thầy tâm linh.

Ví dụ trên minh họa cho ta thấy cách chúng ta được gieo vào đầu những tư tưởng khi còn bé và những tư tưởng đó sau này thường không phản ánh đúng con đường chúng ta thật sự yêu thích. Tuy nhiên, giống như anh bạn của tôi, bên trong mỗi người đều ẩn chứa sức mạnh cởi trói ta khỏi hệ tư tưởng cũ. Bước đầu tiên chính là ý thức được ta đang bị ràng buộc bởi tư tưởng nào và tìm ra điều gì thực sự đúng đắn với chính mình.

Cuối cùng, tôi muốn nói rõ rằng, mặc dù tôi đang tập trung đề cập đến những khía cạnh tiêu cực của những hệ tư tưởng ràng buộc con người, nhưng không phải tất cả hệ tư tưởng trên đời này đều mang lại kết quả tiêu cực. Nói cách khác, một ý tưởng nào đó được gieo vào đầu ta không có nghĩa đó là một ý tưởng tồi tệ và ta phải chống lại nó. Nếu ý tưởng đó cũng là điều bạn thực sự muốn thì thật tuyệt vời. Chẳng hạn như nếu anh bạn kia của tôi cảm nhận được niềm vui trong quá trình hành nghề luật sư thì chắc hẳn sẽ chẳng có lý do gì để anh ấy thay đổi nghề nghiệp cả. Một khi ta đưa ra quyết định với một tâm trí sáng suốt và biết rõ một niềm tin hay ý tưởng cụ thể nào đó là hợp lý đối với ta, thì chẳng có gì sai khi tiếp tục giữ lấy niềm tin hay ý tưởng đó. Quan trọng là ta biết đưa ra lựa chọn một cách có ý thức.

Sự bám chấp

Con người thường nảy sinh cảm giác gắn bó đầu tiên với những món đồ xung quanh. Ta có thể nhìn thấy điều này ở trẻ nhỏ, vào khoảng hai tuổi, khi chúng lần đầu tiên kết nối với những đồ vật xung quanh và tuyên bố chúng là “của con”. Bất kỳ ai đã từng cố gắng lấy một món đồ chơi khỏi một đứa bé hai tuổi đều có thể thấy được sức mạnh của sự gắn bó này. Mặc dù sự gắn bó đầu đời của ta bắt đầu phát sinh với đồ vật nhưng nó không chỉ ngừng lại ở đây. Thông thường, sự gắn bó giữa ta với những điều không thể nhìn thấy bằng mắt thường mới có khả năng gây hại nhiều hơn – đó là sự bám chấp với những ý tưởng, quan điểm và niềm tin của mình.

Trong cuốn sách trước đây của tôi mang tên Five Levels of Attachment (tạm dịch: Năm cấp độ của sự bám chấp), tôi có lý giải chi tiết về khái niệm bám chấp là gì và đưa ra thước đo cho các mức độ bám chấp khác nhau đối với niềm tin, quan điểm và ý tưởng của bản thân. Để tìm hiểu ý nghĩa của sự bám chấp và mối liên hệ của nó với khả năng làm chủ bản thân, tôi sẽ ví dụ bằng câu chuyện sau đây. Câu chuyện này sẽ cho ta thấy nếu chúng ta không cẩn thận thì cảm giác gắn bó sẽ nhanh chóng trở thành sự bám chấp không lành mạnh và gây ra đau khổ cho chúng ta.

Hãy thử hình dung rằng ta là một người yêu thích bóng đá nhưng không quá cuồng nhiệt hay ủng hộ cụ thể một đội bóng hay một cầu thủ nào. Ta cũng không quan trọng địa điểm diễn ra trận bóng là ở sân vận động hoành tráng hay tại bãi cỏ đầy cát bụi. Đối với người thích xem bóng đá như ta thì đá ở đâu cũng đều ổn cả. Trình độ của cầu thủ ở mức xuất sắc hay bình thường đều được, vì ta không quan tâm lắm đến chuyện này, miễn là mọi người đều vui vẻ đá bóng. Trong quá trình theo dõi trận đấu, thông thường ta sẽ không chọn ủng hộ một đội nhất định và đối đầu với đội còn lại, mà thậm chí nếu có phải chọn đội đi nữa thì ta cũng chẳng đặt quá nhiều cảm xúc vào đội đó, cảm xúc chỉ ở mức vừa đủ để trận đấu thêm phần thú vị. Do đó, dù đội bóng ta chọn có thắng cuộc thì điều đó chẳng liên quan gì đến ta, vì ta không nhìn nhận một đội bóng nào đó là một phần danh tính của mình. Vào giây phút trọng tài thổi còi ra hiệu kết thúc trận đấu, dù đội bóng yêu thích của ta thắng hay thua, ta đều sẽ bỏ lại trận đấu ở phía sau, bước ra khỏi sân vận động và tiếp tục cuộc sống của mình sau khi đã thưởng thức một trận bóng hay ho.

Trong câu chuyện này, khi ta xem đá bóng, ta chỉ đơn giản là đang tận hưởng khoảng thời gian vui vẻ mà không có bất kỳ sự bám chấp nào với kết quả trận đấu. Ta cảm nhận một niềm vui hoàn toàn trong trẻo, xuất phát từ niềm yêu thích thuần túy đối với bóng đá. Đây chính là trải nghiệm cuộc sống một cách tự do, không điều kiện, không vướng mắc. Ta hoàn toàn làm chủ sự tự do của mình xuyên suốt quá trình theo dõi trận đấu, vì cuộc đời ta không bị ảnh hưởng bởi kết quả cuối cùng của trận đấu ấy.

Vẫn là ví dụ trên nhưng lần này hãy hình dung rằng ta là một người hâm mộ trung thành của một đội bóng cụ thể nào đó. Màu sắc biểu tượng của đội bóng ấy có tác động mạnh mẽ về mặt cảm xúc đối với ta. Khi trọng tài thổi còi báo hiệu kết thúc trận đấu, tâm trạng của ta sẽ bị ảnh hưởng bởi kết quả cuối cùng. Nếu đội bóng thắng cuộc thì ta sẽ vô cùng vui sướng, còn nếu đội bóng thua cuộc thì ta lại cảm thấy thất vọng.

Sự bám chấp với đội bóng mà ta yêu thích bắt đầu có tác động đến đời sống cá nhân của ta cả bên ngoài sân vận động, khi ta vẫn tiếp tục xem bản thân là người hâm mộ của họ ở mọi lúc mọi nơi. Ví dụ như khi đội bóng thua cuộc, có thể ta sẽ trải qua một ngày tồi tệ ở chỗ làm, tranh cãi với đồng nghiệp nhằm xác định xem điều gì hay người nào phải chịu trách nhiệm cho sự thua trận của đội bóng, hoặc cảm thấy rầu rĩ cho dù có rất nhiều điều tốt đẹp đang diễn ra xung quanh. Bất kể tác động đó là gì thì sự bám chấp của ta đối với một kết quả cụ thể đã khiến ta không còn là chính mình. Sự bám chấp của ta đối với môn thể thao này đã xâm lấn vào cuộc sống thường ngày của ta, một cuộc sống mà chẳng có sự liên hệ nào đến môn thể thao này cả.

Nếu ta lờ đi sự bám chấp này, nó sẽ phát triển mạnh mẽ hơn và cắm rễ sâu hơn, cho tới khi chuyện thắng thua của đội bóng mà ta yêu thích lại trở thành chuyện cá nhân, và thành tích của đội bóng lại ảnh hưởng và đại diện cho giá trị con người ta. Khi đọc bảng xếp hạng điểm số trận đấu, ta lại đi khiển trách các cầu thủ vì đã khiến cho hình ảnh của “ta” trở nên tệ đi. Nếu đội đối thủ giành chiến thắng, ta cảm thấy tức giận vì họ đã đánh bại “ta”. Ta không chỉ ám ảnh với trận đấu khi đã về nhà, mà còn biến nó trở thành một phần của con người ta, định hình bản sắc cá nhân của ta bằng những định nghĩa rằng thế nào là một người hâm mộ “đích thực”.

Mặc dù đội bóng ấy không có bất kỳ sự liên hệ nào với ta trong thực tại, nhưng tự ta cho rằng tầm quan trọng của bản thân có mối tương quan với sự thành bại của đội bóng, bởi vì ta đánh đồng chính mình với họ. Ranh giới giữa cuộc đời ta và cảm giác gắn bó của ta với đội bóng ấy quá mờ nhạt, đến mức ta không thể nào tách biệt rõ ràng cả hai được nữa, và ta tin rằng bất kỳ ai không cùng quan điểm về đội bóng của ta thì đều sai hết. Ta thậm chí còn biến lòng trung thành với đội bóng thành một điều kiện để yêu đương với một ai đó.

Nếu độc giả cảm thấy khó liên hệ với ví dụ minh họa trên, chúng ta hãy cùng nhau xem xét hai ví dụ đã diễn ra trong đời thực sau đây. Vào cuối mùa giải bóng đá ở châu Âu, một câu lạc bộ tên tuổi đã bị hạ xuống hạng đấu thấp hơn sau khi thua cuộc trong một trận đấu mang tính quyết định. Sau khi chứng kiến kết quả này, một người hâm mộ của đội bóng đã về nhà và treo cổ tự tử. Đối với anh ta, cuộc sống chẳng còn ý nghĩa gì nữa khi đội tuyển anh ta yêu thích không vào được vòng trong của Giải bóng đá Ngoại hạng Anh. Một ví dụ khác về một tài xế lái xe buýt, cũng là người hâm mộ của đội bóng thua cuộc. Người tài xế ấy vì quá tức giận đã lái xe buýt đâm vào một nhóm người đang mặc áo của đội chiến thắng. Hậu quả là bốn người bị xe đâm chết chỉ vì mặc “sai” màu áo. Sự bám chấp của người tài xế lớn đến mức có thể khiến ông ta gây ra chuyện chết người. Đối với hai nhân vật trong ví dụ vừa rồi thì niềm vui thuần túy của việc xem bóng đá đã biến mất từ lâu.

May mắn thay, những vụ tự tử và giết người vì kết quả thắng thua của một đội bóng là những trường hợp rất hiếm. Nhưng trong các lĩnh vực như tôn giáo, chính trị, tiền bạc, tình dục và quyền lực, thái độ này đã gây ra những hậu quả tiêu cực lớn hơn gấp bội. Khi ta trở nên bám chấp với một đối tượng, ý tưởng hoặc niềm tin, ta đã biến nó trở thành một phần con người ta. Lúc đó sẽ xuất hiện một làn khói bao trùm quanh ta và che mờ nhận thức của ta. Ta không còn nhìn thấy những phẩm cách vốn có ở người bất đồng ý kiến với ta mà sẽ chỉ xem họ như là hiện thân của ý tưởng đối kháng với ta.

Khi tấm gương của ta trở nên sáng rõ, ta có thể nhìn thấy sự thiêng liêng bên trong mỗi người. Ta có thể đi đến bất kỳ nơi đâu như nhà thờ, giáo đường, đền thờ, hay cả trong một sự kiện âm nhạc ngoài trời mà vẫn cảm nhận được phước lành và tình thương yêu từ Thượng Đế. Đối với những người đang lạc lối trong làn khói của mình, Thượng Đế chỉ tình cờ là một nhân vật trung tâm được tôn giáo tôn thờ. Nói cách khác, đối với họ thì những niềm tin và nghi lễ trong tôn giáo còn quan trọng hơn việc thực sự trải nghiệm và chứng thực sự có mặt của Thượng Đế ngay trong khoảnh khắc hiện tại. Đây chính là vấn đề của sự bám chấp không lành mạnh.

Mối quan hệ giữa hệ tư tưởng và sự bám chấp

Ở ví dụ về người hâm mộ bóng đá, ta có thể thấy sự bám chấp nảy sinh từ một tình cảm chân thành, đó là lòng yêu thích đối với môn thể thao này. Vào lúc người hâm mộ đánh đồng giá trị của bản thân với trận bóng và không phân biệt được đâu là con người thật của mình và đâu là mối liên hệ giữa mình với đội bóng, anh ta đã để cho sự yêu thích cá nhân lôi kéo anh ta vào làn khói mờ mịt.

Ở ví dụ về cậu bé và người bà, cậu bé đã tiếp nhận tư tưởng phải ăn hết thức ăn cho dù tư tưởng đó không hợp lý và đúng đắn với cậu. Vì vậy khi trưởng thành, cậu luôn giữ lấy suy nghĩ rằng cậu cần phải cố ăn hết thức ăn cho dù cơ thể đang báo hiệu điều ngược lại. Kết quả là cậu trở nên quá bám chấp với tư tưởng đó. Có một sự khác biệt ta cần hiểu ở đây, đó là không phải lúc nào sự bám chấp cũng bắt nguồn từ các hệ tư tưởng, nhưng một hệ tư tưởng không được phát hiện sẽ luôn luôn phát triển trở thành một bám chấp. Sự phát triển này diễn ra theo tiến trình sau đây:

1. Áp đặt: Ta bị người khác áp đặt tư tưởng của họ lên ta thông qua quá trình tương tác với họ. (Người bà áp đặt tư tưởng lên cháu trai rằng để thừa thức ăn là một tội lỗi).

2. Tự khuất phục: Khi một tư tưởng nào đó được gieo vào tâm trí ta và ta chấp nhận nó, nó sẽ trở thành một niềm tin trong ta. Về sau, ta không cần người khác áp đặt tư tưởng lên ta nữa mà ta sẽ tự làm điều đó với chính mình. Đây được gọi là sự tự khuất phục. (Cậu bé khi đã trưởng thành, theo thói quen, vẫn cố ăn hết thức ăn trên đĩa dù đã cảm thấy no).

3. Bám chấp: Ở giai đoạn này, ta đã trở nên bám chấp với niềm tin được hình thành trong ta. Tùy thuộc vào mức độ bám chấp khác nhau mà mức độ chấp nhận bản thân và chấp nhận người khác của ta cũng khác nhau. (Cậu bé cảm thấy tội lỗi khi để thừa thức ăn có thể sẽ chỉ trích bạn bè khi họ không ăn hết thức ăn của họ, và cậu cũng áp đặt tư tưởng này lên con cái của mình).

Chúng ta có thể thấy rằng các bám chấp của con người thường phát sinh từ các hệ tư tưởng đã được gieo vào tâm trí họ từ trước. Điều trớ trêu là có những tư tưởng vốn dĩ ta không đồng ý ngay từ đầu, nhưng sau một thời gian dài bị áp đặt thì ta lại chấp nhận và bám chấp vào tư tưởng đó. Do đó, nếu không ý thức được điều này thì ta sẽ nghe theo những tư tưởng của người khác dù chúng không hề đúng đắn và hợp lý với ta (và ta thậm chí còn áp đặt những tư tưởng đó lên người khác!).

Mối liên hệ mật thiết giữa các bám chấp và hệ tư tưởng khiến ta trở nên mất kết nối với bản chất thật của mình, chúng dẫn ta đi lạc vào làn khói mờ mịt và rơi vào cạm bẫy của những rắc rối trong cuộc đời. Áp đặt - tự khuất phục - bám chấp, chu kỳ này có thể tiếp tục diễn ra trong nhiều thế hệ cho đến khi ta có thể chuyển hóa bản thân trở thành người biết thấu hiểu và làm chủ chính mình, để phá vỡ vòng lặp của chu kỳ ấy. Những bài tập thực hành sau đây có thể giúp ta xác định các bám chấp và hệ tư tưởng đang trói buộc ta. Một khi phát hiện ra chúng, ta có thể xem xét liệu bản thân đã sẵn sàng để buông bỏ chúng hay chưa.

Nhận ra các tư tưởng ràng buộc bản thân

Hãy dành một chút thời gian để nhìn lại cuộc đời mình. Những tư tưởng nào được gieo vào đầu ta lúc nhỏ mà sau này lớn lên ta không còn thấy đúng nữa? Đó có thể là những tư tưởng về giáo dục và sự nghiệp, tiền bạc và của cải vật chất, chính trị, tôn giáo hay bất kỳ lĩnh vực nào khác. Hãy nhớ rằng, điều quan trọng ở đây là không phán xét hay oán trách những người đã áp đặt các tư tưởng đó lên ta. Thay vào đó, ta chỉ cần phát hiện ra các tư tưởng ấy và tìm cách giải phóng bản thân khỏi chúng mà thôi. Thực hiện được hai điều này chính là minh chứng cho thấy bản thân ta đã có đủ sức mạnh nội tâm để giải phóng chính mình, từ đó trở nên tự do.

Xác định các bám chấp của bản thân

Bởi vì đối tượng đầu tiên mà chúng ta nảy sinh cảm giác bám chấp là những món đồ mà ta sở hữu, cho nên phần đầu tiên của bài tập thực hành được thiết kế để giúp ta xác định những đồ vật mà ta đã đồng hóa giá trị của chúng với giá trị bản thân ta.

Đầu tiên, hãy nghĩ về một đồ vật mà ta sở hữu và vô cùng yêu quý, một thứ mà ta không muốn đánh mất. Nó có thể là chiếc xe, ngôi nhà, tiền bạc, thiết bị công nghệ, đồ trang sức, vật kỷ niệm, hay thậm chí có thể là một đồ vật có tính tâm linh. Trọng điểm ở đây là phải chọn một món đồ mà ta có cảm xúc mạnh mẽ với nó, và có sự gắn bó với nó về mặt giá trị cá nhân.

Tiếp theo, lấy một tờ giấy trắng, viết tên món đồ ấy và sau đó trả lời lần lượt các câu hỏi sau đây:

• Vì sao ta có cảm xúc mạnh mẽ với món đồ này?

• Nó mang lại cho ta cảm giác an toàn ra sao?

• Ta có mối liên hệ như thế nào với nó về mặt giá trị hoặc bản sắc cá nhân?

• Nó thúc đẩy sự phát triển của cái tôi ra sao?

• Ta có thoải mái cho người khác nhìn thấy món đồ này hay không? Hay ta muốn giữ món đồ ấy cho riêng mình và cảm thấy thật đặc biệt khi sở hữu món đồ như thế?

• Việc sở hữu nó có khiến ta cảm thấy bản thân trở nên thu hút hơn, giàu có hơn, vững vàng hơn, thông minh hơn, hay phát triển hơn về mặt tâm linh so với người khác?

Hãy ghi nhận cảm xúc của bản thân một cách trung thực. Không có câu trả lời đúng hoặc sai, mà quan trọng là ta có thể khám phá sợi dây gắn kết sâu hơn giữa ta với món đồ mà ta sở hữu.

Bây giờ, hãy vò mảnh giấy lại và vứt nó đi. Sau đó, nhắm mắt lại và tưởng tượng rằng món đồ ấy đã biến mất khỏi cuộc đời ta. Ta cảm thấy như thế nào? Cuộc sống của ta sẽ trở nên như thế nào nếu không có nó? Ta sẽ là ai khi không sở hữu món đồ này?

Sau khi hình dung món đồ mà ta yêu thích bị mất đi, hãy hỏi bản thân những câu hỏi sau đây:

• Sự bám chấp của ta với món đồ ấy có ảnh hưởng đến các mối quan hệ xung quanh ta hay không?

• Sự bám chấp đó có khiến ta ở yên trong vùng an toàn của mình mà không chịu theo đuổi những điều ta thực sự muốn?

• Có bao giờ vì món đồ ấy mà ta thay đổi hành động của mình?

• Sự bám chấp đó có ảnh hưởng như thế nào đến tự do cá nhân của ta?

• Cuối cùng thì ta có muốn giữ nguyên mức độ bám chấp này hay không? Hay ta muốn giảm bớt mức độ bám chấp? Hay ta thậm chí muốn buông bỏ hoàn toàn sự bám chấp? Sự lựa chọn luôn nằm trong tay ta.

Khi xem lại các câu trả lời của mình, hãy quan sát mức độ sợ hãi của bản thân khi nghĩ đến viễn cảnh món đồ bị mất đi. Nỗi sợ hãi của ta càng sâu sắc thì ta sẽ càng cảm thấy đau khổ khi món đồ bị mất. Trong thế giới ta đang sống, có một điều vô cùng chắc chắn là theo thời gian, món đồ ấy cuối cùng sẽ bị hư hao và mất đi. Trên đời này chẳng có gì tồn tại mãi mãi.

Phần còn lại của bài tập thực hành là ta hãy lặp lại các bước trên nhưng lần này hãy chọn một người, một vai trò trong cuộc sống, một hình ảnh cá nhân (vẻ bề ngoài), một niềm tin hay một ý tưởng nào đó. Đó có thể là một vai trò nhất định trong gia đình (cha mẹ, con cái), hoặc một vị trí trong công việc giúp ta nâng cao giá trị bản thân. Ta có bám chấp với vai trò cụ thể mà ta đang có hay không? Ta sẽ cảm thấy như thế nào nếu vai trò đó đột ngột bị thay đổi? Ta có ám ảnh với vẻ bề ngoài của mình? Sẽ ra sao nếu ngoại hình của ta thay đổi chỉ sau một đêm? Cũng giống như đồ vật, niềm tin, vai trò xã hội hay ngay cả những người có mặt trong đời ta đều sẽ thay đổi hoặc rời xa ta vào một lúc nào đó. Ta sẽ là ai nếu những điều đó không còn tồn tại? Ta sẽ là ai nếu họ không còn ở cạnh bên?

Hầu hết mọi người sẽ có mức độ bám chấp với mỗi món đồ, niềm tin và vai trò trong cuộc sống khác nhau, và các mức độ bám chấp cũng có thể thay đổi. Chỉ cần nhận thức được về các bám chấp của mình là ta đã có một bước tiến lớn trong việc giải phóng bản thân khỏi sự ràng buộc của chúng. Vào khoảnh khắc ta nhận thức được sự bám chấp thì sợi dây đang ràng buộc ta bắt đầu dần nới lỏng.

Việc xác định các đối tượng bám chấp và hình dung về sự biến mất của chúng là cơ hội cho ta nhìn thấy bản thể chân thật của chính mình, rằng ta hoàn toàn tự do, không bị ràng buộc. Vì xét đến cùng thì bản thể chân thật của ta – năng lượng thiêng liêng ấy – lớn hơn rất nhiều so với bất kỳ đồ vật, vai trò hay niềm tin nào trên đời.

Nếu không ý thức được những điều trên thì các bám chấp và hệ tư tưởng sẽ che mờ nhận thức của ta. Việc phát hiện ra sự tồn tại của chúng sẽ xua tan làn khói để ta có thể nhìn rõ sự thật ngay trong khoảnh khắc hiện tại. Ở chương tiếp theo, chúng ta sẽ tìm hiểu một dạng năng lượng đã tạo ra sức mạnh cho các bám chấp và hệ tư tưởng ràng buộc ta, đồng thời xác định những dạng năng lượng mà một người biết thấu hiểu và làm chủ bản thân có thể sử dụng để hoàn toàn xóa bỏ các bám chấp và hệ tư tưởng ra khỏi cuộc đời mình.