Lời nói ca ngợi người khác là những lời tỏa hương thơm. Lời nói tỏa hương chính là những lời tốt lành, lời từ bi, dịu dàng và hòa nhã. Ngược lại, những lời nói độc ác, thô tục khó nghe, dối trá vô nghĩa, hoặc gây tổn thương cho người khác, sẽ khiến người ta khó chịu vô cùng.
Thường thì các đài phát thanh khi tuyển chọn phát thanh viên, yếu tố đầu tiên sẽ chọn người có âm sắc, chất giọng, âm thanh phải hay. Cho nên, những người làm phát thanh viên đều được đào tạo kỹ năng nói hết sức bài bản.
Thực ra, giọng nói không cần phải hay, điều quan trọng nhất là sự chân thành phát ra từ nội tâm, nói lời thật lòng xuất phát từ trái tim chân thành, không nói lời dối trá. Những lời đem lại lợi ích cho người khác tuy là đơn giản, nhưng lại tạo nên tiếng vang vô cùng mạnh mẽ. Có người mặc dù lớn tiếng la hét nhưng lại không được ai đoái hoài đến, bởi vì lời nói của anh ta thực sự vô ích và cũng không đem lại niềm vui cho bất cứ một ai, nên lời nói của anh ta không có hương thơm.
Trong kinh có chép rằng:
Trên mặt không sân là cúng dường,
Miệng không tức giận lời tỏa hương.
Tâm không sân hận là châu báu,
Không lời dối trá ấy chân thường.
Cũng giống như “Sa di miệng thơm”1, bởi vì vị ấy trong nhiều đời không thốt một lời dối trá, cho nên mỗi khi nói chuyện trong miệng đều tỏa ra hương thơm.
1 Trong nhà Thiền có lưu truyền câu chuyện một vị Sa di vì suốt 30 năm không nói dối nên được phúc báu miệng thơm như hương hoa. Không rõ cụ thể câu chuyện, không tìm thấy trong Đại tạng. Chuyện chỉ được nhắc đến trong các bài pháp thoại của Đại sư Tinh Vân.
Lục Tổ đàn kinh đã giải thích về “Tự tính Ngũ phần Pháp thân hương” rằng: “Trong tự tính của mỗi chúng ta đều có hương thơm Phật tính”. Ví như hoa sen không bị nhiễm bùn hôi tanh nên tỏa hương thơm ngát, mai càng chịu rét bao nhiêu thì hương càng lan xa chào đón người. Vì vậy, mai, lan, trúc, cúc đều là quân tử trong các loài hoa, cũng giống như “hương của năm phần Pháp thân”. Hương của Ngũ phần Pháp thân gồm có:
Thứ nhất, Giới hương tức là người đệ tử Phật cần phải loại bỏ triệt để các ác tâm, không ghen ghét đố kỵ, không tham lam, không nóng giận, không cướp bóc làm hại người khác.
Thứ hai, Định hương có nghĩa là quán chiếu rõ ràng các cảnh giới thiện ác khác nhau.
Thứ ba, Tuệ hương chính là tu tập không có chướng ngại trong tâm mình, quán sát bản chất của tâm bằng trí tuệ, không làm các việc ác. Ngay cả khi làm việc thiện cũng không chấp vào đó, kính trên nhường dưới, bảo vệ chăm sóc những người cô độc, nghèo khổ.
Thứ tư, Giải thoát hương chính là tâm mình không bị duyên bên ngoài chi phối, không nghĩ thiện, không nghĩ ác, sự giác ngộ tự tại không bị chướng ngại. Đó được gọi là hương Giải thoát.
Thứ năm, Giải thoát tri kiến hương là tự tâm không bị duyên thiện ác chi phối, cũng không bị vướng mắc vào chấp Không. Tức là phải học rộng nghe nhiều, biết rõ bản tâm của chính mình, thông hiểu đạo lý của chư Phật, tự tại vô ngại đối với mọi vật, không người không ta, từ tâm sơ khởi ban đầu đi thẳng đến tâm Bồ đề viên mãn, Chân như thật tính không mảy may thay đổi.
Nếu con người có đủ hương của năm phần Pháp thân, thì tự thân họ tỏa hương và lan rộng đến những người xung quanh. Vậy họ còn lo gì không được chào đón ở khắp muôn nơi.