Tôi, Tuấn cười, Minh khều và Châu trống nhận được thư từ ngoài Bắc. Ở chiến trường mà có thư quê nhà thì mừng lắm, bỏ cả cơm trưa. Ai cũng háo hức bóc ra, thì ra... không phải của người thân, mà là của mấy thiếu nữ ở làng Quyết Tiến, nơi chúng tôi ở huấn luyện ba tháng.
Không chỉ có bốn chúng tôi, mà trong đội đều có thư.
Thảo già thì có thể hiểu được vì sao không có thư của những người ở làng Quyết Tiến, vì anh đã vợ con. Rồi cô Yến phục vụ hình thức bình thường, nhưng Trần Dũng không có thì cũng không ngạc nhiên bởi những ngày ở địa điểm huấn luyện, anh tuy tích cực đến thăm các gia đình đã cho chúng tôi ở nhờ, đến nhà các đồng chí lãnh đạo tổ đội sản xuất, các thành viên ban quản trị hợp tác xã rồi lãnh đạo xã nhưng anh không hoạt ngôn. Dáng người mặc quân phục rất chuẩn nhưng để kiểu tóc không đẹp lắm nên người ta cũng không nhớ đến anh nhiều. Đã không hoạt ngôn lại ít nói nên thanh niên, phụ nữ cảm thấy khó gần.
Thư gửi tôi là của nữ đồng chí Oanh, Bí thư xã đoàn. Đồng chí hỏi thăm sức khỏe của toàn đội và không quên nói rằng làng quê bây giờ đã vắng lại càng vắng. Nam thanh niên ra trận hết, chỉ còn các em mới mười lăm, mười sáu tuổi, số này đang học phổ thông. Gần ba mươi đoàn viên lại xung phong vào tuyến lửa Khu Bốn phục vụ giao thông vận tải. Trong đó có những nữ đồng chí Lan, Hồng, Thu, Cúc, Huệ, Thanh là những phân đoàn trưởng tích cực, ủy viên ban chấp hành tích cực, hát hay, chăm làm. Oanh cũng kể những bài hát mà các đồng chí văn công dạy lại cho đoàn viên thanh niên xã Quyết Tiến, được truyền bá rộng rãi trong cả bốn thôn của xã. Cuối thư, Oanh chúc toàn đội mạnh khỏe, ngày chiến thắng trở về đừng quên dân làng Quyết Tiến. Riêng chị Hảo vẫn đợi anh Hải, Phó đoàn đẹp trai và hát hay nữa.
Tôi phì cười nhưng cũng chạnh nhớ đến Hảo, y sĩ của Trạm y tế xã Quyết Tiến. Hảo hai mươi tám, hơn tôi hai tuổi. Chị có vẻ đẹp mặn mà, vẻ đẹp tự nhiên như Họa My của đội “Hoa phong lan”. Mới nhận trầu cau của một đồng chí bộ đội, chưa cưới, chưa một lần biết thế nào là nụ hôn đầu tiên. Chồng chưa cưới của Hảo ở đơn vị bảo vệ cầu Hàm Rồng, hy sinh giữa năm một ngàn chín trăm sáu sáu, lúc ấy Hảo mới hai mươi hai tuổi và cũng mới học hết năm thứ nhất của trường Trung cấp Y ở tỉnh. Hảo suy sụp tinh thần, định bỏ học nhưng nhờ gia đình hai bên động viên, Hảo học tiếp, xong về xã làm việc.
Những ngày chúng tôi ở Quyết Tiến, Hảo giữ ý tứ, không tiếp xúc với nam diễn viên chúng tôi. Nhưng chính bố mẹ chồng chưa cưới của Hảo lại là người động viên Hảo cứ tự nhiên tìm hiểu đi, nỗi đau đã đi xa sáu năm rồi. Và tôi bắt gặp hơn một lần Hảo nhìn tôi với ánh mắt mà chỉ có đàn ông mới hiểu. Đồng đội tôi thì bảo: “Hải và chị Hảo đẹp đôi đấy...”.
... Tôi không xem và cũng không tò mò nhưng đoán biết rằng thư của các diễn viên nữ là của những nam thanh niên xã Quyết Tiến gửi đến, trong đó chắc chắn có cả thư của một thầy giáo trẻ.
Họa My hỏi tôi thư chị Hảo gửi anh Hải phải không, tôi nói không có và cho Họa My xem thư của Oanh. Họa My nói nhỏ: “Chắc là có thư chị Hảo, chị ấy và anh đẹp đôi lắm”. Tôi nói không có ai, ngoài Họa My. Họa My cười, nụ cười sao thật buồn rồi nói nhỏ: “Họa My thấp hơn anh Hải nhiều về chiều cao, không xứng đâu”. Tôi định nói với Họa My những lời có cánh nhưng lúc ấy Đội trưởng Trần Dũng đi tới, Họa My giả vờ nói to:
- Đồng chí đội phó nhớ để khúc ca chèo trong chương trình đấy nhá.
- Rồi, tôi không cắt, có thế mà cứ nói đi nói lại từ nãy đến giờ...
... Ngày đội chúng tôi đã hoàn thành chương trình huấn luyện, buổi chia tay lưu luyến, cảm động và cũng nhiều nước mắt. Chúng tôi cùng với đoàn thanh niên xã Quyết Tiến phối hợp tổ chức một đêm diễn phục vụ nhân dân địa phương, một phần ba chương trình là của anh chị em trong xã do Minh khều giúp dàn dựng. Trước đó, việc dạy một số bài hát cho anh em đoàn viên thanh niên trong xã do tôi và Họa My, Sơn Ca đảm nhận.
Mở đầu chương trình đêm văn nghệ chia tay, đồng chí Chủ tịch Ủy ban hành chính xã lên cảm ơn đội chúng tôi đã về đây, làm không khí làng quê ba tháng qua sôi động hơn, tình quân dân thắt chặt hơn. Chúc chúng tôi lên đường hoàn thành nhiệm vụ.
Đội trưởng Trần Dũng đọc lời đáp từ. Lời do Tuấn cười viết. Nội dung cảm ơn Đảng, chính quyền, nhân dân xã Quyết Tiến đã dành tình cảm tốt đẹp cho đoàn, tạo điều kiện cho đoàn hoàn thành nhiệm vụ huấn luyện: “Đoàn xin hứa sẽ hoàn thành nhiệm vụ của người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, không sợ gian khổ hy sinh, quyết tâm thực hiện lời thề, hết giặc Mỹ mới trở về quê hương. Kính chúc cán bộ nhân dân xã Quyết Tiến luôn mạnh khỏe, góp phần xây dựng và bảo vệ hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa của chúng ta, hết lòng vì tiền tuyến thiết thực mau chóng giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc”.
... Đêm diễn xong, xã chiêu đãi cháo gà tại đình làng. Có mời đại diện các ngành trong xã, đại biểu gia đình quân nhân tiêu biểu, gia đình liệt sĩ. Cuộc vui đến ba giờ sáng mới kết thúc.
Bảy giờ sáng hôm sau, dân làng đứng chật đê sông Hồng lưu luyến tiễn đưa chúng tôi ra trận. Mẹ Năm, hội trưởng “Hội Mẹ chiến sĩ” của xã, giọng rất bình tĩnh nhưng nước mắt thì chảy. Mẹ nói: “Mong các con đi cho chân cứng đá mềm, đi năm về mười. Hết giặc, có con nào làm rể, làm dâu quê mẹ thì cứ về, trai gái làng này sẽ chờ đấy”.
Xe lăn bánh mà đoàn người vẫn đi theo, cách xa hai kilômét vẫn thấy đoàn người trên mặt đê giơ tay vẫy. Cho đến lúc chỉ còn vết mờ xa của lũy tre làng, chúng tôi mới quay đầu lên phía trước.
... Trong buổi chia tay với dân làng, tôi để ý thấy ai cũng ăn mặc sạch đẹp, cứ như đi hội. Nhưng đặc biệt, có hai thiếu nữ xinh đẹp vác cuốc qua vòng ngoài đám đông, đi về phía bãi ngô sông Hồng. Chuyện này không lạ với tôi, với cả dân làng Quyết Tiến. Chỉ có tôi nhìn thấy hai thiếu nữ này. Trong lòng tôi có chút xáo động. Sự xao động này nếu ai biết, thì tôi sẽ bị quy kết là bị mất lập trường... Nhìn hai thiếu nữ, tôi cố nén tiếng thở dài...
... Hai thiếu nữ ấy tên là Nụ và Xoan tuổi vừa hai mươi. Về xã này được ba ngày thì đến chủ nhật, tôi cùng một số anh em ra sông Hồng vãn cảnh, rồi xem xét ngôi đình nơi sẽ là địa điểm chúng tôi ăn ở tập luyện. Sau là đi thăm ngôi chùa cổ. Nghe nói, chùa này do bà Lê Thị Duyên, con của vua Lê đầu thời kỳ nhà Lê Trung Hưng - vợ thứ của chúa Trịnh. Bà Duyên không có con. Tuổi bốn mươi, bà xin chồng cho về quê nhà sinh sống như người dân thường. Vua đồng ý. Bà về bỏ tiền túi xây cái chùa này, chùa có tên là “Phúc Âm tự” xây dựng khoảng năm một ngàn năm trăm năm mươi. Cái chuông chùa nặng một ngàn kilôgam bằng đồng đỏ nguyên chất, đúc vào năm một ngàn năm trăm sáu bảy (Đinh Mùi) - theo bản dịch chữ Nho của các cụ làng Quyết Tiến, bản này ghi công đức bà Duyên, ghi ngày khởi công và khánh thành chùa. Xã Quyết Tiến là tên làng Quyết Tiến. Xưa đất rộng người ít, sau vài trăm năm xã phát triển thành bốn thôn như bây giờ. Tên cũ Quyết Tiến là Phúc Tiến. Do trùng tên húy với Nguyễn Phúc Ánh là vua Gia Long, nên đổi thành Quyết Tiến.
Trong ngày đi thăm đình, chùa, thăm sông Hồng, tôi gặp hai thiếu nữ. Tôi ngỡ ngàng vì miền quê này có hai cô gái đẹp thật, đẹp không kém Họa My, làm ruộng mà da các cô trắng hồng. Đi ngược chiều với mọi người trong làng, họ đều chào chúng tôi trước khi chúng tôi chào họ. Nhưng hai cô gái này không chào mà cắm đầu đi thẳng. Sau đó gặp hai người này, đều là tôi chào trước. Họ chỉ khẽ đáp chào các anh. Bình ắc-coóc, anh em quen gọi là Bình cóc nói - phải xem nhà cô này ở đâu chứ đội phó nhỉ.
Thì ra chả phải tìm đâu xa, nhà hai cô này ở gần nhau và ở cạnh nhà mẹ Năm - hội trưởng, mẹ Hà - hội phó “Hội Mẹ chiến sĩ”.
Cô Nụ ở cạnh nhà mẹ Năm. Nghe mẹ Năm kể rằng hai cô này học hết lớp mười, các anh các chị của hai cô này cũng vậy. Anh chị em họ đều học giỏi, nhưng vì ông nội Nụ là lý trưởng trước năm một chín bốn lăm, bố đẻ đi lính cho Tây nên con cháu họ không ai được đi bộ đội, thanh niên xung phong chứ đừng nói đến đi học đại học hoặc đi học trung cấp chuyên nghiệp. Đi công nhân vác đá trên công trường Đá Chẹ ở núi Ba Vì cũng không. Vào đội thủy lợi chuyên môn của xã cũng không, vào Đoàn thanh niên lao động Hồ Chí Minh cũng không được, đi dân công hỏa tuyến cũng không. Họ sống khép kín, không chơi với ai, ngoài việc tìm đến những người có hoàn cảnh như họ.
Còn bố của Xoan làm lý trưởng trong kháng chiến chống Pháp. Sau bị Tây bắn chết không hiểu vì lý do gì. Hai cô thân nhau, đi đâu cũng có nhau. Hai gia đình của các cô cũng thân nhau. Có một sự khác biệt với các gia đình trong thôn này là nhà ở của gia đình hai cô đều là nhà xây gạch, lợp ngói vảy cá, xung quanh nhà xây tường bao. Cổng xây, cánh cửa nhà, của bếp, cửa cổng đều bằng gỗ lim. Nhà ở này chính là của ông bà các cô để lại, bị chính quyền ta tịch thu giữa năm một chín năm tư, chia cho dân nghèo. Nhưng sau mười năm, bố mẹ các cô có tiền chuộc lại được. Trai làng nhiều người muốn lấy các cô làm vợ nhưng ngại ảnh hưởng lý lịch. Các anh chị các cô phải lấy chồng, lấy vợ thiên hạ (người khác xã, khác huyện).
Mẹ Năm nói rất thương anh em nhà các cô nhưng vì cả nước đang có giặc, việc nâng cao cảnh giác là rất cần thiết..., các con chớ có quan hệ đấy.
Tất nhiên là chúng tôi không quan hệ trên mức tình cảm. Mà có muốn, các cô cũng không dám, gia đình các cô đóng cửa suốt ngày đêm. Còn lại các gia đình trong các thôn xã Quyết Tiến chả nhà ai có cổng, nhà nọ tiếp giáp nhà kia bằng hàng rào râm bụt, có đến chín mươi phần trăm là nhà tường đắp đất, lợp rạ. Số nhà xây chủ yếu là của các gia đình có chủ hộ là đội trưởng sản xuất (một thôn từ năm đến sáu đội sản xuất, mỗi đội từ bảy mươi đến chín mươi lăm hộ gia đình), nhà của các thành viên ban quản trị hợp tác xã, của lãnh đạo xã, của trưởng các ban ngành. Những đối tượng này ăn công điểm gián tiếp của hợp tác xã.
... Chúng tôi rồi cũng quên Nụ, Xoan vì công việc ở Trường Sơn cuốn hút. Rồi những nỗi lo khi đồng đội bị đau ốm, nỗi buồn khi hằng ngày giờ biết tin đồng đội mình là pháo binh, công binh, lái xe ở Trường Sơn bị hy sinh vì bom mìn. Dù chúng tôi không hề gặp mặt họ một lần nào, nhưng họ cũng là con người, họ cũng như bao người Việt Nam, như anh em của chúng tôi đang trực tiếp cầm súng ngoài mặt trận.
Mỗi chiếc xe bị bom hất văng xuống vực
Sẽ hoá bia căm thù giặc Mỹ ngàn năm...
Mỗi cân gạo, lạng đường... đều đổi bằng xương máu đồng đội tôi. Những đồng đội mới tay bắt mặt mừng, sau vài giờ đồng hồ đã thành liệt sĩ - như Thành, Cương, Hạ ở tổ phá bom, dũng cảm kiên trung, những người lính tài hoa giũa mài xác máy bay Mỹ thành đồ chơi tinh xảo... Mới gặp họ hôm trước mà ba hôm sau họ đã ra đi vì bom giặc Mỹ ném như vãi trấu xuống Trường Sơn. Đàn bà vốn mau nước mắt. Diễn viên nữ chúng tôi nghe tin này, họ không muốn ăn. Ai cũng tỏ lòng tiếc thương các dũng sĩ phá bom, và cả những dũng sĩ lái xe đã tặng lương khô, đường sữa cho chúng tôi. Một lần Họa My nói:
- Em ước mong cả đội ta có mặt tại Sài Gòn ngày chiến thắng, đừng có ai ra đi... giữa chừng, anh Hải ạ.
Tôi giật mình, một chút lo sợ nhen nhóm, nhưng tôi kịp trấn tĩnh ngay và nói với Hoạ My:
- Mấy đội xung kích đi trước chúng ta, có ai việc gì đâu, họ đều về nhà an toàn. Chỉ có sốt rét thôi.
- Sốt rét cũng nguy hiểm lắm anh Hải ạ! - Họa My nói - Ở làng em có anh chị đi thanh niên xung phong năm một chín sáu tám đến một chín bảy mốt, trở về lấy nhau, không có con bởi do sốt rét.
- Họ mới cưới nhau năm một chín bảy mốt tức là cách đây mấy tháng, sao biết được.
- Hôm chúng ta hết đợt huấn luyện, được về thăm nhà, chính anh chị ấy nói với em là ở Viện quân y 108 khám cơ mà, toàn bác sĩ giỏi đấy.
Tôi an ủi Họa My:
- Không lo đâu, số phận mỗi người, em lo lắng làm gì...
Đang nói, Dũng lại đi qua. Tiếng anh, em Dũng nghe thấy, không thể cãi. Chiều hôm sau trong cuộc họp toàn đội, anh nói rằng: “Đội ta xuất hiện chuyện nam nữ yêu nhau. Trước mắt tôi giả vờ gọi đồng chí, nhưng không có tôi thì anh anh em em ngọt xớt, tình tứ lắm. Tôi nhắc chung chung thế thôi. Đừng để lúc đi quá đà, không có lợi cho các đồng chí, cho cả đội chúng ta”.
Hoạ My cười tủm. Ngân, Nga, Dung, Hà nhìn nhau thì thầm: “Ai vậy nhỉ!”. Sơn Ca cũng cười, lộ cả hai hàm răng, cố nhịn không phát ra tiếng mà vẫn thành một chuỗi khanh khách. Đội trưởng Dũng nghiêm khắc phê bình Sơn Ca, cười vô duyên, mất trật tự. Vậy mà không ngăn được tiếng cười, nó như dây chuyền, tất cả cười. Dũng nói như quát:
- Giải tán, về ngủ. Tối nay, không ai được thức quá chín giờ, nhớ đấy!
Tuấn cười hỏi tôi:
- Chắc là ông phó nhà ta đứng với Họa My trong bóng tối hả?
- Ông mãnh ạ, không có việc gì lén lút cả. Chiều nay đứng với Họa My trước cửa hầm của Thảo già, chứ có đi đâu.
Tuấn cười nói nhỏ:
- Bảo “thằng bé” cố nhịn vài tháng nữa, đáng là bao. Ha ha ha ha...
Trong cái rủi, có cái may, hôm qua Tuấn cười nhận thêm một lá thư nữa là của anh Hoàn, anh cho biết được phân công về làm công tác hậu cần của sư đoàn huấn luyện. Có khả năng không được ra mặt trận. Không ra trận chắc gì đã là hay, may rủi là do mình cũng chiếm phần lớn. Đừng đổ lỗi cho khách quan. Không học được chữ nhẫn thì khó mà thành công. Chỉ lo ở cơ quan hậu cần mà anh Hoàn cũng giữ tính khí ấy thì...
... Có lá thư của cô Hân, Bí thư chi đoàn thôn Hai, xã Quyết Tiến, nhà cô ở gần với nhà ông chủ mà Tuấn cười ở hồi huấn luyện. Cô là thư ký đội sản xuất. Ngày nào cũng quần lụa, quần phíp, quần sa tanh đen, những thứ này là niềm ao ước của phụ nữ nông thôn. Ngày nào cũng lả lướt trước cửa nhà ông chủ của Tuấn cười vào buổi sáng, trưa, chiều - lúc chúng tôi đi và về...
Tuấn cười đọc thư xong nói các cô ấy viết mà câu chữ sai chính tả, câu cú loằng ngoằng mà cũng làm thư ký đội sản xuất. Cô ta khoe, ai mà lấy cô ta thì sẽ có xe đạp Phượng Hoàng, đồng hồ Pôn-giốt Liên Xô, mặc toàn vải tốt, rặt không thiếu xà phòng mà là xà phòng thơm. Quan trọng hơn là không sợ thiếu gạo ăn.
Tôi hỏi Tuấn ngoài ấy có gặp nhau lần nào không. Tuấn nói: “Cô ta ngày nào chả lấy lý do để sang ông chủ nhà. Mồm nói chuyện với ông bà chủ mà mắt thì liếc tôi tình tứ, tôi không quan tâm đâu mà. Đã vẩu răng, cô ta lại mặt... rỗ! Hì hì mặt rỗ răng chìa mà lấy nhau thì con cái đẻ ra sẽ như thế nào!”.
*
Mùa khô khổ vì thiếu nước nên làm việc dễ mệt mỏi. Các đồng chí bộ đội công binh khi tiếp chúng tôi đến phục vụ đều nói thế. Nhưng họ nói mùa mưa còn khổ hơn nữa. Mùa mưa sắp tới các đồng chí sẽ chứng kiến. Tội nhất là lỡ... có đồng chí nào hy sinh trong những ngày mưa. Mặt đường nhão nhoét, nếu là men theo sườn núi thì đá trơn... Đã có bao người hy sinh không phải vì bom đạn của Mỹ mà vì sốt rét trong mùa mưa, hoặc bị ngã khi hành quân, hoặc sơ ý qua cầu treo bằng mây đan ngã xuống suối lũ là không hy vọng gì...
Chiều nay, Lê Mỹ nhạc công sáo trúc bỗng buồn nôn, người nóng đến 40 độ không tiếp tục đến các trung đội công binh làm nhiệm vụ mở đường Trường Sơn mà phục vụ được.
Trong đội “Hoa phong lan” ai cũng đều qua khám sức khoẻ rất kỹ lưỡng, không ai bệnh tật gì hoặc không ai bị tim mạch, yếu thận. Nhưng vì ở Trường Sơn khí hậu khắc nghiệt, muốn quen được cũng phải sáu tháng. Nhiều chiến sĩ công binh to cao, vật được voi mà vào đây không chịu nổi, phải về hậu phương làm việc khác chỉ vì sốt rét.
Như Lê Mỹ, anh tuy chỉ cao một mét sáu mươi bảy nhưng cơ thể khoẻ mạnh, ăn cơm muối trắng cũng xơi được bốn bát đầy, không cần nước canh. Vậy mà vẫn bị ngã bệnh. Lúc này tôi với tư cách người phụ trách nội dung, nghệ thuật, chương trình biểu diễn lại mong có cậu Hường bên đại đội dân công hoả tuyến, nhưng khó lắm. Chúng tôi đã đi sâu vào phía Nam, gần hết địa phận tỉnh Quảng Bình, giáp ranh Quảng Trị, ở đây rất nhiều đơn vị cần chúng tôi phục vụ. Đồng chí trưởng Binh trạm Ba cho biết, cứ mỗi ngày phục vụ một điểm thôi, cũng phải hết năm một chín bảy hai. Có những đơn vị ở xa mặt đường giao thông, xa nơi các đồng chí công binh, pháo binh đang làm nhiệm vụ đến sáu cây số đi bộ. Các đơn vị này là đơn vị hậu cần giữ gìn kho tàng hoặc các đơn vị đang làm đường ống dẫn đầu từ Bắc vào. Chỉ bán kính hai kilômét đã có khoảng hơn hai chục chỗ gọi là kho chứa. Mỗi kho có một tổ từ ba đến mười hai người canh gác và cấp phát hàng hóa cho các đơn vị. Bảy, tám năm không được xem văn công chiếu bóng. Kho nọ cách kho kia từ hai trăm đến ba trăm mét... Không thể tập trung các cán bộ, chiến sĩ ở các kho đến một chỗ cùng xem văn công được.
... Đêm nay phục vụ kho A1, nơi có tám đồng chí đang làm nhiệm vụ bảo vệ.
Tấu đàn bầu “Vì miền Nam” của Thảo già thiếu sáo là kém sinh động.
Tôi nhớ lại ngày mới vào đến địa phận Quảng Bình, diễn phục vụ đại đội dân công hoả tuyến Hà Tây ở khu vực phía Long Đại. Hường xin tấu một bài sáo, cực hay - đấm lưỡi kép ngắn dài, luyến láy ngang ngửa với Mỹ. Hát đơn ca “Hà Tây quê lụa” - tuyệt như chuyên nghiệp. Lúc nghỉ để ăn cháo gà, Hường được anh Thảo già đồng ý, cậu ta múa tay gẩy đàn bầu bài “La-ha-ba-na xinh đẹp” trước sự ngạc nhiên của toàn đội “Hoa phong lan” và cả đại đội dân công hoả tuyến của Hường.
Hường có tặng Họa My bài thơ “Bên tuyến đường” - tôi vẫn nhớ vì ngay trong bữa liên hoan cháo gà, Họa My ngâm bài thơ này, sau đó, ba lần gặp ba đại đội thanh niên xung phong của Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hoá, Họa My cũng ngâm bài này:
... Đến với tuyến đường Trường Sơn
Gặp quê hương ngay ở chiến trường
Ở đây chúng tôi có những nỗi nhớ bình thường:
Nhớ một củ khoai lang
Nhớ một sân phơi đầy thóc, một ao sen đầy hương
Nhớ một cánh diều bay trong chiều quê thênh thang
Nỗi nhớ nào cũng tiếp thêm sức lực
Cho chúng tôi mỗi buổi ở mặt đường...
... giặc Mỹ sợ con đường
Con đường như núi lao đâm vào ngực chúng
Bao nhiêu bom đào, bom bi, bom tấn
Khói bom tan đường lại vang tiếng cười
Chúng tôi nhìn máy bay Mỹ rơi
Lại bay đúng vào máy bay của Mỹ
Dẫu gian khổ, hy sinh nhưng chúng tôi không sợ
Bởi miền Nam đang gọi chúng ta
*
Và con đường cứ đi xa, đi xa
Với tình yêu dọc dài đất nước
Với nỗi nhớ quê hương ngày ngày tha thiết
Với ý nghĩ hằng ngày hướng tới miền Nam.
... Tôi cứ miên man suy nghĩ, nên không nghe rõ Họa My đang cất lên ngọt ngào:
“Nổi lửa lên em cho tình anh rực cháy
Cho sáng mãi con đường ra trận hôm nay
Nổi lửa lên em, ta là người chiến thắng...”.
Tiếp theo, đơn ca nam, đồng chí Thiếu úy Hoàng Hải đơn ca bài “Nổi lửa lên em”, nhạc và lời Huy Du.
Tôi giật mình, chạy từ phía dưới khán giả lên.
Đêm diễn thành công, lại tặng nhau chữ ký, ghi cho nhau địa chỉ hẹn gặp ngày thống nhất, rồi chúng tôi lại được các chiến sĩ tặng lương khô, vải dù...
... Lê Mỹ có chiều hướng sốt nặng, Đội trưởng Trần Dũng lo lắng, anh nói có lẽ phải chuyển lên tuyến trên. Quân y Lê Đáng nói đồng chí Dũng cứ yên tâm, không sao mà. Tôi biết bệnh này mà, cảm sốt thôi. Mỹ bỗng chồm dậy nói to, không đi tuyến trên đâu. Hãy tiêm thuốc cho tôi nữa đi. Lê Đáng nói, tiêm rồi, tiếp tục truyền nước cho đồng chí. May mà mấy chai nước của bệnh viện dã chiến thuộc Binh trạm Hai tặng vẫn còn...
Tôi thấy Ngân, diễn viên múa lộ vẻ lo lắng cho Mỹ. Chà chà, anh chị cảm nhau rồi. Được đấy nhưng khéo khéo vào nhé. Tôi nghĩ vậy nhưng chưa nói ra đằng mồm với Ngân - Mỹ.
Hôm đầu tiên diễn ở Đại đội công binh hỏa tuyến. Trong đội tôi có một số anh chị em khen cái cậu Hường dân công hỏa tuyến tuyệt vời, không hề qua trường lớp mà giỏi quá, cậu này mà được học bài bản thì...
Tôi để ý thấy Lê Mỹ trề môi, miệng lẩm bẩm cái gì đó. Tôi nghĩ, anh chàng lại tự ái rồi đây. Đừng nên như thế, người ta giỏi thì bảo là giỏi, chứ không giỏi thì ai người ta nói là giỏi. Thì ra, cái ích kỷ của con người ai cũng có, chỉ có điều nó lộ ra ngoài hay được giấu kín mà thôi.
Mỹ nằm đến tám ngày, anh chàng tiếc đứt ruột vì không phục vụ được mười sáu kho hậu cần ở mười sáu điểm.
Ở trong rừng sâu, độ an toàn khá lớn, nhất là khu vực có hang đá. Máy bay dù có tìm những chỗ màu xanh của cây rừng mà ném bom, cũng không thể xuể được. Ở sâu trong rừng, dù suối có cạn nhưng cũng có thể múc được vài chậu để tắm giặt. Ở kho A4, A5, các đồng chí coi kho đã đào giếng cạnh suối, sâu ba mét là cũng có đến năm mươi centimét nước. Múc cạn sau ba mươi phút nó lại có nước lên đến ngấn cũ. Các đồng chí coi kho nói, mùa mưa con suối này rộng lắm, nước dâng đến gần cửa kho hàng. Tuy nhiên nền nhà kho đặt ở trên dải đất rất cao, không lo hàng hỏng, nước cạn thì những cái giếng đào trước đó bị lấp, mùa khô lại nhớ chỗ mà đào lại.
Gần ba tuần ở đơn vị kho của Binh trạm Ba, chúng tôi được ăn rau rừng, tuy không thả phanh nhưng bữa nào cũng có.
Ngày thứ chín, Mỹ khỏi hẳn. Chiều đó anh phục vụ được ngay. Tiếng sáo lại vang lên lúc độc tấu, nghe xa xa như có con chim rừng khổng lồ đang hót giai điệu bản nhạc sáo “Lý hoài nam”.
Sau bản nhạc, mồ hôi ướt đầm cả người, Ngân cầm cái quạt bằng lá cọ quạt cho Mỹ, hỏi thầm câu gì đó. Tôi đoán chắc là “có mệt không anh?”.
Quạt lá cọ là do các đồng chí hậu cần Binh trạm Hai lấy lá cọ ghép đan lại, tặng chúng tôi mỗi người một chiếc. Cái quạt, chỉ là một vật nhỏ nhưng mấy ai đã nghĩ ra mà để đem quạt từ miền Bắc vào Trường Sơn. Từ lúc có quạt, nó luôn ở trên tay chúng tôi, lúc di chuyển, nó được cài trên nóc ba lô con cóc. Chỉ có Thảo già, anh chỉ dùng được một ngày, rồi không hiểu sao chiếc quạt to gấp đôi cái quạt giấy, nó nhỏ dần. Thì ra, bố này lúc hút thuốc lào, thuận tay tước dần làm đóm!...
... Điểm phục vụ cuối cùng trong tổng số kho hậu cần của Binh trạm Ba là Kho A20.
Kho hậu cần nào cũng ở xa đường giao thông. Đến thời điểm cuối tháng tư năm một chín bảy hai này, đường Trường Sơn đã có nhiều nhánh để phù hợp với yêu cầu vận chuyển nhân vật lực từ Bắc vào. Kho ở xa đường giao thông để giảm thiểu tối đa việc máy bay Mỹ phát hiện đánh phá. Đối với đường giao thông, chỉ cần phát hiện vết đỏ ngoằn ngoèo trên mặt đất thì chúng coi đó là đường giao thông, cần phải phá hủy. Mùa khô, chúng ném bom và bắn phá dữ dội, bởi là lúc công việc vận chuyển của chúng ta dễ dàng hơn, nên bom của chúng nổ suốt ngày, những cột bụi đỏ màu đất bốc lên cùng với khói, với lửa như không thể ngừng...
Chúng tôi đến Kho A20 phải đi men những con suối cạn, người dẫn đường là đồng chí ở Kho A19. Kho A20 ở cách Kho A19 đến bốn kilômét đường rừng. Tôi có hỏi đồng chí dẫn đường vì sao kho này ở xa vậy, đồng chí nói đó là kho dự trữ.
Qua lời đồng chí kể, chúng tôi nói thấy người lính coi kho cũng gian khổ tột bậc. Bao nhiêu hàng tập kết ở phía ngoài này, các anh phải gùi từng bó, từng thùng trên lưng chuyển vào kho dự trữ, dùng toàn bằng sức người, có đồng chí trượt chân ngã, đầu va vào đá, và hy sinh, có những đồng chí ngã gãy chân, là chuyện bình thường.
Nghe chuyện, đám diễn viên nữ chảy nước mắt và rồi, đêm đó, chúng tôi hát, chúng tôi diễn hết mình phục vụ khán giả. Tuy chỉ có ba người xem, ba chiến sĩ coi kho nhưng chúng tôi như thấy mình hát trước cả sư đoàn. Xa xa, bom Mỹ vẫn nổ trên những trục đường giao thông.
*
- Đồng chí Sơn Ca, sao lại hát nhạc vàng là thế nào? Chỉ có phản động mới hát nhạc vàng.
- Em hát nhạc vàng lúc nào?
- Sáng nay, đồng chí cùng đồng chí Họa My, đồng chí Ngân đi rửa mặt, vừa đi vừa hát, còn chối là sao?
- Nhưng bài nào mà anh bảo là nhạc vàng, chỉ cho em đi nào?
- Đồng chí không được cười, không có anh em ở đây. Gọi đồng chí thôi. Hiểu chửa.
- Vâng, thế thì thưa đồng chí trung úy, đội trưởng đội văn công xung kích “Hoa phong lan”. Tôi hát bài nào mà đồng chí bảo là nhạc vàng?
- Bài “Dư âm” đấy.
Sơn Ca cười khanh khách. Trần Dũng nghiêm mặt nói.
- Yêu cầu đồng chí nghiêm túc, báo cáo rõ ràng xem nào?
- Thưa đồng chí trung úy, đội trưởng đội...
- Ngắn gọn, không dài dòng.
- Vâng, thưa trung úy.
- Đồng chí trung úy.
- Vâng, thưa đồng chí trung úy. Ai quy định “Dư âm” là nhạc vàng, văn bản nào vậy?
- Không cần văn bản, chỉ thấy nó ủy mỵ ướt át tức là nhạc vàng rồi. Tôi nhắc lại nếu tôi nghe thấy đồng chí hát một lần nữa là tôi kỷ luật đấy.
Giọng Sơn Ca thì tỏ vẻ run sợ nhưng mắt thì nhảy nhót lên những tia tinh nghịch:
- Kỷ luật à! Sợ thật đấy, thế thì từ nay em không hát nữa đồng chí trung úy nhé... Xong chưa đồng chí, để em còn luyện thanh: Mi a, mi ô, mì à, mì ồ, mò mo mó mo mò, à a á a à, ò o ó o ò.
- Yêu cầu đồng chí nghiêm túc. Còn nữa. Tôi cứ đi vắng là ở nhà gà voọc niêu tôm.
- Đồng chí nói gì, tôi không hiểu?
- Đồng chí Ngân và đồng chí cứ đến hầm của nam giới là thế nào?
Sơn Ca lại cười khanh khách:
- Tại đồng chí thủ trưởng không cho em đến hầm của đồng chí nên em phải đến hầm của các đồng chí nam giới khác chứ ạ.
- Tôi nói không được là không được.
- Tại sao lại không được thưa trung úy chỉ huy?
- Chỉ gặp nhau công khai trước đám đông, không được hai người khác giới gặp nhau.
- Đồng đội gặp nhau bàn một vài việc về chuyên môn, sao lại không được thưa trung úy.
- Yêu cầu đồng chí nghiêm túc. Nghiêm!
- Dạ, có tôi!
- Bàn việc gì cứ gặp tôi.
- Nhưng đồng chí đi vắng.
- Thì hãy đợi tôi về.
- Biết khi nào trung úy về mà chờ. Đau đẻ chờ trăng lên mới đẻ ạ.
- Yêu cầu đồng chí nghiêm túc, hạ sĩ Kim Sơn, à quên Sơn Ca!... Sẽ còn lằng nhằng nếu tôi không vô tình đi qua. Tôi nói với Dũng, nếu cảm thấy nghiêm trọng hãy họp toàn đội, không nên đôi co như vậy.
Cơm trưa xong, Dũng cho họp ngay, nội dung cũng chỉ là một nam một nữ không được đứng riêng rẽ, không được ngồi riêng rẽ. Đi riêng, Dũng khẳng định là yêu nhau mới đi với nhau. Ta chứ không phải Tây, muốn yêu ai, yêu lúc nào cũng được. Nhất lại là những người lính đang ở mặt trận.
Dũng còn nói dài, câu nào cũng đệm “coi như là”.
- Coi như là từ nay các đồng chí cần nghiêm chỉnh, coi như là chấp hành kỷ luật, coi như là quân đội.
Không anh em nào có ý kiến. Tôi cũng không muốn nói nhưng chỉ vì Dũng nói câu này:
- Đồng chí Hải phó chỉ huy phải gương mẫu, coi như là anh em mới phục mình và mới coi như là chấp hành theo.
Tôi đứng lên xả một tràng liên thanh:
- Có mỗi một chuyện nhỏ mà đồng chí luôn luôn đau đầu làm gì vậy. Đồng chí nói rằng, cứ lên Binh trạm họp hôm nào là ở nhà từng đôi đến với nhau. Thế là thế nào? Chúng ta ở đây đối mặt với thử thách ác liệt. Gặp nhau, động viên nhau, nói cho nhau về những ước mơ sau ngày hết giặc, củng cố cho niềm tin để vượt qua thử thách, điều này là cần thiết. Chiến tranh điều gì cũng có thể xảy ra, gặp nhau sáng nay, chiều đã không còn nữa. Đồng chí cũng đã nhìn thấy rồi đấy. Mấy trận máy bay B-52 ném bom gần nơi ta ở, chúng còn đến. Do vậy, tôi đề nghị đồng chí không nên nói chuyện đó ra nữa. Người ta ngồi với nhau cũng cấm đoán, thật là suy nghĩ tiểu nông.
Dũng tái mặt, không nói được, anh chuyển đề tài:
- Để giữ gìn sức khỏe lâu dài, coi như là để hoàn thành nhiệm vụ, tôi đề nghị cắt nội dung hát chèo, coi như là để bớt gánh nặng cho đồng chí Họa My.
Họa My đứng lên có ý kiến:
- Hát chèo chỉ được tiến hành khi các chiến sĩ - những khán giả - đồng đội của chúng ta yêu thích, yêu cầu thì hát, việc gì phải cắt. Chúng tôi còn sức, còn phục vụ được. Thôi, đề nghị cho ngủ trưa một chút đi. Chú ý những chuyện vặt vãnh còn mệt hơn là được hát thoải mái để phục vụ được thật nhiều đồng đội của mình. Tôi xin hết.
Trần Dũng nói thêm rằng trong mặt trận, tiếng kèn xung trận, trống thúc giục có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ, do vậy, những bài ca hùng tráng cần được bổ sung, coi như là phải giục giã sôi động mới chính là điều chúng ta cần.
Tất cả cười ầm. Dũng nói:
- Tạm nghỉ, riêng đồng chí Hải, đồng chí Thảo, tổ trưởng tổ nhạc gặp tôi mười phút.
Vẫn là chuyện nếu hát chèo, Dũng nói chỉ cần hát một bài “Tiễn người yêu lên đường” mà thôi. Thảo và tôi không nói câu nào nữa. Dũng bảo coi như là thế nhé, các đồng chí về nghỉ trưa!
Ngân, Nga, Dung, Hà - bốn diễn viên múa bị anh em gán thêm cái đuôi vào tên như: Ngân xoăn, Nga xù, Dung tẹt, Hà cụt. Chả là vì tóc của Ngân không uốn mà cứ xoăn tít như tóc đàn bà, đàn ông châu Phi. Tóc của Nga thì quá dày, cũng hơi xoăn, nó xù lên không thể xẹp xuống được, dù đã nhiều lần ở ngoài Bắc vào hiệu cắt tóc, người ta dùng điện để cho nó xẹp xuống cũng không được. Còn Dung anh em cứ gọi là tẹt bởi tóc lại thẳng, mỏng, ép sát mái đầu, muốn chải bồng lên cũng không được, nếu không nhờ thợ uốn tóc. Thủy cũng vậy, tóc cũng ép sát đầu, nên gọi là Thủy dẹt. Còn Hà cụt là do tóc quá ngắn, theo Hà nói, không cắt bao giờ, nó ngắn từ bé đến bây giờ, chỉ chấm vai nhưng lưa thưa. Cũng may cả năm nàng đều có khuôn mặt ưa nhìn, eo người đẹp (diễn viên múa mà) nên coi cũng được. Châu trống có lần thì thầm: “Tóc dẹt không đẹp nhưng mà có chỗ dẹt thì lại tốt... tốt! Ấy chết! Đội trưởng Dũng tới kìa!”.
Việc gọi tên, nó thành quen miệng, mà lại thêm vui cái không khí trong một tập thể coi nhau như anh em trong một nhà.
Việc Dũng không cho các nàng gọi nam giới là anh xưng em, cá nhân tôi cho đó là một việc quá quắt. Cứ phải gọi là đồng chí. Trong khi, các cô đều ở tuổi hai mươi ba trở xuống. Các nam giới đều hai sáu trở lên. Anh, em nó quen mồm từ lúc mới thành lập đội ở ngoài Bắc. Ừ thì gọi đồng chí là được, gọi đồng chí ở những nơi chúng tôi đến biểu diễn phục vụ thì rất nên. Tôi nghĩ, việc làm lớn nhất của người chỉ huy là làm sao để tất cả một lòng, đoàn kết, hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc. Gọi đồng chí, gọi anh - em là ở ngoài miệng mà trong bụng lại coi nhau không ra gì thì cũng phải xem lại...
... Một sáng chủ nhật, một đồng chí trung úy đến gặp Trần Dũng và tôi. Đồng chí chìa giấy giới thiệu. Thì ra bệnh viện dã chiến của Binh trạn Ba đang chữa chạy khá nhiều thương binh chuyển từ mặt trận Quảng Trị ra theo đường giao liên. Đồng chí trung úy cho biết đi từ lúc ba giờ sáng để đến đây, một số đồng chí thương binh bị khá nặng, có đồng chí nghe tên Sơn Ca, Họa My đã thì thào nói ước nguyện của mình nghe Họa My, Sơn Ca hát để rồi phải đi xa cũng được. Mong ưu tiên điểm diễn này, dù biết cả ngày qua đã hát ở những ba bốn điểm, rất là mệt...
Giọng đồng chí nghẹn lại. Đội trưởng Trần Dũng nhận lời và ngay lập tức chúng tôi lên đường.
Từ đơn vị pháo ba mươi bảy ly, nơi chúng tôi đã phục vụ ba ngày chín buổi, sáng, chiều, tối, cách bệnh viện dã chiến của Binh trạm Ba khoảng mười cây số leo đồi núi. Chỗ đó ngay chân núi biên giới Việt - Lào. Bệnh viện ở sâu trong lòng đất - phòng nọ đến phòng kia đi bằng giao thông hào.
Lúc này, muốn hay không, một đồng chí nam phải kèm một đồng chí nữ, nhất là những lúc lội suối, leo dốc, qua cầu treo đưa như đưa võng, rất chóng mặt.
Hành quân từ lúc tám giờ sáng mà một giờ chiều mới đến nơi. Giữa đường chỉ nghỉ hai mươi phút để ăn lương khô.
Đến nơi, Dũng chấp nhận ý kiến của tôi là các đồng chí nữ diễn viên không cần trang điểm son phấn nữa. Hát ngay, và hát cho những thương binh nặng trước, Minh khều, Họa My, Sơn Ca và tôi, mỗi cặp đến một hầm có thương binh nặng. Bình ắc-coóc theo Sơn Ca và tôi, Lê Thảo, Thủy đem đàn dân tộc theo Họa My và Minh khều. Chỗ Họa My có hai thương binh nặng. Họa My nói hai đồng chí muốn nghe bài hát nào trước. Một trong hai đồng chí thương binh thì thào:
- Bài... bài... nào cũng được.
Nhạc dạo nổi lên, gương mặt hai đồng chí thương binh rạng ngời niềm vui. Môi họ mấp máy như muốn hát theo bài hát “Đường cày đảm đang”. Đau đớn quá, mới xong lời thứ nhất, bỗng cả hai đồng chí nằm bất động, không cựa quậy, cả hai cặp mắt mở to, con ngươi đứng yên.
Đồng chí đại úy quân y, người trực tiếp theo dõi hai thương binh này nói trong tiếng nghẹn:
- Đi rồi, các em ơi... hu hu, còn trẻ quá, mới đôi mươi, cậu này chưa một lần yêu, cậu kia mới lấy vợ chín tháng trước...
Họa My nức nở. Cô gục lên ngực một đồng chí thương binh, rồi ngẩng lên vội vàng đặt cặp môi nóng bỏng lên cặp môi của đồng chí này, người chưa một lần yêu. Sau đó, cô vuốt mắt cho anh. Đại úy quân y vuốt mắt cho đồng chí kia, và rồi tiếng khóc vỡ òa.
*
Tôi là người lính, việc chấp hành kỷ luật quân đội là điều bắt buộc, cũng là vinh dự và là trách nhiệm. Chấp hành giờ giấc ăn, nghỉ, luyện tập, họp hành,... là những nội dung của việc thực hiện đúng kỷ luật quân đội. Vậy mà năm tháng nay tôi rất ghét đi họp.
Họp mà được nghe người chủ trì có khiếu năng truyền đạt giỏi nói chuyện hay, ngắn gọn, dễ hiểu, súc tích, có dẫn chứng sinh động thì thích. Người ta nói học chính trị là khô khan, nhưng nếu người giảng mà giỏi truyền đạt thì buổi học trở nên sinh động, tươi mát. Sợ họp bởi vì từ lúc tập hợp các diễn viên để rèn luyện, học tập, xuất hiện Trần Dũng. Buổi nói chuyện đầu tiên của anh cho đến nay là bốn tháng - tiếp theo bao cuộc họp rồi vẫn một nội dung, cách nói như thế này:
- Chúng ta là chiến sĩ trên mặt trận đánh giặc, chúng ta phải cho tiếng hát át tiếng bom của Mỹ, coi như là chúng ta phải xứng đáng là người quân nhân cách mạng, coi như là chúng ta có vũ khí là tiếng hát. Coi như là chúng ta hát để nâng cao tầm sức mạnh của bộ đội ta là chúng ta đã góp phần đánh giặc Mỹ. Chúng ta phải đoàn kết triệu người như một cùng hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang mà Tổ quốc trao cho.
Cứ duy trì như thế. Chỉ một mình anh nói là đã hết cả hai phần ba thời gian của cuộc họp.
Anh đứng trước hai mươi ba con người, nét mặt lạnh lùng, tay phải chống vào sườn, tay trái vung lên, hạ xuống, đưa ra, đưa vào theo từng câu nói nhằm diễn giải. Ví dụ nói đến từ lên cao, anh chỉ tay lên trời, xuống thấp, anh chỉ tay xuống đất, sang trái, sang phải, rồi vòng tròn, hình vuông, hình nọ hình kia... đều lấy tay minh họa, câu nào cũng đệm ba từ “coi như là”.
- Coi như là đồng chí Châu trống hôm qua ngủ muộn.
- Coi như là nữ đồng chí Họa My coi như là bị sốt nhẹ.
- Coi như là...
- Coi như là...
Tóm lại, anh không có khiếu nói, nhưng vẫn phải nghe, bởi anh là cấp trên, trực tiếp được Bộ Tư lệnh 559 ủy nhiệm quản lý đội văn công xung kích “Hoa phong lan”.
Nhớ lại đêm đầu tiên ngủ ở Trường Sơn, nằm trong hầm chưa quen, ai cũng thấy ngột ngạt khó chịu, ai cũng ra cửa hầm ngồi. Mấy diễn viên nữ nhớ nhà khóc thành tiếng. Đội trưởng Dũng đi kiểm tra thấy vậy, anh nhắc nhở. Và sáng hôm sau, anh tổ chức cuộc họp toàn đội, anh nói:
- Coi như là các đồng chí đã vi phạm coi như là kỷ luật. Các đồng chí không biết giữ gìn sức khỏe để coi như là hoàn thành nhiệm vụ. Các đồng chí không ngủ, đi ra ngoài cửa hầm. Các đồng chí nữ thì khóc. Sao không từ chối ngay từ lúc mới tập trung để coi như là huấn luyện ở ngoài Bắc, sao lại khóc ở đây để làm nhụt chí các đồng đội, để anh em công binh coi như là nghe thấy họ cười cho. Không ngủ đi ra cửa hầm, lỡ bom ném thì sao?
Anh còn nói dài. Không ai nói gì, chỉ có tôi là có ý kiến:
- Tôi thay mặt anh em nói như thế này để khỏi mất thời gian. Chúng tôi mới ngủ hầm lần đầu, chưa quen nên có ra cửa hầm. Chị em nữ đầu tiên xa mẹ, khóc một tý cũng có ảnh hưởng gì, chả ai nghe thấy mà cười. Anh em công binh họ ở cách xa ta đến nửa cây số. Đồng chí không nên vội quy chụp như vậy. Chúng tôi đã thề ra mặt trận sẽ không hèn nhát. Những khó khăn buổi đầu chưa quen thì sẽ rèn luyện cho quen để thích nghi mà phục vụ đồng đội. Tôi xin hết.
Từ đó đến nay, họp triền miên. Đồng đội xì xào, Dũng vẫn bỏ ngoài tai.
Với Trần Dũng, anh sẵn sàng nhường đồng đội giọt nước cuối cùng trong bi đông trên đường hành quân, hay những ngày mùa khô nắng gắt ở Trường Sơn, rồi những miếng lương khô loại cao cấp ăn không dính răng như các loại lương khô khác, nhường bát nước rau luộc..., đó là phẩm chất tốt của người chỉ huy. Chỉ tiếc là cho đến thời điểm này, đã hơn năm tháng kể từ khi thành lập đội và vào mặt trận, anh vẫn cứ nói dài, nói những điều không đáng nói. Động một tý là dọa trả về địa phương, mà bị về thì có khác gì quân nhân đào ngũ, để bia miệng cười chê.
... Họp nhiều, Dũng nói nhiều, chả ai nghe, cứ im lặng, im lặng là phản đối. Tôi nói lại một vài lần, anh không nghe. Tôi có lần nói chúng tôi không phải là các cháu nhi đồng thối tai mà đồng chí dạy dỗ những lời như thế. Họp, họp, họp gì mà lắm thế.
*
Minh có biệt danh Minh khều bởi anh cao hơn mét tám, người không to, không cân đối với chiều cao. Bù lại anh có gương mặt đẹp và giọng hát tốt. Giọng teno vang, sáng, chỗ ngân cao nhất anh có thể lên âm vực là nốt “đô” ngoài khuông nhạc về phía trên.
Minh có thói quen thỉnh thoảng huýt gió. Tiếng huýt rất to, giống tiếng chim trong rừng. Anh thường bị đội trưởng Dũng phê bình về hai cái “tội”. Đang họp, đang làm gì cũng huýt gió. Ngồi trước mặt mọi người cứ vắt chân chữ ngũ.
Minh thôi ngay nhưng khoảng mười phút sau anh lại thế. Tôi nghĩ, nó là do vô thức hoặc một thứ phản xạ không điều kiện, một thói quen khó sửa chứ không phải là tính xấu, nhưng đội trưởng Dũng cứ bắt lỗi.
Lúc còn huấn luyện ở ngoài Bắc, đã mấy lần Minh làm cho bà con nông dân ở nơi chúng tôi đóng quân phải sửng sốt kêu lên:
“Lạ quá, đang đêm mà có tiếng chim ở đâu bay về nhỉ?”.
Nói là nơi đóng quân cho oai, chứ thực ra là chúng tôi được ghép vào ở với các hộ gia đình. Bà con cô bác quý bộ đội lắm, nhất là những gia đình có con đang ở chiến trường. Nghe tin cán bộ xã nói có văn công quân đội về xã ta huấn luyện ba tháng, cả xã vui mừng như sắp có hội. Nhiều gia đình lên ủy ban hành chính xã đề nghị:
- Nhà tôi ba người, bác chủ tịch nhé. Nhà rộng lắm!
- Nhà tôi hai người, cho hai chị bộ đội nhé!
Mẹ Năm có ba con trai đều ở chiến trường. Mẹ là hội trưởng “Hội Mẹ chiến sĩ” của xã. Chồng mất từ đầu kháng chiến chống Pháp, hai con gái lấy chồng ở bên kia sông Hồng. Bà nói với chủ tịch ủy ban hành chính xã:
- Bác chủ tịch. Đoàn về bao nhiêu người, bác cho tôi biết, bác nhường quyền cho tôi phân công anh em ở nhà nào cho hợp lý.
Ông chủ tịch cười khì khì:
- Chúng con sẽ xin ý kiến mẹ, mẹ cứ yên tâm về nhé.
- Bao giờ thì đoàn văn công ấy về?
- Dạ! Ba ngày nữa.
- Nhớ đấy, mẹ đề nghị đấy. Không là mẹ phê bình vì tội hứa suông đấy!
- Con nhớ rồi cụ ơi, con sẽ ghi vào sổ đây, không quên đâu.
Hôm đội chúng tôi về. Thật ngỡ ngàng khi từ đầu xã đến cuối xã, đường vào các thôn xóm đều chăng khẩu hiệu “Nhiệt liệt chào đón đoàn văn công quân đội”.
Sân đình chật cứng người già, trẻ em, phụ nữ, cứ như là dự hội. Mọi người im lặng như tuyệt đối khi ông chủ tịch xã phát biểu:
- Thưa bà con xã Quyết Tiến. Chúng ta vinh dự được trên tin tưởng cử đoàn văn công quân đội về đây huấn luyện. Chúng ta phải giữ gìn đoàn kết quân dân, phải giúp anh chị em hoàn thành nhiệm vụ. Bây giờ tôi có ý kiến thế này. Đoàn có hai mươi bốn người, gồm tám nữ giới và mười sáu nam giới. Tôi phân công như sau: Nhà mẹ Năm, hội trưởng “Hội Mẹ chiến sĩ” xã, sẽ để bốn người về nhà mẹ. Nhà đồng chí Hoà, hội trưởng hội phụ nữ hai người. Nhà mẹ Hà, hội phó “Hội Mẹ chiến sĩ” hai người.
Đám đông ồn ào như chợ vỡ, nhiều tiếng nói rằng ông chủ tịch thiên vị đấy nhé. Chờ mọi người yên lặng, ông chủ tịch nói:
- Chúng tôi biết tấm lòng của toàn thể người dân xã ta đối với bộ đội. Tuy nhiên, việc huấn luyện của đoàn sẽ diễn ra tại đình làng. Xã ta có bốn thôn, đình làng lại ở thôn Trung, do vậy, phải bố trí tất cả ở trung tâm, mẹ Năm, mẹ Hà, chị Hoà và một số gia đình khác ở đó nên xã quyết định như thế. Bây giờ đến nam giới... thế này nhé...
Chờ ông chủ tịch nói xong, tôi hội ý chớp nhoáng với Đội trưởng Trần Dũng rằng, đề nghị xã cho ở rải rác ở các thôn cũng được. Chúng ta vừa huấn luyện, vừa làm công tác vận động quần chúng. Việc đi bộ từ các gia đình ở các thôn kia không khó khăn. Trừ tám đồng chí là nữ, còn mười sáu nam giới, chúng ta nên chia ra ở các thôn.
Đội trưởng Dũng im lặng một lát. Anh nói nhỏ:
- Nhưng đừng để gia đình nào có con gái lớn cho chúng ta ở nhé. Đồng chí nói với ông chủ tịch đi.
- Tôi xin có ý kiến - Bà con bỗng im lặng hết. - Xin phép đồng chí chủ tịch, xin phép các ông các bà, tôi có ý kiến như thế này. Việc phân công các đồng chí nữ thế là được, còn mười sáu nam giới, đề nghị cho về mười sáu gia đình ở các thôn còn lại.
Tất cả vỗ tay rào rào. Ông chủ tịch có ý kiến:
- Sợ các đồng chí vất vả, nhưng thế thì chúng tôi hoan nghênh. Tôi sẽ mời ba đồng chí bí thư của thôn Đông, thôn Hạ và thôn Đoài nhận quân ngay.
Chúng tôi nghe thấy bao nhiêu tiếng xuýt xoa:
- Tiếc quá, nhà mình không được ai.
- Ôi chao, các chị bộ đội ai cũng đẹp thế...
... Buổi chiều hôm ấy, xã mời cơm chúng tôi. Có đông đủ các trưởng ngành: Thanh niên, phụ nữ, “Hội Mẹ chiến sĩ”, hội phụ lão... Không khí thật đầm ấm. Cuối buổi liên hoan, trong lúc ngồi uống nước, ông chủ tịch xã ngỏ ý mong muốn Đoàn diễn phục vụ nhân dân trong xã một đêm. Đội trưởng Trần Dũng thiếu tế nhị khi nói:
- Đội chúng tôi được thành lập trên cơ sở nhặt mỗi nơi một người nên chệch choạc lắm, còn phải luyện tập. Tập luyện nhuần nhuyễn xong, chúng tôi sẽ phục vụ bà con trong xã.
Ông chủ tịch hỏi khoảng mấy ngày thì nhuần nhuyễn. Dũng nói cái này đoàn diễn không trả lời chính xác được.
Sao anh ta không nói để chúng tôi nghỉ ngơi vài ngày để sắp xếp tổ chức, ổn định ăn ở đã. Chả lẽ Dũng không biết những người được tập trung về đội toàn có năng khiếu hay sao. Người biết hát cũng đã qua học hành. Người sử dụng nhạc cụ cũng được học hành bài bản, chỉ nghe người hát nói cho tôi giọng đô, la thứ hay mi trưởng... là người ta sử dụng được ngay...
Tôi bắt đầu có ấn tượng không thiện cảm về Dũng. Chỉ tiếc anh ta đã nói trước, tôi không thể đứng lên cải chính.
*
Việc sắp xếp chỗ ở dù có hợp lý thế nào vẫn gây ra những thắc mắc trong dân, chủ yếu là những lời bàn tán: “Sao không cho nhà tôi một đồng chí nào ở?”. Hay: “Nhà tôi có hai con là bộ đội, nhà ông Lễ chỉ có một con là bộ đội thì có người đến ở. Sao không để đồng chí nào ở nhà tôi? Nhà ông Tuất kia, có ai đi bộ đội đâu mà cũng được đón bộ đội về nhà”.
Ông Tuất là thương binh thời chống Pháp, chỉ có hai ông bà ở với nhau, ba con gái đã lấy chồng. Ông không có con trai thì đi bộ đội thế nào được?
Ông Tâm thắc mắc không có ai ở nhà ông vì chật quá. Lại có một con gái mười chín tuổi, rồi ông bà già với ba con nhỏ của ông nữa.
Các nam giới, mỗi người ở một gia đình. Những gia đình này đa số có con đang ở chiến trường, còn lại là những người dân thành phần cơ bản. Và cả mười sáu gia đình không ai có con gái lớn.
Vui nhất có lẽ là mẹ Năm, rồi mẹ Hà, chị Hoà. Cả ba người đều phấn khởi lắm. Mẹ Hà có hai con ở chiến trường, mẹ ở một mình, cạnh nhà người cháu gái gọi là cô ruột. Người cháu gái thường xuyên qua lại chăm sóc mẹ. Gọi là cháu nhưng chị này cũng năm mươi tuổi, kém mẹ mười một tuổi. Chồng mẹ cũng hy sinh ở Điện Biên. Chồng người cháu gái này là thương binh thời chống Pháp, hiện phải chống nạng đi lại.
Còn chị Hoà, chồng đang ở Lào. Chị ba mươi bảy tuổi, có một con trai lớn mười lăm tuổi và một con gái chín tuổi.
... Tại nhà ông Tuất, nơi Minh khều ở, mới năm giờ sáng ông bà đã thức giấc. Nghe thấy tiếng chim lạ ở trước nhà, ông rón rén ra mở cửa. Thì ra Minh khều đã dậy trước, chạy nhảy quanh sân một lát rồi tập thể dục... giọng. Anh huýt gió giống tiếng chim - có cung bậc âm thanh khác nhau. Thấy ông cụ đi ra, Minh ta im luôn.
Sướng nhất là Họa My, Sơn Ca, Ngân, Nga. Bốn cô này ở nhà mẹ Năm. Mẹ đi chợ mua nhiều bồ kết để các cô gội đầu. Chanh vườn nhà mẹ bảo ăn bao nhiêu cứ hái. Nhờ bốn cô này mà bữa nào chúng tôi cũng có nước rau muống luộc vắt chanh chua. Giống chanh của mẹ Năm gọi là chanh tứ thời, cứ hết trái đợt này lại ra trái đợt khác.
Bếp ăn tập thể đặt ở trong khuôn viên đình làng. Yến là bếp trưởng. Đội chúng tôi được trên đồng ý tuyển ngắn hạn tại chỗ một nữ phục vụ giúp nấu ăn. Cô này là con gái đồng chí bí thư đảng ủy xã, tuổi hai mươi hai, có chồng đi B đã sáu tháng nay.
Mẹ Năm gặp Đội trưởng Trần Dũng đề nghị cắt suất gạo của bốn cô về nhà mẹ, mẹ nấu cho vui. Dũng cảm ơn mẹ vì chúng con phải tuân theo lệnh trên ạ.
Mẹ nói:
- Thế à. Tiếc nhỉ. Rau vườn nhà mẹ nhiều, cứ hái, không phải mua. Để thêm ra được đồng nào mà gửi về cho bố mẹ, chứ các con ra trận thì cũng không tiêu đến.
Tất nhiên, chúng tôi không thể động vào của dân, dù là chiếc kim, sợi chỉ cũng phải trả tiền. Nhưng tấm lòng của người dân xã này suốt đời chúng tôi không thể quên. Hầu như nhà ai có hoa quả gì đều mang đến tặng bộ đội. Có hàng chục thôn nữ đi làm đồng về gặp chúng tôi luyện tập xong trên đường trở về nhà, cô nào cũng bạo mồm:
- Anh bộ đội ơi, em chỉ muốn anh hát riêng cho em nghe thôi.
- Anh bộ đội ơi, làng em có nhiều đứa xinh như các chị văn công bộ đội đấy, các anh ưng cô nào cứ việc nhé...
Họ đấm lưng nhau thùm thụp, tiếng cười ré lên, tiếng cười đuổi nhau vào từng ngõ xóm.
Thôn, xã tổ chức họp đoàn viên ở sân đình. Chật cứng sân chỉ toàn thiếu nữ, nhòm mãi mới có một vài anh ở thành phần nêu trên. Những anh này thường kiếm cớ sang nhà mẹ Năm, mẹ Hà, chị Hòa để mà ngắm Họa My, Sơn Ca, Ngân, Nga, Dung, Hà, Thủy... mà thôi. Nhiều nữ đoàn viên trẻ thì kiếm cớ đến nhà các diễn viên nam, cũng chỉ mà... ngắm các anh em nam giới.
Lịch của chúng tôi: Sáng học chính trị, chiều tập chuyên môn, tối đeo ba lô hành quân. Những lúc tập chuyên môn ở sân đình làng, người dân kéo đến xem rất đông. Gọi là dân nhưng chủ yếu là ông bà già, trẻ em không phải ra ruộng cấy cày. Chiều nào cũng như chiều nào, mới một giờ chiều mà bà con đã đến chật đình, trong khi hai giờ chiều chúng tôi mới luyện tập.
Ai cũng xuýt xoa rằng các nữ diễn viên quân đội đẹp quá. Cũng có nhiều buổi có những thiếu nữ trẻ, đẹp trong thôn đến xem. Thì ra đó là một số những nữ sinh học cấp ba hoặc một số nữ dân quân cơ động của xã, sau buổi tập chạy đến xem, miệng lẩm bẩm hát theo.
Các diễn viên nữ không ngày nào là không nhận được thư của các trai làng, có cả thầy giáo trẻ. Nội dung chỉ là khen em hát hay, múa dẻo, và đẹp lắm, ước gì, ước gì em là, em là...
Chấm lửng, không nói hết câu nhưng ai mà không rõ “em là... ” gì nữa chứ!
*
Về xã Quyết Tiến được mười ngày, chúng tôi tổ chức một đêm diễn phục vụ nhân dân. Đình làng sẽ không chứa nổi. Chúng tôi đưa ra đê sông Hồng. Con đê làng to, rộng. Người xem ngồi trên mặt đê, sườn đê. Dưới chân đê có chỗ đất rộng khoảng sáu mươi mét vuông, chúng tôi đã tìm từ chiều hôm trước. Đèn không phải là đèn điện mà là đèn măng sông. Chỉ có một máy nổ nhỏ và mấy bình ắc quy phục vụ cho hát đơn ca, ngâm thơ, tấu đàn bầu, tấu sáo. Còn hát tốp ca, đồng ca thì hát chay. Tuy nhiên hiệu quả đạt được là rất lớn. Khán giả, năm sáu ngàn người trong xã, và hai xã lân cận kéo đến. Im lặng, trật tự suốt từ đầu đến cuối chương trình, ngoại trừ những tràng pháo tay vang dội sau mỗi tiết mục.
Chương trình phục vụ của chúng tôi nếu ở chiến trường, tùy theo hoàn cảnh có thể kéo dài, rút ngắn thời gian. Nhưng đêm phục vụ ở xã này kéo dài đến hai tiếng rưỡi, mười giờ mười lăm phút mới xong mà bà con còn nán lại rất lâu. Nhiều thanh niên nam nữ kéo xuống chân đê, nơi mảnh đất chọn làm sân khấu để xem mặt anh chị em trong đội, tay chỉ trỏ, miệng thì thầm với nhau những lời khen, chủ yếu là khen mấy nữ diễn viên mặc quân phục rất đẹp. Tôi nhìn thấy ánh mắt họ toát lên vẻ thèm muốn được như mấy chị văn công quân đội. Dư âm của đêm diễn còn theo chân bà con cô bác, anh chị em ra tận ruộng cày, vào những lúc bên ấm trà nóng buổi tối, buổi sinh hoạt đoàn thanh niên, tưởng chừng không bao giờ dứt.
Đội chúng tôi còn phục vụ một đêm nữa cho người dân xã Quyết Tiến này, trước khi chúng tôi rời nơi đây một ngày để vào Trường Sơn.
... Ngày chủ nhật, chúng tôi được nghỉ. Anh em bảo nhau giúp các gia đình vệ sinh nhà cửa, cắt tóc cho trẻ em. Chỉ sau mười lăm ngày về xã này, cả xã biết Minh có tài huýt gió, Châu có tài bắt chước tiếng ngóe kêu khi bị rắn cắp cổ. Và cũng chỉ sau mười lăm ngày, cả xã đều biết tên hai mươi bốn anh chị em trong đội. Họ còn đặt tên Họa My cho Trà My, đặt tên Sơn Ca cho Kim Sơn, một sự trùng hợp với chúng tôi khi đặt bí danh cho từng người. Họ biết Lê Thảo là tổ trưởng tổ nhạc, ba mươi tám tuổi, bốn con, vợ ở nhà làm ruộng...
Từ hôm bộ đội về làng, nhiều nam thanh niên đổi tính đổi nết, không văng tục với nhau, tóc bổ luống đàng hoàng, quần áo luôn giặt sạch sẽ.
Xã Quyết Tiến nằm dọc sông Hồng, đất đai phì nhiêu màu mỡ, diện tích ruộng, bãi khá rộng nhưng thanh niên ra trận hết, nên cày bừa, cấy hái dành hết cho phụ nữ. Trưa, tối, nhà nào cũng chong đèn dầu may nón lá - một nghề phụ cho thu nhập đáng kể. Nam nữ thanh niên ở vùng quê này ăn mặc có khá hơn những vùng quê mà chúng tôi đã biết, đã đến. Đặc biệt, xã có truyền thống hiếu học. Nhiều sinh viên đại học là con em xã này đã tạm dừng bút nghiên để ra trận.
*
Quân y sĩ Lê Đáng đến với đội từ ngày thành lập. Anh là con liệt sĩ thời chống Pháp, xung phong nhập ngũ. Anh đang làm ở Viện quân y 108. Nghe bạn bè kể chuyện về đội “Hoa phong lan” sẽ thành lập, sẽ cần một y sĩ, anh xung phong luôn và được chấp nhận. Nhiều người khuyên anh đừng mạo hiểm. Anh nói là bộ đội mà không biết mặt trận thì... chưa hoàn toàn là bộ đội. Anh cứ lặng lẽ đi, không báo cho mẹ và hai em. Sắp vào Trường Sơn, được nghỉ năm ngày, anh về thăm mẹ, cũng không nói chuyện đi Trường Sơn.
Tôi vô tình bắt gặp mấy lần, Đáng nhìn lén Nga xù, rồi thở dài. Đáng ít nói, không phải vì sống giữa anh em văn nghệ sĩ không hợp môi trường mà tính anh như vậy. Rồi tôi buộc phải để ý xem vì sao Đáng cứ nhìn Nga. Anh không đẹp trai lắm, ở mức bình thường nhưng cao lớn. Cao bằng Minh khều nhưng cơ thể to, cân đối, giọng nói oang oang có tiếng ngân như tiếng chỉ huy. Anh thường lầm lũi một mình. Anh em luyện tập chuyên môn anh cũng đến xem, một mình ngồi một chỗ, luôn ném mắt về phía Nga.
Một hôm, sau bữa ăn, tôi vỗ vai Đáng: “Ghê quá! Anh bạn nhìn Nga xù đến lòi cả mắt mất thôi”. Đáng giật mình quay lại cười hề hề xong im lặng được ngay.
Cứ như thế, mắt của Đáng phải dán khắp cơ thể của Nga đến mấy lớp rồi!...
... Từ lúc mười ba mười bốn tuổi, tôi đã say mê xem hát chèo. Xã tôi có một đội chèo nổi tiếng xứ Đoài (vùng Sơn Tây ngày nay) từ trước Cách mạng tháng Tám. Hòa bình năm một chín năm tư lại được duy trì. Năm một chín năm chín, hợp tác xã được ra đời, đội chèo được hợp tác xã chi công điểm luyện tập để phục vụ bà con cô bác địa phương và hằng năm tham gia hội diễn văn nghệ quần chúng huyện hoặc tỉnh.
Các tích chèo: “Quan Âm Thị Kính”, “Từ Hải chết đứng”, “Lưu Bình - Dương Lễ” đã diễn ở xã tôi hay sang diễn giao lưu với các xã bên cạnh, tôi từng đã xem nhưng không biết chán. Mê chèo - Tôi còn mê cả cô gái trong đội chèo - cô gái có tên là Liễu. Liễu rất đẹp lại hát hay, múa giỏi, thường được phân công đóng vai chính. Từ lúc Liễu xuất hiện trên chiếu chèo, tôi không bỏ sót một buổi nào. Trước buổi diễn, tôi thường đi thật sớm để đứng sát gần sân khấu mà chiêm ngưỡng. Liễu đóng vai Thúy Kiều - Tôi cam đoan rằng cô Kiều của cụ Nguyễn Du cũng chỉ đẹp đến thế là cùng. Năm một chín sáu sáu, tôi bước vào tuổi mười tám, mặc dù còn đang đi học phổ thông trung học mà trong tôi lúc nào cũng hiện lên hình ảnh của Liễu, lúc nào tôi cũng như người mộng du. Biết tôi tương tư Liễu, bạn thân của tôi tên là Quang bảo: Cậu hãy viết thư cho Liễu bày tỏ lòng mình, mạnh dạn lên, sợ gì.
Tôi nghe Quang, nhưng khốn nỗi tôi học văn dở ẹc, bài tập làm văn chỉ được ba hoặc bốn trên mười điểm là cùng. Tôi liền nhờ anh con bác tôi học giỏi văn thơ viết hộ. Sau đó, tôi chép và gửi cho Liễu qua đường bưu điện, và hồi hộp chờ năm hôm sau tôi nhận được hồi âm của Liễu:
“Cảm ơn anh, muốn kết thân “trên mức tình cảm” với Liễu thì anh phải tập hát, tập chèo, tập thổi sáo để vào đội chèo với Liễu, anh nhé!”.
Việc này thì thật là Liễu thách đố tôi - chẳng khác nào bảo tôi đem mùn cưa mà nấu thành cơm. Cái giọng khê đặc của tôi, cái ngón tay dùi đục của tôi thì làm sao mà hát với đàn được? Thế nhưng tôi vẫn nuôi hy vọng.
Một hôm, tôi gặp Liễu ở chợ huyện. Trước mặt Liễu, lưỡi tôi cứng lại, bao nhiêu câu nói hay nghĩ ở trong đầu đã bay đi hết. Tôi nói đứt quãng, lộn xộn, đại ý là: Tôi vẫn xem Liễu diễn chèo bốn năm nay, tôi rất quý và nhớ Liễu, tôi muốn là người bạn... suốt đời với Liễu.
Liễu trả lời tôi em chưa biết rõ về anh, mặc dù cũng có nhận được thư anh gửi, nhưng anh phải học cho xong phổ thông đi đã. Chủ nhật mời anh sang nhà em chơi!
Tôi sướng quá, chỉ chờ có thế. Được người đẹp mời đến nhà thì có gì sướng bằng.
Sáng chủ nhật, tôi mượn quần, áo, dép, mũ của người anh con ông bác để xuống nhà Liễu. Trên đường đi, tôi vui sướng hát thầm bài hát thịnh hành “Không cho chúng nó thoát”.
Rủi cho tôi, mẹ Liễu nói rằng cô ấy đi gặt lúa đến tối mới về. Tối hôm đó tôi lại xuống và liên tiếp bảy tối liền đều không gặp được Liễu, khi thì Liễu đã về quê ngoại ăn giỗ, khi thì đến giữ cháu cho chị gái bận việc riêng...
... Tên của Liễu được tờ báo của tỉnh nhắc tới nhiều lần. Tôi biết rằng, không chỉ riêng tôi mơ mộng đến Liễu, mà còn bao chàng trai trong xóm ngoài làng cũng mơ mộng như tôi. Thời gian cứ lặng lẽ trôi, tôi vẫn đi xem Liễu hát chèo. Lần này trong vở chèo mới”. “Tình quân dân”, Liễu đóng cô gái dân quân cùng anh bộ đội bắt sống phi công Mỹ. Tôi như nuốt từng lời của Liễu, những câu hát chèo mượt mà. Tôi căng mắt nhìn thân hình thon thả, khuôn mặt của Liễu rực rỡ như hoa dưới ánh đèn sân khấu, để rồi lại đắm chìm vào mộng mơ. Ngoài đời Liễu đã đẹp, lên sân khấu Liễu còn đẹp hơn.
Tết Nguyên đán năm một chín sáu bảy, vào ngày rằm tháng Giêng âm lịch, Đội chèo làng tôi lại biểu diễn đón xuân, phục vụ nhân dân ở sân của đình làng. Tôi lại đi tìm Liễu. Nhưng quá thất vọng bởi vì - người đóng vai chính bây giờ là một cô gái khác. Màn đen như bao phủ trước mắt tôi khi có người cho tôi biết. Liễu đã nhận trầu cau với cái anh đóng vai bộ đội trong vở “Tình quân dân”. Gia đình họ đã xin cho Liễu vào làm công nhân trong một nhà máy ở thành phố Việt Trì.
Hàng chục ngày tôi như kẻ thất tình lang thang. Ngồi trong lớp học, chữ nghĩa không chịu ở trong đầu. Tôi nhớ tới câu thơ của Nguyễn Bính, rồi vận vào chuyện của mình bằng một câu:
“Vắng bóng cô em từ dạo ấy
Để buồn cho những khách đi xem”
Tháng ba năm một chín sáu tám, tôi nhập ngũ, sau sáu tháng huấn luyện, được cử đi học y sĩ...
Dù muốn hay không, đã có một dấu lặng neo vào đời tôi từ thủa học trò...
Trên đây là chuyện riêng của quân y sĩ Lê Đáng. Anh đã kể tôi nghe, khi tôi trêu anh rằng, chắc mê Nga xù, nên cứ thấy anh nhìn cô ta từ khi mới tập trung anh em lên đây. Tôi nhớ mãi câu anh nói ngày Liễu đi lấy chồng, tôi tự nhiên ghét bộ đội vì... vì bộ đội mà tôi mất Liễu, mặc dù chồng Liễu không phải là bộ đội. Nhưng bây giờ thì tôi hiểu, tình yêu có ở con tim.
Câu chuyện kể vào trước ngày chúng tôi lên xe ra mặt trận. Chuyện kể trước bình minh, Đáng giải thích vì sao cứ nhìn thế vì Nga giống Liễu đến... chín mươi lăm phần trăm nên đã gợi cho Đáng nỗi buồn.
Còn cái anh chàng Châu, kể chuyện yêu cô giáo Hoa cho tôi nghe, khi mà đã luyện tập được ở Bắc được hai tháng. Tôi hỏi, từ đó đến nay có thư từ gì không? Châu nói gửi đến gần trăm lá thư, chỉ nhận được bảy, tám lá. Thư nào cô cũng xin lỗi vì đã có người yêu rồi. Người yêu cô dạy ở trường Đại học Sư phạm - nơi cô là sinh viên của ông ấy.
- Vậy sao cậu vẫn viết tiếp thư cho người ta?
- Vì... là vì..., ông đã yêu chưa? Chưa hả? Nếu chưa thì chưa hiểu được yêu là gì, khó giải thích lắm. Tóm lại, người ấy như trời sinh ra để cần cho mình, thế thôi!
Tôi gật đầu, bởi vì tôi cũng đã và đang rung động trước Họa My.
“Khổ thật ”, có ai đó đã nói - đàn bà là gì mà làm cho đàn ông phải khổ vậy. Có phải bùa mê thuốc lú đâu mà đàn ông dính vào là người ngợm lúc nào cũng lơ mơ, lơ lửng.
Sáng mồng hai tháng năm năm một chín bảy hai, tôi dậy lúc sáu giờ, nghe những tiếng người ồn ào ở phía đơn vị công binh làm đường. Tôi chột dạ, chả lẽ lại có đồng chí nào đó hy sinh. Không đúng, cả đêm qua không thấy máy bay Mỹ hoạt động ở khu vực này. Vậy thì có chuyện gì xảy ra. Rồi tiếng ồn ào lớn hơn, nghe kỹ là tiếng reo vui. Đang thắc mắc, Châu trống chạy vào:
- Đồng chí đội phó, Quảng Trị giải phóng hoàn toàn rồi.
- Hả, tin ở đâu vậy?
- Đài Tiếng nói Việt Nam đưa tin, bên anh em công binh họ nói, giải phóng ngày hôm qua, mồng một tháng năm đồng chí ạ.
Tin loang rất nhanh, toàn đội không ai bảo ai, đều chạy đến chỗ Đội trưởng Trần Dũng và tôi. Nhiều tiếng nói phấn khởi:
- Có lẽ chúng ta sẽ được vào Quảng Trị phục vụ vùng giải phóng, đồng chí đội trưởng ạ.
- Không được đi cũng phải đề nghị, đồng chí đội trưởng ơi.
- Nhanh lên, kẻo giải phóng đến Sài Gòn rồi!
Đám đông mỗi người một câu, Trần Dũng vui lắm, anh cười hớn hở. Tôi chưa thấy anh vui như thế kể từ lúc thành lập đội đến giờ. Chờ mọi người im lặng, anh nói các đồng chí cứ chuẩn bị tinh thần, từ đây vào Quảng Trị không xa. Ta đang ở gần cuối đất Quảng Bình, giáp ranh Vĩnh Linh, Quảng Trị. Chờ ý kiến chỉ đạo của cấp trên. Bây giờ, các đồng chí chuẩn bị phục vụ Đại đội lái xe số Bốn, họ đã tập kết gần đây từ ba giờ sáng. Họ đang chờ chúng ta. Đúng tám giờ sáng nay sẽ tiến hành.
Chúng tôi vui lắm. Đài Tiếng nói Việt Nam đưa tin từ mấy tháng nay, mặt trận Quảng Trị rất ác liệt. Nay đã giải phóng, kết thúc bao nhiêu năm quân và dân hai miền đã chiến đấu và hy sinh anh dũng.
Quảng Trị giải phóng, tức là chúng ta thuận lợi nhiều về đường giao thông liên lạc, về mở rộng căn cứ hậu phương, về kho tàng, về vận chuyển nhân tài vật lực vào Nam. Điện khẩn từ Hà Nội vào, nội dung:
“Toàn mặt trận không được chủ quan. Mỹ thua đau ở Quảng Trị, chúng càng hung hăng hơn, tàn bạo hơn. Mỗi cá nhân, đơn vị trên tuyến đường Trường Sơn cần cảnh giác, sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ bất kỳ giá nào”.
Tiếp những ngày sau đó, qua đài thu thanh, chúng tôi được biết Mỹ - ngụy vẫn xua quân tái chiếm Quảng Trị nhưng không được. Thành cổ Quảng Trị, tâm điểm của cuộc giao tranh giữa địch và Quân giải phóng không còn một viên gạch lành suốt tám mươi mốt ngày đêm. Sau cùng chúng rút lui thảm hại tại Quảng Trị.
... Tám giờ, chúng tôi phục vụ Đại đội lái xe số Bốn. Địa điểm, tại bãi cỏ ven con suối cạn nước, dưới tán rừng già, cách đường Trường Sơn khoảng hai cây số đường chim bay, chứ không phải chim bộ như Châu trống nói vậy. Với nhiệm vụ phụ trách chương trình của đội, tôi đề nghị ngoài bài hát “Bác đang cùng chúng cháu hành quân”, tấu sáo “Anh vẫn hành quân” và độc tấu đàn bầu “Vì miền Nam” đưa lên đầu, còn lại là những bài hát, bài thơ về ngành lái xe, như: “Tôi người lái xe”, sáng tác An Chung; “Bài ca người lái xe”, sáng tác Nguyễn Đức Toàn; Hợp ca “Bài ca giao thông vận tải”, sáng tác Hoàng Vân; “Chào em cô gái Lam Hồng”, sáng tác Ánh Dương. Sau là kịch ngắn “Anh lái xe và cô chống lầy” và “Quân reo quê mẹ Quảng Trị anh hùng”. Chương trình khoảng một tiếng đồng hồ.
Anh em lái xe im lặng nghe. Im lặng đến tuyệt đối. Tôi, người thường xuyên tiếp xúc với anh em trong đội của mình mà buổi diễn này cũng làm tôi xúc động thật sự. Họa My, Sơn Ca, Minh khều,... hát hay quá, giọng hát của đồng đội tôi như thấm từng lời vào gan ruột người nghe. Tôi để ý, có nhiều đồng chí lái xe vỗ nhịp hát theo, tất nhiên họ chỉ khẽ hát. Tôi biết, các đồng chí ấy thích hát, trong người có tý máu văn nghệ sĩ nên đàn nhạc cất lên đã muốn nhảy múa chân tay hoặc cao giọng hát theo. Như tôi đây, lúc Minh khều hát “Bài ca người lái xe”, tôi cũng là một diễn viên hát, cũng muốn nhảy lên hát cùng. Nghe Lê Thảo đàn bầu “Vì miền Nam”, tôi nghĩ tới quê nhà với dòng sông, bến nước, cây đa làng tỏa mát, những chiều chăn trâu cùng trẻ em trong xóm mót thóc trên đồng...
Sau buổi phục vụ, hơn 80 chiến sĩ lái xe ào đến bắt tay, hỏi thăm sức khỏe rồi hỏi thăm quê quán của nhau, nhiều người xin địa chỉ của các nữ diễn viên.
Tình cảm ấy làm chúng tôi mừng rơi nước mắt. Tôi chạnh nghĩ, ngày mai trong những chiến sĩ lái xe quả cảm ấy, có ai bị bom thù hất xuống vực thẳm Trường Sơn. Như mới chiều hôm kia, bốn xe chở gạo bị bom hất xuống vực lúc đang tiếp tục chuyển bánh về Nam. Tám đồng chí lái xe thì năm hy sinh, ba bị thương nặng. Họ nói gạo này chở vào tiếp sức cho quân dân Quảng Trị! Thế mà, chỉ còn một ngày nữa, Quảng Trị giải phóng mà các anh thì nằm lại. Trẻ quá, những đồng chí hy sinh tuổi đời mới mười tám, đôi mươi. Thật cảm động là, sau lúc biểu diễn thăm hỏi nhau, anh em ở Đại đội lái xe số Bốn nói trên chiêu đãi chúng tôi lương khô loại một, loại PA70 màu cà phê, là loại ăn không dính răng như loại màu trắng, rồi thì họ tặng chúng tôi mỗi người một kilôgam đường, hai hộp sữa bột, lại thêm một kilôgam lương khô nữa.
Chúng tôi không nhận không được. Có đồng chí nói:
- Các đồng chí ăn để có sức mà hát. Hát mạnh vào, cơm gạo nuôi phần xác, tiếng hát lời ca nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta.
Đúng quá, đồng chí nói đúng quá. Có chiến sĩ trẻ nói với Họa My, Sơn Ca: “Thịt hộp, đường sữa của em, hai chị cứ cầm lấy đi, em còn nhiều. Mà biết đâu, mai em hy sinh thì không có người dùng. Nào, hai chị, nghe em đi!”.
Họa My, Sơn Ca òa khóc. Đồng chí ấy còn nói đừng khóc, chiến tranh mà. Nhà thơ Nam Hà đã nói:
“Xa nhau không bao giờ rơi nước mắt
Nước mắt dành cho ngày gặp mặt”
Không hiểu sao, từ vô thức, tôi bật lên lời hát “Trên đỉnh Trường Sơn, ta hát bài ca, gửi tới quê nhà bao la biển xanh sóng vỗ hiền hòa...”. Bài “Trên đỉnh Trường Sơn ta hát” sáng tác Huy Du, được tất cả ùa hát theo, âm thanh làm sôi động cả một khoảng rừng Trường Sơn mênh mông.
Hát mà nước mắt chúng tôi chảy, chảy vì tình cảm đồng đội trong bão lửa, và vì... lời nói tưởng là bi quan nhưng thật ra là rất lạc quan của đồng chí lái xe kia. Giọng tôi nghẹn lại, nhưng vẫn cố hát. Dẫu là đá, dẫu không phải người đa sầu đa cảm cũng phải bật khóc trước lời nói chân thành của đồng chí lái xe trẻ tuổi kia.
Lái xe vận chuyển thực phẩm, lương thực đạn dược, vũ khí vào Nam, đi ra lại đi vào, họ nói lý do vậy để anh em chúng tôi nhận quà của họ.
Tôi nói chúng tôi đã được cấp đủ nhưng họ nói, nhưng lao động nghệ thuật vất vả hơn, “ăn như múa, ngủ như ca” mà. Cầm lấy đi, các đồng chí. Có chiến sĩ lái xe tặng mấy diễn viên nữ vải dù pháo sáng của Mỹ, hộp rau khô,...
Chúng tôi, mỗi người trước khi vào Trường Sơn được trang bị một ba lô con cóc đựng đúng ba mươi kilôgam, trong đó mười lăm kilôgam gạo, còn lại là tăng võng, quân phục, thuốc men, dầu gió, đường sữa. Nhưng đường sữa đã hết. Còn gạo vì đến đơn vị nào đã có đơn vị đó lo theo chỉ đạo của Tư lệnh Đoàn 559. Cho nên, việc anh em lái xe tặng chúng tôi sữa, đường, lương khô, thịt hộp... là ngoài dự kiến. Nhưng không thể không nhận, bởi họ nói anh chị em là đồng đội của chúng tôi, là anh em một nhà, khi cần tiếp máu cũng vui vẻ cơ mà?
Cuộc chia tay với đơn vị nào, tổ chiến sĩ nào trên đường Trường Sơn sau buổi diễn cũng cảm động đến nao lòng, nhưng với Đại đội lái xe số Bốn này, một cuộc chia tay để lại dấu ấn sâu nặng nhất trong đời quân ngũ của những người văn nghệ sĩ quân đội chúng tôi. Và sau này, tôi còn nhiều cuộc gặp gỡ, chia tay cảm động như thế.
- Đi nhé, hẹn gặp lại ở quê nhà.
- Đi nhé, hẹn gặp lại ở Sài Gòn ngày chiến thắng.
- Họa My ơi, Ngân, Nga ơi, bọn anh đi nhé, hẹn ngày về... cưới em đấy nhé, chờ anh nhé.
- Chị Họa My, chị Sơn Ca ơi, chúng em đi nhé.
Những tiếng cười giòn giã. Xe nổ máy, rồi chuyển bánh, anh em lái xe vẫn thò tay ra ngoài buồng lái vẫy chào lưu luyến. Có đồng chí lái xe còn nói to:
- Tuần sau, gặp các đồng chí ở Thành cổ Quảng Trị.
Cuộc chia tay đầy tiếng cười và cũng đầy nước mắt. Trưa ấy cơm ế, ai cũng không muốn ăn. Tôi và Đội trưởng Dũng, miệng động viên anh em, nhưng cũng không ăn được.
... Nghỉ trưa đến mười ba giờ ba mươi phút, chúng tôi di chuyển vào địa điểm mới cách địa điểm cũ ba kilômét đường rừng. Đây là điểm tập kết thương binh (chủ yếu là gãy chân, tay đã được bó bột và sơ cấp cứu) để chờ xe chuyển ra Bắc.
Bốn giờ chiều, trong rừng cây săng lẻ, biết có văn công đến, ban lãnh đạo nơi tập kết thương binh đã cho anh em dọn quang những cây nhỏ để lấy chỗ cho chúng tôi biểu diễn.
Gần một trăm thương binh chuyển từ Quảng Trị ra. Ai cũng chống nạng, chân tay bó bột cứng nhắc. Có ít người bị sọ não, quấn băng trắng. Có người cụt hẳn một tay. Có đồng chí bị mất một mắt nhưng băng kín, nhờ đồng đội dắt đến bãi xem.
Miệng hát đấy mà mắt chúng tôi đắng ngắt, cố kiềm chế mà nước mắt ròng ròng. Đội trưởng Dũng phải nhắc các diễn viên nữ gắng lên. Không để nước mắt chảy cũng là một chiến công của các đồng chí đáng ghi nhận. Nước mắt, trong lúc này phải coi là kẻ thù của những người đang chiến đấu và chiến thắng.
Sau màn hợp ca “Bác đang cùng chúng cháu hành quân” và tấu đàn bầu “Vì miền Nam” của Lê Thảo là việc... hát theo yêu cầu của thương binh:
- “Người ở đừng về” đi, các đồng chí văn công ơi.
- “Nổi lửa lên em” đi các đồng chí văn công.
- “Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người”.
- “Hà Nội niềm tin và hy vọng”.
- Tôi người Hải Phòng, đồng chí hát “Thành phố hoa phượng đỏ” đi.
- Tôi Hà Tây, “Hà Tây quê lụa” đi, đồng chí văn công ơi.
- Tôi, Nghệ An đây, “Tiếng hò sông Lam” của Đinh Quang Hợp đi nào.
- Tôi, Quảng Bình, “Quảng Bình quê ta ơi”, đồng chí nhé.
Còn tôi, Thanh Hóa đây, “Chào sông Mã anh hùng” của ai nhỉ, à à, Xuân Giao, của Xuân Giao đấy...
- Tấu sáo “Trên đường chiến thắng”, và “Anh vẫn hành quân” các đồng chí ơi.
- Ơ ơ, còn thơ, thơ nữa, ngâm thơ “Bác ơi” của Tố Hữu, cả “Chào Xuân bảy mốt” nữa.
Cứ thế, chúng tôi hát, tấu nhạc theo yêu cầu của thương binh. Có ý kiến muốn đồng chí đàn bầu bài “Hoa Chăm Pa” của Lào và “La-ha-ba-na xinh đẹp” của Cu Ba đấy nhé.
Im lặng tuyệt đối. Và vỗ tay. Có đồng chí thương binh cụt tay thì vỗ vào đùi bôm bốp. Buổi diễn kéo dài gấp đôi thời gian so với dự kiến, cả kịch, cả hát, cả tấu nhạc hơn ba tiếng đồng hồ.
Kết thúc chương trình rồi, bỗng đồng chí thương binh hỏng mắt có ý kiến “Quảng Trị mới giải phóng”, các đồng chí hãy hát “Quân reo quê mẹ Quảng Trị anh hùng” đi, ngày mai chúng tôi về Bắc, biết bao giờ gặp lại. Hu hu hu...”. Lạ quá, đồng chí ấy bật khóc, vừa khóc vừa nói: “Mười nghìn đồng đội tôi nằm ở Thành cổ Quảng Trị, hu hu... hu”.
... Tám giờ tối xong cuộc, chúng tôi ai nấy mệt nhoài nhưng được bữa ăn ngon: Thịt hộp nấu với quả sấu rừng. Các anh nuôi của trạm đón tiếp và trung chuyển thương binh nấu khéo quá.
Đêm, chúng tôi tiếp tục phục vụ đến hai mươi tư giờ. Không dám thắp đèn, mặc dù ở dưới tán rừng già. Nhưng có pháo sáng của máy bay Mỹ, dù không nhìn rõ mặt nhau nhưng giữa người nghe và người hát gặp nhau bằng lời hát, tiếng đàn. Có đồng chí thương binh nói tôi muốn xem điệu múa “Chàm rông” nhưng mà tối quá, các đồng chí nhỉ. Thôi, mong các đồng chí nổi nhạc điệu múa “Chàm rông” đi nào.
Đêm, chúng tôi hát những bài mà buổi chiều chưa hát: “Trên đỉnh Trường Sơn ta hát”, “Đêm Trường Sơn nhớ Bác”, những bài về người lái xe, ngâm thơ bài “Mẹ Suốt” của Tố Hữu.
Có khác buổi chiều là đêm nay xong chương trình, chúng tôi lắng nghe ý kiến của các đồng chí thương binh tâm sự. Có người kể về quê hương mình, có người kể về mẹ, về cha, về vợ con mình. Có người thì nói chúng tôi không sợ chết, mà chỉ lo ở nhà cha mẹ già yếu, các con nhỏ thiếu ăn. Nói xong hu hu khóc. Có người nói dù sao chúng tôi còn được trở về, dù có mất đi phần máu thịt quan trọng nhưng còn bao đồng đội tôi nằm ở bờ sông Thạch Hãn. Mai chúng tôi về Bắc, chúc tiếng hát các đồng chí bay nhanh vào Nam, bay vào Sài Gòn ngày chiến thắng!
Trường Sơn cuối mùa khô, ngày nắng nóng nhưng đêm dịu mát. Khuya phải đắp chăn vì sương lạnh. Sương đọng thành hạt rơi xuống mặt tăng, thấm xuống võng nằm. Tôi không ngủ được, tôi tin đồng đội cũng không ai ngủ được nên cánh võng cứ đong đưa. Tôi hát thầm “Bài ca bên cánh võng” - bài mà tôi vẫn hát trong chương trình phục vụ tại các điểm, mà lúc ngoài Bắc tôi chưa tưởng tượng được ra nằm võng Trường Sơn có cảm giác như thế nào. Chúng tôi đã từng mắc võng ngủ ban ngày lúc hành quân. Nhưng ngủ đêm thì đêm nay là đêm đầu tiên ngủ trên võng.
Không ngủ được, tôi nhớ đến Loan, cô giáo dạy cấp hai trường làng tôi. Bốn năm trước, tôi để ý cô. Lúc quen, tôi có rủ ra đê sông Đà chơi. Tôi nói về tình cảm của tôi với Loan. Loan nói: “Tha lỗi cho em, em đã có người yêu rồi”. Tôi thất vọng. Đêm ấy ngồi có hơn một tiếng thì về. Trước khi chia tay để về với đơn vị tôi hỏi lại, Loan vẫn cười giòn khanh khách sau khi nói em đã có người yêu rồi mà!
Ngu thật, Loan đùa giỡn mà tôi tưởng thật, thế là tôi không thư từ gì nữa. Tôi kể chuyện này với đồng chí trợ lý chính trị ở Thành đội Thủ đô, nơi tôi làm việc. Anh nói: “Cậu không tinh ý tý nào. Có người yêu rồi, ai dám đi chơi đêm với cậu, họ nói vui đấy. Cậu phải viết thư ngay xin lỗi cô ta ngay”. Tôi nghe anh, viết thư cho Loan, ba lá liền không thấy hồi âm. Lá thứ tư, nhận được, thì là chữ của em trai Loan, vẻn vẹn mấy chữ “chị Loan đã đổi về thị xã, sắp lấy chồng rồi, chúc anh vui khỏe”.
Loan là người làng khác, học xong Trung cấp Sư phạm về trường cấp hai làng tôi dạy. Tôi quen ngay từ năm học đầu tiên mà cô dạy. Hôm ấy tôi đi xe đạp từ thị trấn về, một cô gái đi bộ cùng chiều, cô nói anh bộ đội cho em đi nhờ về làng Xuân Thành với. Tôi dừng xe hỏi: “Cô đi đâu?”, cô nói: “Em dạy học ở đó”. Quen nhau là như thế, đơn giản quá. Thư từ qua lại vài lần. Rồi mất nhau, cũng đơn giản quá, tôi tự trách tôi, mà không, tính tôi hay tin người, ai nói gì cũng nghe, huống chi là đã yêu bao giờ mà biết là phụ nữ cũng hay thử lòng các chàng trai bằng câu “em đã có người yêu rồi”.
Nỗi buồn vì thất tình qua đi nhanh chóng vì tôi phải tập trung cho công việc và một năm sau tôi gặp Họa My ngay trong ngày thành lập đội “Hoa phong lan”.
*
Họa My có vẻ đẹp hiền dịu, điệu đi dáng đứng nhìn sang trọng, nhưng làm việc gì cũng nhanh nhẹn. Sơn Ca lại quá cẩn thận hoá ra thành chậm chạp. Ví như trang điểm trước khi biểu diễn, Họa My chỉ cần mười lăm phút nhưng Sơn Ca phải bốn mươi phút. Trong kịch ngắn “Thành phố im lặng”, Sơn Ca đóng nữ điệp viên của phát xít Đức rất đạt. Cô thích hợp với các vai hoạt bát, ngang tàng. Họa My thích hợp với các vai hiền dịu, ngoài đời cô cũng vậy. Sơn Ca đốp chát luôn vì thẳng tính, Họa My thì nhỏ nhẹ, từ tốn. Đám đàn ông chúng tôi ở đội, đa số thích mẫu người như Hoạ My. Tôi là một trong những số đó.
Thực ra, mấy diễn viên nữ trong đội “Hoa phong lan”, mỗi cô đẹp một vẻ, nói như Tuấn cười: “Cô nào lấy mình cũng được. Mình mà có quyền như vua chúa ngày xưa thì mình xơi... hết, không bỏ cô nào”. Sơn Ca nghe thấy đốp chát (tất nhiên là vừa thôi): “Làm vợ anh để mấy cái răng nó làm vỡ đầu chúng tôi à?”.
Lúc chúng tôi còn huấn luyện ở ngoài Bắc, nếu gặp một nam một nữ đi với nhau, dân làng và ngay cả chủ nhà chúng tôi ở cũng đều nghĩ là vợ chồng hoặc là đang yêu nhau.
Tôi hay đi với Ngân tổ múa. Đội trưởng Dũng cứ thích gần Họa My, luôn tìm cách đi cùng Họa My. Tuấn vẩu đi với Sơn Ca, Bình ắc-coóc đi với Thủy đàn thập lục, Minh khều đi với Yến phục vụ. Châu trống đi với Dung, Mỹ thổi sáo đi với Hà, Quân y sĩ Lê Đáng đi với Nga.
Đi thì đi, nhưng mắt người nọ vẫn nhìn kín đáo người kia. Vì quy định cấm yêu nhau khi đang còn thực thi nhiệm vụ, nên không ai dám thổ lộ bằng lời, chứ đừng nói đến hành động. Ví như muốn tặng người yêu mảnh dù pháo sáng, hoặc tặng anh cái khăn tay, cũng phải lén lút. Thư tỏ tình cũng phải lén lút, xem xong xé ngay không được để cấp trên biết. Nghiêm cấm đêm hôm đi chơi cặp một.
Lúc huấn luyện ở ngoài Bắc rồi vào Trường Sơn này, Đội trưởng Trần Dũng là hay lấy cớ đi kiểm tra để gặp Họa My, nhưng anh không biết nói cho nó hoạt bát, lưỡi bị cứng lại, nên chỉ nhìn Họa My đắm đuối. Viết thư thì anh cũng không có khả năng. Tôi cũng có thuận lợi là người phó phụ trách chuyên môn nên thường gặp gỡ Họa My. Tuy nhiên, tôi láu cá hơn Trần Dũng đó là tôi đến với tất cả anh chị em trong đội, lúc thì gặp gỡ từng người, lúc thì gặp gỡ hai, ba người. Và, tôi công khai gặp Họa My, gọi Họa My ra trước cửa hầm, tay chỉ trỏ lên trời hoặc chỉ ra xa nhưng mồm thì nói về tình cảm của mình với Họa My. Họa My nói, cẩn thận, anh Dũng nhìn thấy.
Quả là Dũng nhìn thấy mấy lần, tôi lại nói lảng chuyện khác, nói to cố tình để Dũng nghe thấy:
- Không được đâu, đồng chí phải hát bài “Cô gái vót chông”, đồng chí Sơn Ca hát không bằng đồng chí đâu...
Hoặc là:
- Tôi đã nhắc đồng chí từ hồi ngoài Bắc là đồng chí lười ngủ trưa, ảnh hưởng đến sức khoẻ, đó cũng là vi phạm kỷ luật quân đội đấy.
Mặt Họa My tỉnh bơ, tôi biết cô cố gằng nín cười mà trả lời cũng rất to:
- Tôi khó ngủ từ mấy tuần nay, đồng chí phó chỉ huy ạ, tôi sẽ cố gắng khắc phục.
Hoặc có lần, tôi nói to: “Tưởng chuyện gì, tắc kè nó kêu mà cũng sợ. Thôi dẹp đi, chuyện không đáng nói nhé”.
Trần Dũng vẫn nghĩ tôi và Sơn Ca yêu nhau bởi cô ấy hay đến chỗ tôi. Nhưng, như đã nói ở trên, tôi phải đánh lạc hướng để Dũng tin rằng tôi không có ý định với nữ diễn viên nào của đội...
Sau cái hôm nghe tin Quảng Trị giải phóng, tôi chính thức ngỏ lời yêu. Họa My nói: “Nếu còn sống trở về, Họa My sẽ lấy anh làm chồng. Thế thôi nhé, bớt gặp nhau đi, mà đừng có oang oang cái mồm với anh Châu, anh Minh đấy, nghe chưa, chàng trai của em!”.
Tôi như rụng tim khi nghe câu này.