“Suy cho cùng, người có đời sống nội tâm sâu sắc là người giỏi đối phó nhất với những phiền muộn của cuộc sống bên ngoài.”
- Evelyn Underhill
Bệnh viện là nơi chứng kiến sự thay đổi số phận của con người, hoặc tốt hơn hoặc xấu đi. Mười năm trước, tại một bệnh viện ở Thành phố New York, một người đặc biệt đã tặng tôi món quà bất ngờ mà kể từ đó, cuộc đời và quan điểm sống của tôi mãi mãi thay đổi.
Ở tuổi hai mươi lăm, tôi đang trong thời kỳ sung sức nhất của tuổi trẻ và của cả cuộc đời. Tuy nhiên, cuộc sống ở Manhattan khiến tôi trở nên bệ rạc hẳn. Tôi làm trong công ty nhà nước. Ban đầu trong tôi tràn đầy lý tưởng tươi mới, nhưng dần dà, lý tưởng đó mai một theo thời gian khi những việc tôi làm với mong muốn tạo nên sự khác biệt không tạo ra ảnh hưởng. Khi chuyển sang các công ty tư nhân, tôi phải tạm biệt căn hộ tươi sáng của mình và chuyển đến sống trong một căn phòng chật hẹp chỉ có một cửa kéo ngăn đôi nhà tắm với phần còn lại. Dạo đó tôi bị viêm ruột thừa và sau ca phẫu thuật, tôi không còn tập thể thao được nữa. Bạn trai của tôi lúc đó (giờ là chồng tôi) đang học đại học ở tiểu bang khác, vậy nên cứ tối đến, tôi hay tổ chức tiệc tùng trong căn phòng bé tí của mình.
Cũng trong thời gian đó, một người bạn mời tôi tham gia một câu lạc bộ tình nguyện. Thoạt nghe thì tôi không thấy câu lạc bộ này có gì hấp dẫn và cũng chẳng có vẻ gì là một “cơ hội”. Tôi đã chấp nhận mức lương không cao để làm việc cho các tổ chức phi chính phủ, chẳng lẽ giờ tôi còn phải hy sinh nốt thời gian rảnh của mình cho người khác nữa sao? Nhưng rồi tôi nhận ra có lẽ “thời gian rảnh” đó chỉ càng làm cho tôi thêm sợ hãi, và nếu có thể giúp đỡ người khác trong thời gian rảnh đó thì tôi cũng cảm thấy vui.
Câu lạc bộ có rất nhiều hoạt động tình nguyện và cũng như nhiều người khác, tôi chọn hoạt động giúp đỡ trẻ em. Nhưng khi nhận được thông báo công việc cụ thể, tim tôi như ngừng đập. Nhiệm vụ của tôi dường như bất khả thi. Đó là mỗi tuần tôi phải dành vài giờ để thăm viếng những người lớn nằm liệt giường tại một bệnh viện. Tôi thật sự không biết mình phải làm gì. Tôi biết nói chuyện gì với họ đây? Và tại sao họ lại muốn tôi dành thời gian ở bên họ?
Ngày nhận việc cũng đến. Tôi bắt tàu điện ngầm đến bệnh viện, trên đường cứ suy đi nghĩ lại về quyết định này. Trong buổi định hướng, người hướng dẫn cho tôi biết những bệnh nhân này được bảo trợ bởi chính phủ, nghĩa là họ không có cơ hội rời khỏi bệnh viện vì không có gia đình hoặc không thể tự sống ngoài xã hội.
Các tình nguyện viên không được phép hỏi lý do họ bị liệt. Người hướng dẫn cho tôi biết đa phần họ là nạn nhân của bệnh tật hoặc tai nạn thảm khốc. Tình nguyện viên cũng không được hỏi những câu hỏi riêng tư mà chỉ đơn thuần động viên, khích lệ tinh thần họ cũng như giúp họ cảm thấy lạc quan hơn. Bệnh nhân mà tôi sắp ghé thăm là Charles và anh ấy bị liệt từ cổ trở xuống nên chỉ có thể nói và cử động nét mặt.
Tôi tìm đến phòng bệnh của Charles. Căn phòng số 115 kia rồi, và tôi không còn thời gian để lên chiến lược nào nữa. Tôi bước vào phòng và giới thiệu bản thân với Charles. Anh nằm trên giường, đầu kê trên một cái gối. Đầu tóc anh rối tung vì lâu ngày không chải còn râu ria thì bờm xờm nên anh trông có vẻ già hơn tôi vài tuổi.
Tôi đưa mắt nhìn khắp phòng và nhận ra phòng của Charles đáng sợ hơn căn phòng chật hẹp của tôi rất nhiều. Anh có cái ti-vi trắng đen nhỏ (nhưng phải phụ thuộc vào các cô y tá bận rộn để chuyển kênh hoặc tắt ti-vi). Phòng anh có một cửa sổ nhưng cửa sổ đó lại phủ đầy tác phẩm nghệ thuật. Đó là những tấm giấy đủ kiểu được sơn màu nước theo phong cách trừu tượng rồi dán chồng lên nhau trên mặt kính. Tôi không biết ai đã vẽ những bức tranh này cho Charles nhưng không dám hỏi vì không được đề cập đến chuyện “quá riêng tư”. Sau giường của anh là một tấm bảng có ghim một số vật dụng cá nhân, trong đó có một tấm thiệp sinh nhật lẻ loi. Sau mấy câu xã giao ban đầu, tôi đứng ngây người ra đó mà không biết phải làm gì tiếp theo.
“Cô đã sẵn sàng vẽ tranh chưa?”, Charles hỏi.
Nghe vậy, tôi hơi bối rối. Anh hỏi vậy nghĩa là sao đây? Hay là anh muốn nhờ tôi vẽ vài bức tranh để treo cạnh giường như mấy người trước đó. Tôi không biết phải làm gì, nhưng may là Charles đã cứu tôi khỏi sự ngượng ngùng.
“Trong tủ có cọ và màu nước”, anh nói. “Cô cần một cốc nước để rửa màu trên cọ nữa.”
Tôi vẫn không hiểu dụng ý của anh khi mở cái tủ nhiều hộc, vốn là món đồ nội thất duy nhất trong phòng, và lôi ra cái xô lớn đựng đầy cọ và màu nước đã dùng qua. Khi nhìn thấy những cây cọ, tôi chợt hiểu ra mọi chuyện. Dưới cán cọ là một vật trông như cái còi được quấn bằng dây thun. Hẳn là Charles đã ngậm cọ bằng miệng để vẽ những bức tranh ấy. Tôi đi lấy nước và chuẩn bị màu, vẫn chưa hình dung ra anh ấy sẽ xoay xở việc này ra sao. Nhưng hóa ra mọi chuyện đối với anh lại vô cùng đơn giản và ngoạn mục.
Charles giải thích cho tôi cách sắp xếp các màu trên khay và chuẩn bị tờ giấy vẽ đặt cách mặt anh chừng ba mươi xăng-ti-mét. Anh nhờ tôi nhúng cọ vào màu rồi đặt cọ vào miệng anh, sau đó rửa cọ mỗi lần anh muốn chuyển sang màu khác. Còn lại là việc của Charles và tôi chỉ ngưỡng mộ đứng ngắm. Khi vẽ, Charles không thể trò chuyện do đó tôi nói về kỹ thuật vẽ của anh và những gì chợt nảy ra trong tâm trí. Mỗi khi muốn đổi màu, anh cắn cọ giữa hai hàm răng và nói, “Thay màu giúp tôi”.
Cứ vậy mà suốt mùa thu và mùa đông năm đó, tối thứ Tư nào chúng tôi cũng tạo nên một tác phẩm mới. Đam mê hội họa của Charles thật sự khiến tôi ngưỡng mộ.
Tôi ngạc nhiên khi thấy anh không để mình gục ngã vì bị giam cầm bởi bệnh tật và căn phòng này. Anh đã tìm thấy điều giúp mình cảm thấy hạnh phúc, đó chính là hội họa. Anh chỉ có hội họa để nhìn về tương lai và bấy nhiêu đó cũng đủ. Thay vì nhìn ra cửa sổ, nhìn về thế giới mà anh không thể quay lại được nữa, anh nhờ người khác giúp mình vẽ nên những bức tranh vì đó là cách giúp anh cảm thấy hạnh phúc và nhắc anh nhớ đến những gì mình yêu quý.
Năm đó, tôi bắt đầu nhìn cuộc đời của mình bằng đôi mắt khác. Những việc nhỏ bé bỗng trở nên ý nghĩa hơn đối với tôi, chẳng hạn như việc nắm tay bạn trai, việc đi lại bình thường và hít thở không khí trong lành của mùa đông, hay thậm chí là việc tôi đang có công ăn việc làm ổn định. Charles đã tặng tôi một món quà tuyệt vời, đó là niềm vui từ lòng biết ơn, thậm chí là trong những việc tưởng chừng như bình thường nhất.
Đó là câu chuyện của nhiều năm trước và giờ đây chúng tôi đã cách xa nhau hàng trăm dặm. Nhưng mỗi khi buồn bã hay thất vọng, tôi lại nghĩ đến Charles và tự nhủ, “Thay màu cuộc sống thôi nào”.
Tôi có một tổ ấm nhỏ hạnh phúc. Tôi khỏe mạnh. Tôi đang sống độc lập và tự do. Bấy nhiêu thôi cũng đáng để tôi biết ơn cuộc đời này rồi.