W
illy cao hơn hai mét và nặng gần 150 ký - một thân hình quá to lớn so với lứa tuổi mười sáu của cậu. Đó chính là lý do vì sao bọn trẻ trong khu phố lao động của chúng tôi rất e sợ cậu. Bọn chúng thường túm tụm lại và kể cho nhau nghe rằng đã có lần, Willy kẹp cổ một người suýt chết ngạt chỉ với đôi tay trần của mình. “Tiếng tăm lẫy lừng” đó khiến hết thảy phải kiêng nể cậu, nhất là ở cái khu phố đầy bạo lực này - nơi mà cả người lớn lẫn lũ trẻ con đều giải quyết mọi việc bằng bạo lực là chính.
Willy và tôi chơi với nhau từ thuở cả hai còn bé xíu. Ngày đó, Willy đã cao to như một thiếu niên, còn tôi thì vừa béo vừa lùn, với mái tóc cháy nắng đỏ hoe. Lớn lên, chúng tôi cùng làm việc ở một nhà máy nhỏ trong thị trấn. Công việc của tôi là ở văn phòng, còn Willy thì phải ra tận bến tàu. Ngay cả những người làm việc lâu năm nhất ở đó cũng có vẻ e sợ Willy, vì một lẽ đơn giản là cậu ấy rất khỏe và lại lầm lì, ít nói.
Sau giờ làm việc, Willy luôn đưa tôi về nhà an toàn và tôi thì rất kín miệng về “bí mật” của cậu ấy. Chỉ có một mình tôi mới biết rằng vào mỗi tối, thay vì lượn lờ trên các con phố và gây sự với khách bộ hành như mọi người vẫn đồn đại, Willy lại trở về nhà, nhẹ nhàng nhấc bà ngoại của mình ra khỏi chiếc xe lăn, giúp bà tắm rửa. Sau bữa ăn tối và xem ti vi cùng nhau, cậu lại đặt bà lên giường và bắt đầu đọc truyện cho bà nghe đến khi bà chìm vào giấc ngủ. Mỗi sáng, Willy đều chải tóc cho bà, giúp bà mặc những bộ quần áo mà cậu đã mua bằng tiền công dành dụm của mình, rồi lo cho bà bữa sáng chu đáo. Xong đâu đấy, cậu lại bế bà đặt vào chiếc xe lăn rồi mới chịu đi làm.
Cha mẹ Willy đều đã mất, vì thế, bà ngoại chính là người thân duy nhất còn lại của cậu. Willy chăm sóc bà rất chu đáo, và bà chính là lý do để cậu luôn cố gắng sống thật tốt. Rõ ràng là những lời đồn đại về Willy chẳng có chút gì là sự thật, nhưng cậu ấy cũng chẳng bao giờ để ý hay có thái độ phản bác gì. Willy cứ để mặc cho người khác tin vào những gì mà họ nghĩ về cậu và cũng chẳng lấy làm buồn lòng khi mọi người cứ né tránh cậu, cứ như cậu là hung thần trên đường phố vậy.
Một ngày nọ, tôi có việc phải nấn ná lại văn phòng nên Willy đi về trước. Xong việc, tôi đi bộ về nhà như thường lệ thì thấy ngay gần nhà máy đóng hộp là năm, sáu chiếc xe cứu hỏa đang nối đuôi nhau thành hàng dài trên đường. Một màn khói dày đặc phủ kín cả một góc trời phía trên dãy nhà. Len qua đám đông, tôi nhìn thấy một người phụ nữ nước mắt lưng tròng đang ôm trong tay đứa bé được quấn trong chiếc sơ mi cũ vải ca rô sọc đỏ đen mà tôi trông rất quen. Người phụ nữ đang nói chuyện với vài người lính cứu hỏa và một phóng viên của tờ tin buổi chiều.
“... Lửa cháy, khói bốc lên nghi ngút, chàng thanh niên to cao ấy nghe thấy tiếng con tôi khóc và đã nhảy ngay vào lửa để cứu nó”, cô ta kể trong nước mắt, nét mặt vẫn chưa hết kinh hoàng, hai tay ôm chặt lấy đứa bé như sợ sẽ mất nó lần nữa. “...Cậu ấy quấn thằng bé bằng cái áo sơ mi này trước khi trao nó lại cho tôi. Tôi còn chưa kịp nói lời biết ơn thì cậu ấy đã mất hút vào đám đông, ngay khi xe cứu hỏa vừa đến.”
Tối hôm ấy, đài truyền hình địa phương đã đưa tin về vụ hỏa hoạn xảy ra ở khu phố nọ cùng với lời tuyên dương người anh hùng vô danh đã dũng cảm xông vào ngọn lửa cứu người già và trẻ em. Bản tin cũng cho biết chính quyền thành phố sẽ trao tặng huy chương và phần thưởng cho ai chứng minh được mình là người anh hùng vô danh đó. Nhưng cho đến hôm nay, nhân vật anh hùng đó vẫn là một ẩn số.