“Làm người tốt và làm việc tốt là tất cả những gì chúng ta cần làm.”
- John Adams
Tôi mười chín tuổi, sống một thân một mình trong một căn hộ chật hẹp tại Thành phố Kansas. Sắp đến Giáng sinh nên cảm giác tủi thân lại càng tràn ngập trong lòng tôi. Tôi không có việc làm và đang nợ mấy tháng tiền nhà. Tất cả những gì tôi có là một hộp ngũ cốc, một hộp sữa, năm đô-la trong tài khoản ngân hàng và một đô-la trong ví.
Hồi đầu năm, tôi đã đưa ra một quyết định bước ngoặt. Lúc đó, tôi bị buộc thôi học vì nợ tiền học phí. Thế là tôi thu dọn đồ đạc vào hai va-li rồi lên xe buýt ra đi với năm mươi đô-la trong túi. Cha mẹ tôi đang trong giai đoạn làm thủ tục ly hôn nên không thể giúp đỡ tôi về mặt tiền bạc. Đã vậy công việc làm thêm với mức lương tối thiểu của tôi cũng kết thúc. Vậy là tôi đến đây, một thân một mình giữa thành phố hoàn toàn xa lạ, chẳng có lấy một người thân quen.
Và giờ thì tôi ngồi đây, trên chiếc giường xập xệ và nhìn xa xăm ra ngoài cửa sổ. Tâm trí tôi bắt đầu suy nghĩ vẩn vơ, “Làm gì có ai quan tâm mình sống hay chết. Vậy mình có nằm chết ở cái máng xối nào đó thì cũng đâu có gì khác biệt”.
Nhưng rồi tôi vội lắc đầu và thay đổi suy nghĩ, “Mình phải ra khỏi căn phòng này trước khi làm điều gì đó mà sau này mình phải hối tiếc”.
Thế là tôi khoác chiếc áo màu xanh nhạt cũ kỹ lên người rồi mở cửa bước ra cái lạnh cắt da cắt thịt. Những cơn gió rét mướt quất vào mặt tôi làm nước mắt trào ra cay xè. Tôi cứ thế bước đi, chỉ bước đi vậy thôi vì tôi không có đích đến cụ thể nào cả. Tôi chỉ biết mình phải thoát khỏi căn phòng u ám ấy. Rồi tôi vô thức bước vào công viên và ngồi xuống băng ghế ẩm ướt cạnh đài phun nước, nơi tôi có thể khóc và cầu nguyện mà không sợ bị ai quấy rầy.
Tôi nhắm mắt và cầu xin Chúa giúp mình - xin Ngài ban cho tôi trí khôn, dấu chỉ hay bất cứ thứ gì cũng được. Bỗng tôi nghe thấy giọng một người đàn ông đang nói gì đó với tôi. Phải chăng đó là dấu hiệu Chúa gửi đến? Tôi mở mắt ra thì thấy một gã vô gia cư nồng nặc mùi rượu đang ngồi kế bên và lè nhè tán tỉnh mình.
Tôi đứng dậy và đi về hướng căn hộ của mình. Lúc đó trời bỗng trút xuống cơn mưa pha lẫn tuyết. Vì không có mũ và cũng chẳng có dù, áo khoác của tôi ướt đẫm nước, và mái tóc ướt sũng bắt đầu rũ xuống che phủ cả mặt tôi.
Khi đi ngang qua những cửa hiệu được trang trí đèn Giáng sinh lộng lẫy, tôi cảm thấy vô cùng xấu hổ với bộ dạng “cô bé bán diêm” của mình. Tôi bước thêm vài bước rồi bất giác dừng lại trước một hiệu cà phê nhỏ và đưa mắt nhìn vào bên trong. Ngay cả trong cửa hiệu cà phê bình thường như thế, những vị khách nữ cũng đang diện quần áo đẹp đẽ và áo khoác đắt tiền. Cảm giác ăn mặc tươm tất ngồi trong không khí ấm áp để trò chuyện cùng bạn bè bên tách cà phê nóng và lơ đãng nhìn khung cảnh ảm đạm bên ngoài thì thế nào nhỉ? Tôi tự hỏi không biết tờ một đô-la duy nhất trong ví có đủ để mua một tách trà hay không. Có lẽ là đủ, nhưng còn tiền thuế, và tiền boa cho phục vụ nữa. Rõ ràng tôi còn không mua nổi một tách trà. Việc duy nhất tôi có thể làm là đi bộ về nhà.
Tôi chán nản với bộ dạng vừa lạnh cóng vừa ướt sũng của mình và buông lời than thở, “Cuộc đời này còn gì khốn khổ hơn nữa không?”.
Rồi tôi bắt gặp một người phụ nữ thuộc đội tình nguyện đang đứng rung chuông trước thùng quyên góp màu đỏ. Thấy cảnh đó, tôi lại tự nhủ, “Mình còn có đủ chân tay, có cả đôi mắt sáng và sức khỏe tốt, như vậy là may mắn hơn những người khuyết tật mà đội tình nguyện đang giúp đỡ rồi”. Thế là tôi rút ví ra và lấy tờ một đô cuối cùng bỏ vào thùng.
Về đến nhà, tôi kiểm tra hộp thư thì thấy có một phong bì, đó là thư thông báo số dư tài khoản ngân hàng. Khi mở ra xem, tôi thấy hình như có một sự nhầm lẫn lớn. Trên tờ sao kê không phải là năm đô-la như tôi nghĩ mà là một trăm lẻ năm đô-la.
Từ trước đến giờ, tôi luôn nắm rõ số dư tài khoản của mình. Chắc chắn ngân hàng có sự nhầm lẫn, và tôi cũng không có ý định sử dụng số tiền không phải của mình. Tôi gọi điện đến ngân hàng, nhưng nhân viên ngân hàng lại xác nhận đó là tiền của tôi.
Vậy là tôi lại khoác chiếc áo màu xanh cũ kỹ ướt sũng và bước ra giữa trời tuyết lạnh. Trùng hợp là ngân hàng nằm ngay đối diện đài phun nước nơi tôi đã ngồi khóc chỉ một tiếng trước đó.
“Làm ơn cho tôi gặp quản lý”, tôi bước vào ngân hàng và nói.
Tôi biết trông mình thật nực cười. Một cô gái ăn mặc lôi thôi đang yêu cầu ngân hàng giảm số dư tài khoản của mình cho đúng.
Trong khi người quản lý quay vào phòng làm việc để kiểm tra lần nữa, tôi kiên nhẫn ngồi đợi trên chiếc ghế giữa sảnh, ngượng nghịu nhìn những giọt nước từ tóc mình nhỏ xuống nền nhà.
Khi quay lại, người quản lý vẫn khẳng định, “Tôi không thấy có sự nhầm lẫn nào cả, đây chính xác là tiền của cô đấy”.
“Không thể nào, tôi nắm rõ từng xu mình có mà. Chẳng lẽ số tiền này từ trên trời rơi xuống à?”, tôi thắc mắc.
Vị quản lý hiểu nỗi băn khoăn của tôi, vì số tiền này không được thể hiện trên bản thông báo số dư lần trước.
“Hệ thống của chúng tôi cho thấy khoản tiền này được gửi vào tài khoản của cô từ tháng Bảy, nhưng đến giờ chúng tôi mới nhận được. Đó là lý do đến tháng Mười Hai nó mới xuất hiện trên bảng thông báo số dư. Nhưng dù sao thì nó cũng là của cô và cô không cần lo bị ngân hàng đòi lại đâu.”
Khi tiền bạc không dư dả, người ta luôn đếm kỹ từng xu mình có. Và tôi biết rõ không có khoản tiền nào gửi đến cho mình từ hồi tháng Bảy, nhưng lại không thể thuyết phục vị quản lý ngân hàng tin điều đó.
Tôi về nhà, thầm cảm ơn Chúa vì số tiền tôi bỗng nhiên có thêm. Tôi dùng số tiền này để mua vé máy bay về thăm gia đình nhân dịp Giáng sinh, và kỳ nghỉ lễ bên người thân thật sự đã chữa lành tinh thần tôi.
Vài tháng sau, tôi kể cho một người bạn nghe về sự xuất hiện đầy bí ẩn của một trăm đô-la trong tài khoản của mình.
“Cậu đã cho đi đồng tiền cuối cùng của mình phải không?”, bạn tôi hỏi.
“Đúng vậy.”
“Vậy cậu không nhận ra điều gì sao? Cậu đã được đền đáp gấp trăm lần đấy.”
Tôi giật mình trước lời bạn mình nói. Quả đúng là như vậy, rõ ràng tôi vừa được trải nghiệm điều mà người ta hay gọi là phép màu Giáng sinh.