“Sự vĩ đại không đến từ của cải, quyền lực, địa vị hay danh tiếng, mà bắt nguồn từ lòng nhân từ, sự khiêm tốn, sự cống hiến và nhân cách.”
- William Arthur Ward
Buổi sáng ngày 15 tháng Ba, thời tiết dễ chịu và ấm áp. Lúc này, William Miner - một nông dân sống gần Thành phố Center, bang North Dakota - vừa hoàn thành công việc của mình. Tuyết đã bắt đầu tan, tạo ra những mảng loang lổ trên cánh đồng.
Đến trưa, vừa về đến nhà anh đã lạc quan nói với vợ, Blanche Miner, “Đêm nay tuyết sẽ tan hết”. Thế nhưng khi vợ chồng anh vừa thong thả dùng xong bữa trưa, William chợt nhìn qua cửa sổ bếp và thốt lên, “Trời ơi!”.
Từ phía Tây Bắc, một đám mây đen khổng lồ từ đâu kéo tới, che khuất đường chân trời. Đám mây di chuyển từ từ mà đều đặn, rõ ràng là không gì có thể cản trở được nó.
Với trực giác của một người nông dân dày dặn kinh nghiệm, Blanche Miner nhận định, “Một trận bão tuyết đầu xuân đây mà”.
Hai vợ chồng đưa mắt dõi theo con quái vật vô trạng vô diện càng lúc càng tiến gần hơn. Đột nhiên William quay sang nói với vợ, “Em mang đồ đạc vào nhà đi. Anh đến trường đón bọn trẻ. Nhìn đám mây này anh không yên tâm chút nào”.
William khoác vội bộ đồ đi bão, thắng yên cho Kit - chú ngựa tốt nhất của anh - rồi bắt đầu hành trình băng qua con đường lầy lội dài bốn cây số để đón con. Bầu trời xám xịt, mây đen vần vũ. Bốn bề tĩnh lặng, mọi thứ như nín thở chờ đợi điều khủng khiếp sắp xảy ra. Rồi một trận gió tuyết mù mịt ập tới, dồn dập bạt vào cả ngựa lẫn người đang di chuyển trên đường. Sau một hồi vật lộn, William cũng đến được trường. Anh dắt con Kit đến chuồng ngựa, buộc nó ở đó cùng những chú ngựa đang hoảng hốt và sợ hãi khác rồi vội vã vào trường tìm con.
Lúc này, cả giáo viên lẫn học sinh đều biết rằng cơn bão tuyết đang đến rất gần nhưng mọi người vẫn vờ như đang tập trung vào bài vở. Dù hôm đó có nhiều em tự đi học bằng ngựa và xe trượt tuyết của mình, nhưng theo nguyên tắc khi có bão tuyết thì học sinh chỉ được ra về khi phụ huynh đến đón.
“Cha ơi!”, cô bé Hazel Miner mười lăm tuổi lên tiếng gọi lớn. Sau đó cô bé quay sang em trai Emmet mười một tuổi và em gái Myrdith tám tuổi rồi nói, “Hình như có người không tin rằng chị em mình có thể tự cưỡi con Maude già về nhà!”.
William mỉm cười, “Nhanh nào mấy đứa! Mặc áo khoác vào. Cha có đem thêm khăn choàng cổ nữa này”.
Hazel cúi xuống giúp Myrdith thắt chặt dây giày đi tuyết của con bé trong khi dặn dò Emmet, “Đừng quên quyển sách lịch sử của em nhé”.
“Hazel lúc nào cũng là người chị đáng tin cậy. Con bé luôn vượt xa mong đợi của mình”, William nghĩ thầm.
William ẵm Myrdith trên tay và dẫn bọn trẻ ra ngoài. Anh tiến đến chiếc xe trượt tuyết tự chế của gia đình có mái che bằng vải bạt, đặt hai đứa nhỏ ngồi trên lớp rơm lót phía bên dưới rồi cẩn thận đắp lên người chúng hai cái chăn và một chiếc áo khoác lông đã cũ. Ngay lập tức, Hazel lẹ làng ngồi vào chỗ của người lái trong khi William cố định xe trượt vào phía sau con Maude già. Giữa tiếng gió rít ầm ầm, anh nói thật to để Hazel có thể nghe thấy, “Ở yên đó nhé! Cha sẽ đi lấy con Kit và dẫn đường”.
Khi ấy, con Maude đang quay mặt về cổng phía Bắc, cũng là hướng về nhà. Trước giờ nó luôn lành tính và dễ điều khiển. Nhưng rồi một tiếng sấm bất thình lình vang lên, nó trở nên hoảng loạn và quay đầu phóng vụt qua cánh cổng phía Nam. Hazel bị mất thăng bằng và hầu như không nhìn thấy gì trong màn tuyết trắng đang vần vũ nên cô bé cũng không nhận ra rằng Maude đã đi sai hướng. Trong khi con Maude vẫn tiếp tục phóng đi, Hazel cố nói thật lớn về phía sau để trấn an hai đứa em đang trố mắt kinh hãi, “Hai đứa đừng lo, chị em mình sẽ về nhà trước cha và Kit cho mà xem. Maude biết đường mà”.
Vì dây cương đã tuột khỏi tay và khuất dưới mấy cái khóa yên nên Hazel không thể làm gì để điều khiển con ngựa. Cuối cùng, Maude cũng dần chậm lại, sau đó dừng hẳn rồi đứng thở phì phò.
Emmet hỏi lớn, “Mình về tới nhà chưa chị? Mình có thắng được cha không?”.
Hazel bước xuống xe và đứng giữa trời tuyết trắng xóa, không biết nơi mình đang đứng là đường đi hay giữa cánh đồng. Đất trời đã hóa thành đại dương mênh mông tuyết trắng với những cơn gió lạnh cắt da cắt thịt, đe dọa nuốt chửng cả ba chị em. Gắng sức thở trong điều kiện khắc nghiệt, Hazel trở lại chỗ ghế lái và cầm chắc dây cương, “Chưa về tới nhà đâu em, nhưng chị nghĩ cũng gần đến nơi rồi. Bây giờ con Maude đã bình tĩnh lại, nó sẽ tìm được đường về thôi”.
Con Maude lúc này có vẻ ăn năn về vụ phóng ẩu của mình nên cố sức lội qua lớp tuyết càng lúc càng dày. Nhưng rồi nó sa vào một vũng nước do tuyết tan. Băng vừa tan và tuyết vừa rơi bắt đầu tràn vào họng nó. Một cái khóa yên bị tuột nên Hazel phải bước xuống vũng lầy lạnh buốt, nhúng hai tay trần xuống nước để mò mẫm tìm cái khóa và buộc chặt lại. Đến khi dẫn được Maude ra khỏi vũng nước thì người Hazel đã ướt sũng từ chân đến thắt lưng, còn quần áo cô bé đang mặc cũng biến thành bộ áo giáp nặng trịch.
Bỗng cô bé nhìn thấy đỉnh cột hàng rào nhô lên trên nền tuyết trắng gần đó. Hazel ra sức đào sâu xuống lớp tuyết đến khi thấy được dây thép gai. Hàng rào dây thép này thể nào cũng dẫn mấy chị em đến trang trại nào đó, khi ấy cả ba sẽ được an toàn.
Sau một khoảng thời gian chờ đợi, Emmet bước ra khỏi xe để xem chị mình đang làm gì. Hai chị em cùng nhau gỡ lớp băng vừa mới đóng trên mặt con Maude. Hai chị em cùng nắm lấy dây cương để dắt con Maude đi theo hàng rào, nhưng một ụ tuyết khổng lồ đã chặn kín đường đi khiến các em phải đi vòng và bị mất phương hướng. Với hy vọng tìm được sợi dây thép hoặc cột hàng rào khác để xác định lại hướng đi, Emmet và Hazel điên cuồng cào tuyết nhưng cuối cùng đành bất lực. (Dưới ụ tuyết khổng lồ kia chính là cánh cổng dẫn tới một trang trại cách đó sáu chục mét.)
Tuyết rơi dày và gió thổi mạnh khiến hai đứa trẻ gần như ngạt thở. Thế là cả hai cùng leo trở lên xe trượt tuyết. Con Maude vẫn gắng sức bước đi cho đến khi xe trượt tuyết va phải một chướng ngại vật bị vùi dưới tuyết. Cú va chạm làm xe trượt lật nghiêng về một bên, mấy đứa trẻ ngã quật vào tấm bạt phủ trên mui xe.
Hazel và Emmet lại bước ra ngoài. Giữa trời mù mịt, hai chị em ra sức đẩy, nâng, rồi kéo. Nhưng xe trượt giờ đây đã kẹt cứng trong tuyết và quá nặng đối với sức của hai đứa trẻ.
Trong tiếng gió rít giữa màn đêm đen kịt, Hazel biết mình phải động não để tìm cách giải quyết tình huống này, vì đó chính là trách nhiệm của người chị cả trong nhà. Cô bé dò dẫm chui vào trong tấm bạt và nói, “Nhìn nè, chị em mình đang ở trong một cái hang nhỏ. Chị nghĩ mình có thể biến nó thành một nơi ấm áp và dễ chịu”.
Do xe trượt bị lật nghiêng, sàn gỗ hẹp của xe trở thành một cái vách nhỏ hướng về phía Đông. Mái vòm bằng vải bạt không có rèm phủ ở hai đầu biến thành chiếc lều nhỏ dạng ống. Trong bóng tối, Hazel tìm thấy chăn và áo khoác. Mặc cho đôi tay đang tê cóng, cô bé vẫn cố trải hai cái chăn lên “nền nhà” bằng bạt. Emmet và Myrdith nghe theo lời chị, nằm xuống và ôm chặt lấy nhau. Gió rít liên hồi qua cửa lều phía Bắc. Hazel cố ứng biến bằng cách dùng áo khoác lông làm tấm màn che nhưng chiếc áo cứ bị gió thổi rơi xuống hết lần này đến lần khác. Rốt cuộc, cô bé quyết định cuộn chặt chiếc áo khoác quanh người hai đứa em.
Gió thốc từng hồi, càng lúc càng mạnh và xé toạc mái bạt. Hazel chộp lấy những mảnh vải rách đang bay phấp phới và đắp bồi lên chiếc áo khoác lông. Cách duy nhất để giữ cho mớ vải đó không bị gió bão cuốn đi là Hazel phải nằm đè lên trên cùng. Giờ đây, chẳng còn gì che chở ba đứa trẻ khỏi trận bão tuyết ngoại trừ vài dải bạt phất phơ trên khung gỗ trần trụi.
Tuyết vẫn không ngừng rơi. Ba sinh linh bé nhỏ nằm bất động, tâm trí và cơ thể của các em tê dại trước những thế lực thiên nhiên đang vần vũ kinh hoàng ngoài kia. Hazel giữ mình tỉnh táo và hét lớn, “Emmet! Myrdith! Các em không được nhắm mắt đâu đấy. Phải giữ cho nhau tỉnh táo. Chị sẽ đếm đến một trăm. Co duỗi chân như lúc các em chạy bộ nào. Bắt đầu nhé, một, hai, ba...”. Hazel có thể cảm nhận những đôi tay đôi chân nhỏ xíu của hai đứa em đang cử động bên dưới mình. Rồi chính em cũng gắng sức cử động, bắt não bộ phải ra lệnh cho hai chân, dù Hazel cũng không chắc rằng chúng có thật sự đang nhúc nhích hay không.
“Em mệt quá. Mình dừng lại được không chị?”, Myrdith thì thào.
“Không được!”, Hazel trả lời dứt khoát. “Mới được bảy mươi mốt cái thôi.”
Sau đó Hazel yêu cầu, “Hai đứa cứ đeo găng tay và duỗi gập các ngón tay một trăm lần nhé”.
Emmet thò đầu ra từ bên dưới chiếc áo khoác và đề nghị, “Hazel ơi, chị xuống dưới này với tụi em đi. Tụi em sẽ nằm gọn lại để có chỗ cho chị”.
Hazel trả lời dứt khoát, “Chị không thể”. Mớ quần áo phủ băng trên người cô bé vẫn có thể đem lại hơi ấm cho các em dù không thấm vào đâu trong tình cảnh này. “Mọi thứ sẽ bị thổi bay mất, chị phải nằm thế này để giữ lại. Mà chị cũng không lạnh lắm đâu. Bây giờ, mình hát bài ‘Nước Mỹ tươi đẹp’ như trong bài tập thể dục sáng nay nhé.”
Từ bên dưới chiếc áo khoác vọng lên giọng hát mỏng manh của trẻ thơ. Những ca từ mà bọn trẻ vừa học được trong sáng hôm đó đã ra đời cách đây cả trăm năm. “Ôi đẹp sao đồi núi thơ mộng ngự trị trên miền đồng bằng trĩu quả.” Mấy đứa trẻ hát đủ cả bốn lời của bài hát.
“Hãy cầu xin Thượng Đế cứu giúp chúng ta. Giờ đây con ngả mình xuống và đi vào giấc ngủ1 …”, Myrdith đề nghị rồi bắt đầu cầu nguyện.
1 Lời nguyện phổ biến dành cho trẻ em trước khi đi ngủ từ thế kỷ 18.
Hazel ngắt lời, “Không, không phải bài nguyện đó. Thay vào đó, mình hãy đọc ‘Kinh Lạy Cha’2 đi”. Thế là ba đứa trẻ cùng nhau nghiêm trang đọc “Kinh Lạy Cha”.
2 Bài kinh phổ biến nhất trong Thiên Chúa giáo.
Trong đêm dài vô tận, Hazel đã yêu cầu các em tập thể dục, kể chuyện, ca hát và cầu nguyện. Nhiều lần cô bé ngồi dậy giữa mênh mông giá lạnh, dùng những ngón tay gần như tê cứng của mình để đục vỡ lớp băng đóng quanh chân Myrdith và Emmet. Chính bàn tay của cô bé đã xua đi mối nguy hiểm đang rình rập các em.
Người chị cả liên tục nhắc nhở hai đứa em nhỏ của mình, “Hai đứa nhớ là không được ngủ đấy. Dù chị có lỡ ngủ quên thì các em vẫn phải cố thức nhé. Hứa với chị là các em sẽ không ngủ, dù có buồn ngủ đến thế nào. Chúng ta phải giữ nhau tỉnh táo. Hứa nhé?”.
Hai đứa nhỏ ngoan ngoãn hứa với Hazel.
Chốc chốc, Myrdith lại hỏi, “Sao cha không đi tìm chị em mình vậy chị?”.
Về phần William, khi phát hiện bọn trẻ không còn ở sân trường, anh đã thúc Kit phóng thật nhanh qua những đụn tuyết để về nhà với hy vọng con Maude đã về nhà trước. Đến nơi, anh thấy vợ đang đứng ngóng ngoài cửa. Hai vợ chồng nhìn nhau, sợ hãi và hoảng loạn.
Ngay lập tức, William thông báo tình hình cho người dân quanh vùng. Gần bốn mươi người đàn ông không quản nguy hiểm nhanh chóng lên đường. Họ kiên trì tìm kiếm khắp các cánh đồng cũng như những con đường giữa trang trại nhà Miner và trường học. Họ tạm dừng ở các trang trại để đổi nhóm, cấp cứu những người bị bỏng lạnh3, tranh thủ nhấp ngụm cà phê nóng và bàn bạc kế hoạch mới. Thế nhưng sau bao nỗ lực, nhóm tìm kiếm vẫn không phát hiện manh mối gì của ba chị em Hazel. Lúc này, trẻ con của tất cả các gia đình khác đều đã an toàn ở nhà mình.
3 Tình trạng mô sống ở người bị đông cứng và tổn thương do tiếp xúc với nhiệt độ quá thấp. Trường hợp nghiêm trọng buộc phải cắt bỏ phần mô tổn thương.
Gió rít dữ dội với tốc độ xấp xỉ một trăm ki-lô-mét trên giờ, nhiệt độ ngoài trời chạm mốc không độ và không gian xám xịt trước đó hiện đã chuyển sang một màu đen sẫm. Tuyết vẫn không ngừng rơi. Những người tìm kiếm đành bỏ cuộc và chờ đến khi trời sáng.
Sáng sớm hôm sau, một nhóm tìm kiếm báo rằng họ tìm thấy dấu vết của chiếc xe trượt tuyết nhỏ cùng một con ngựa đi ra khỏi cổng phía nam của trường - dấu vết này trước đó bị che phủ dưới lớp tuyết dày. Việc tìm kiếm nhanh chóng được khởi động lại. Những người đàn ông chia thành các đội xe trượt, đội cưỡi ngựa và đội đi bộ, tất cả cùng rà soát trong bán kính một cây số. Họ đi khắp nơi, tìm kiếm kỹ lưỡng trong khu vực bị tuyết phủ trắng xóa.
Hai giờ chiều thứ Ba, hai mươi lăm giờ trôi qua kể từ thời điểm bọn trẻ nhà Miner mất tích, đội tìm kiếm phát hiện một vật thể lạ trên đồng cỏ cách trường học ba cây số về phía Nam. Đó là một chiếc xe trượt tuyết bị lật, bên cạnh là một con ngựa đang đứng bất động nhưng vẫn còn sống. Dưới vòm của khung xe trơ trọi là một gò tuyết cao.
Gò tuyết đó chính là thi thể đông cứng của một cô bé đang trong tư thế nằm úp. Cô bé mặc chiếc áo khoác không cài nút, hai cánh tay cô bé dang rộng để che chở cho hai đứa em của mình đang nằm bên dưới.
Những người đàn ông nhẹ nhàng nâng cô bé lên, rồi từ từ gỡ bỏ chiếc áo khoác lông sờn cũ và những mảnh vải bạt rách mà cô bé đã dùng cơ thể giữ lại. Bên dưới là Myrdith và Emmet; cả hai đều đang mê man, cơ thể đông cứng một phần nhưng vẫn còn thoi thóp thở. Các em đã hứa sẽ không chìm vào giấc ngủ khủng khiếp mà Hazel biết rõ rằng một khi đã ngủ thì sẽ không bao giờ tỉnh dậy được nữa.
Ngày nay, trong sân của tòa án trung tâm thuộc Thành phố Center có một tượng đài bằng đá đứng sừng sững giữa đất trời rộng lớn. Trên đó có khắc dòng chữ:
TƯỞNG NHỚ
Hazel Miner
11.04.1904 – 16.04.1920
Với người ra đi là vinh danh
Với người ở lại là kỷ niệm
Với hậu thế là tấm gương
Câu chuyện về cuộc đời và sự ra đi của cô
Mãi lưu lại trong sử sách Hạt Oliver
Để người đời còn biết tên.