Lê Thảo có hệ tiêu hóa kém lắm. Ăn gì lạ miệng là kéo quần không kịp, dù miếng lạ ấy là ngon. Chả thế mà tôi thấy anh luôn xin thuốc clo-rô-xít của quân y sĩ Lê Đáng. Anh nói chỉ loại này mới trị nổi.
Ngược với Thảo là Tuệ còm, cũng ở tổ nhạc, anh bị táo bón. Lê Đáng nói nên ăn nhiều rau xanh, uống nước nhiều, ăn khoai lang, lá rau lang, mồng tơi thì hết táo bón. Rồi thì ăn chuối tiêu! Rồi, biết rồi. Ngoài Bắc không thiếu chứ ở Trường Sơn thì làm gì có những thứ này, nhất là mùa khô.
Kiêng nước chè đặc, ớt. Rồi! Cái này dễ nhưng Tuệ lại mê chè đặc. Ừ thì uống chè đặc rồi ăn nhiều rau xanh, chuối tiêu cũng đỡ nhiều. Bị táo bón thì phân keo lại nhỏ như phân dê. Ngồi lâu, rặn méo mặt mãi mới ra. Vào đây, Trường Sơn đang mùa khô, cái thứ cần đầu tiên là nước, không đủ uống, bị táo bón là đương nhiên.
Kỳ lạ hơn là Lân béo, cũng ở tổ nhạc, lại bị kiết lỵ mãn tính mới lạ. Ăn hơi lạ một tí cũng bị. Phải dùng suyn-pha-mít cao liều.
Thế cho nên mới có chuyện chiều qua, khi chúng tôi phục vụ xong ở Tổ rà soát bom mìn số Ba của Trung đội Một, Đại đội công binh số Hai, được anh em chiêu đãi một bữa ốc! Ốc nhặt ở hốc đá trong suối. Ốc nấu với hoa chuối rừng. Thiếu gia vị như mẻ, lá lốt. Nên thay bằng lá rừng, thêm mỳ chính. Lính ta ăn ngon quá...
... Bảy giờ biểu diễn trước cửa hầm, địa điểm này là mượn của Ban chỉ huy đại đội. Khán giả chỉ có tổ rà phá bom mìn, bảy người với đồng chí đại đội phó, chính trị viên. Đại đội trưởng họp trên binh trạm chưa về.
Sau lời giới thiệu của Họa My là màn đồng ca nam nữ. Chết cha rồi, Thảo vừa đó mà không có mặt. Đội trưởng Trần Dũng khó chịu nhăn mặt, tôi nói cứ bình tĩnh và ra nói với anh em ngồi trước mặt:
- Do trục trặc kỹ thuật cây đàn bầu... Xin phép các đồng chí cho chậm năm phút - Nói dối đến vô lý, vì... hợp ca chỉ có ắc-coóc của Bình đệm là đã đủ rồi.
Anh em vỗ tay đồng ý. Nhưng bảy phút rồi. Đành cho Họa My ngâm thơ trước. Ngâm thơ, chỉ cần sáo trúc của Mỹ là được. Vậy mà sau bài “Chào xuân Bảy mươi mốt” của Tố Hữu, chưa thấy Thảo. Tôi lên giới thiệu luôn: “Giọng thơ vừa rồi là của Họa My, chim Họa My của chúng tôi, của cả Trường Sơn, bây giờ là giọng hót của một con chim nữa, đó là... tiếng hát của Sơn Ca, bài hát mà Sơn Ca trình bày đó là: “Cô gái vót chông”, nhạc và lời của Hoàng Hiệp”.
Vỗ tay rầm rầm...
Hết bài hát của Sơn Ca, tôi ngó vào, chưa thấy Thảo. Tôi ứng khẩu luôn:
- Đại bác của quân thù gầm lên nhưng Họa My, Sơn Ca không tắt tiếng. Tất cả vẫn cất tiếng hót vang, hót lên để chào bình minh đang rạng, chào mùa Xuân đại thắng. Tiếp theo nữ đồng chí Họa My trình bày bài “Chào anh Giải phóng quân, chào mùa Xuân đại thắng” - nhạc và lời Hoàng Vân.
Họa My tươi cười ra chào, Bình dạo ắc-coóc vừa xong thì Thảo vào.
Trần Dũng kéo tay anh, nghiến răng hỏi đi đâu những hai mươi phút mà không báo cáo. Thảo nói luôn rằng mình bị... Tào Tháo đuổi. Dũng định nói câu gì thì thấy Thảo nhăn mặt, và rồi anh lại chạy vào rừng.
Đó là vì chiều nay ăn ốc! Ô kìa, bây thì đến lượt tôi nữa, khi tôi đang cùng đồng đội hát đồng ca bài “Tiến về Sài Gòn” thì... bỗng đau quặn bụng dưới, làm sao nhỉ? Tôi đứng giữa hàng ngang nhìn xuống, đi vào thế nào chứ? Cố nín, không được rồi. Đành phải tự lùi ra sau, rồi chạy, chạy nhanh lên!
Tôi vừa ngồi xuống bụi cây lại thấy một người nữa chạy ra. Ô kìa, người thấp, nhỏ… Chết cha, cô nào vậy?
... Ở trong đó, Họa My tiếp tục giới thiệu:
- Độc tấu đàn bầu có dàn nhạc đệm “Vì miền Nam”, chúng ta, tất cả hãy vì miền Nam, tiến lên, các đồng chí...
Tôi đi vào thì Châu trống chạy ra, nguy quá, còn ai nữa. Ơ kìa, Đội trưởng Trần Dũng đâu rồi? Thì ra anh đau bụng quá, ngồi quá lâu. Cái bệnh đi nhanh về chậm ấy mà.
Điểm mặt “anh hùng” - có tám nam ba nữ là bị Tào Tháo đuổi. Lân béo, Tuệ còm, Nga xù, Minh khều, Thạch, Yến, Thủy tẹt là bị ngay sau khi ăn xong được mười lăm phút. Số còn lại, xui quá, nhè vào lúc sắp và đang diễn.
Tuấn cười biết chuyện nói:
- Nuôi tớ dễ hơn nuôi lợn, chả sợ bệnh tật ốm đau. Cái gì ăn cũng được, miễn là no dạ dày.
Châu trống nghe thế nói luôn:
- Thế có ăn được cờ không mà anh bảo gì cũng ăn được. Ha ha ha - Tuấn cười há miệng ngạc nhiên rồi toang toác cười theo...
... Thời gian tập trung ở ngoài Bắc để học tập, rèn luyện, một tuần lễ đầu tiên tôi không có cảm tình với Châu trống. Cậu này ít nói, mặt lạnh lùng cứ như mùa đông có mưa phùn gió bấc. Nhưng rồi tôi quý trọng Châu bởi sự thông minh, hóm hỉnh. Càng ngày càng thấy Châu tỏ ra sâu sắc về nhận thức, rồi phát ngôn. Chắc chắn là Châu rất chịu đọc sách, chịu nghe và chắt lọc những cái hay trong sách vở. Châu có một tài vặt là bắt chước tiếng con ngóe kêu khi bị rắn cắp cổ, cứ như thật.
Có lần Họa My thét to: “Rắn cắn”, rồi bỏ chạy. Có biết đâu, Châu đứng sau Họa My có năm bước chân, giả tiếng ngóe bị rắn cắn cổ. Tất cả mọi người hồi đó đều giật mình cảnh giác. Nhưng cũng chỉ lừa được hai lần, sau đó người ta biết rồi, không ai sợ nữa.
Lúc hành quân vào Trường Sơn, nhiều anh em bộ đội đi cùng về hướng nam đã giật mình ngó quanh bảo nhau cảnh giác vì có rắn bắt ngóe.
Châu thân với anh Thảo, tổ trưởng tổ nhạc. Một hôm cơm trưa xong, tôi đi qua chỗ ở của Châu thấy tiếng anh Thảo ở đó. Hai anh em đang nói chuyện việc gì đó. Tôi dừng trước cửa hầm lắng nghe. Tiếng của Thảo:
- Anh hùng là một người mà làm những việc phi thường nhưng những người khác không dám làm.
Châu nói:
- Phải nói là việc làm đó xảy ra trong một thời gian, không gian cụ thể mà ít xảy ra.
- Chú em nói rõ xem nào, anh chưa hiểu?
- Thế này nhé, giữa năm một ngàn chín trăm sáu tám ấy mà, tại một trọng điểm giao thông, cụ thể là tại bến phà sông Gianh ở Quảng Bình. Vào tám giờ tối. Rất nhiều xe vận tải gạo, thuốc men, súng đạn, quân trang của ta xếp hàng dài chờ sang phà. Không ngờ máy bay Mỹ phát hiện, chúng lao xuống ném bom. Lập tức một chiếc xe tách ra khỏi đoàn xe, anh đã bật đèn pha chạy ra khỏi khu vực đông xe để dụ địch về phía mình. Nhân thời cơ đó, hơn hai trăm xe của ta kịp tản mát mỗi xe một nơi. Xe đồng chí ấy bị chúng đuổi theo, bắn tên lửa, rồi đại liên, mà không trúng. Đó, hình như đồng chí ấy tên là Phạm Minh Đức, quê Thanh Hóa. Trả lời nhà báo: “Đồng chí có suy nghĩ gì mà hành động như vậy?”. Đức trả lời: “Để cứu cả đoàn xe”. “Đồng chí không sợ hy sinh à?”. “Không, bởi vì đã là chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam thì sợ gì kẻ xâm lược?”.
- Nghĩa là hành động anh hùng diễn ra rất nhanh trong một hoàn cảnh cụ thể.
Châu nói đúng thế, thì anh Thảo nói:
- Vậy, anh Hồ Giáo có anh hùng trong một thời gian rất nhanh đâu!
Châu trống lúng túng một lát rồi nói:
- Không trong một thời gian nhanh nhưng là một quá trình làm cái việc phi thường mà ít ai làm. Này nhé: Đem giường ngủ cạnh chuồng bò, chờ bò sinh sản, lo cho bò ăn ngủ. Từ đó, đàn bò của anh sinh sôi gấp năm, sáu lần đàn bò của người khác, năng suất sữa của đàn bò nhiều nhất, cao nhất nông trường quốc doanh bò sữa Ba Vì, một trong những nông trường lớn nhất miền Bắc. Đó là anh hùng.
Thảo im một lát hỏi:
- Thế thì người trực tiếp cầm súng trong chiến đấu, như thế nào gọi là anh hùng?
Châu nói:
- Anh nhớ thế này: Hành động anh hùng khác hẳn với việc làm anh hùng. Hành động chỉ là biểu hiện của việc làm. Việc làm anh hùng xuất phát từ ý nghĩ cả một quá trình. Hành động chỉ là nhất thời.
Thảo nói ngay:
- Hành động dù là nhất thời nhưng cũng phải có suy nghĩ rồi mới hành động chứ. Châu nói có suy nghĩ nhưng suy nghĩ ấy chưa hẳn chín. Này nhé, một chiến sĩ cầm khẩu súng AK, đứng lên quét quân giặc tràn tới, đồng chí không sợ chết. Lũ giặc chết không nhiều mà đồng chí hy sinh trước tiên. Đó là hành động anh hùng, còn việc làm anh hùng là có sự thống nhất giữa suy nghĩ và hành động. Lẽ ra đồng chí ấy đừng đứng lên tỏ rõ khí phách anh hùng, mà đồng chí tính toán di chuyển, tìm địa hình thuận lợi để vừa tránh được đạn của giặc mà lại giết giặc được nhiều hơn. Anh hùng là người làm một việc lớn, có lợi nhất cho đồng đội, cho nhân dân mình. Như Phan Đình Giót, La Văn Cầu, Cù Chính Lan, bằng tính toán của mình mà giết được nhiều giặc, tránh được nhiều thương vong cho đồng đội. Hay như có chiến sĩ lái máy bay, đạn hết, máy bay bị thương đã lao xuống một đoàn tàu quân sự của giặc khi đang qua cầu trên sông. Đồng chí ấy hy sinh nhưng cả đoàn tàu với bao súng đạn và quân lính giặc bị tiêu diệt.
... Thấy im lặng, tôi bước vào:
- Ái chà chà ngày xưa có Tào Tháo và Lưu Bị uống rượu luận anh hùng, nay có Châu trống và anh Thảo uống nước suối luận anh hùng cơ đấy.
- A, mời phó thủ trưởng ngồi đây! - Thảo nói - Mình vẫn chưa thỏa mãn cách giải thích của Châu - Thế nào là anh hùng?
- Đây này, Châu nói đã đúng. Đó là, anh hùng là người làm được một việc có thể là nhỏ nhưng có ích lớn cho nhiều người, cho cả một dân tộc. Tất nhiên là phải qua một quá trình dài rèn luyện mới tích lũy được kinh nghiệm để rồi vụt sáng kỳ diệu. Thôi nào, có chuyện gì khác, kể đi Châu trống.
Châu nói:
- Bây giờ thử nghe tôi luận về chỉ huy xem nhé: Trước hết người chỉ huy phải có tố chất. Đó là phải tài giỏi, biết nhìn xa trông rộng, biết chuyển bại thành thắng, biết sử dụng cấp dưới, biết thu phục lòng người. Muốn vậy, phải có kiến thức quân sự, chính trị, ngoại giao. Nhưng đây là mẫu người chỉ huy toàn diện. Có những người chỉ giỏi ngoại giao, hoặc giỏi chính trị, không làm được tướng soái. Hoặc ngược lại.
Ở nước ta, cứ bảo cụ Nguyễn Trãi là quan văn, thực ra cụ là một tướng lĩnh chỉ huy tài ba. Biết vạch kế hoạch tác chiến, biết ngoại giao thật tài. Tiếc là, cụ bị chết oan sau khi nước nhà đuổi được giặc Minh. Trước Nguyễn Trãi là Trần Quốc Tuấn, tạm rút khỏi Thăng Long để rồi phản công quét sạch quân Nguyên. Rồi Quang Trung - Nguyễn Huệ, tài lắm chứ. Nhưng đại tài là Bác Hồ của chúng ta. Chà chà, nói về tướng giỏi thế giới thì nhiều chỉ biết rằng, người chỉ huy, dứt khoát phải hơn người thường. Trong con người chỉ huy, nổi bật nên một ý chí quyết chiến, quyết thắng, không nhân nhượng với quân giặc, biết tận dụng thời cơ, thưởng phạt nghiêm minh đối với quân sĩ của mình.
Còn ở ta đây, ai giỏi bằng Đại tướng Võ Nguyên Giáp về quân sự? Tất nhiên, Bộ Chỉ huy quân sự cách mạng Việt Nam ta không chỉ có một Tướng Giáp mà còn nhiều người nữa, nhưng lịch sử đã và đang, và rồi sẽ phải ghi nhận. Thôi thôi, nói vui thôi, kẻo rồi sa đà quá, thành ra...
- Chà chà! - Tôi nói - Đồng chí phải là chính ủy mới đúng, Châu ạ. Thôi tranh thủ nghỉ trưa một vài phút cho khỏe. Lúc nào rỗi, nói chuyện tiếp nhé.
Tôi về hầm, đã mười hai giờ ba mươi phút trưa vẫn không ngủ được. Tôi lại nghĩ đến những gương mặt đồng đội. Quanh quẩn lại quay về Vũ Châu, một người mà tôi gọi vui là xiếc trống. Anh có một chuyện riêng, theo ý kiến cá nhân tôi là rất đặc biệt, ít có ở thời xưa cũng như bây giờ. Đó là, cách đây bảy năm, ở tuổi mười tám, anh đang học lớp mười, năm cuối cùng của cấp ba. Cô giáo dạy văn lớp 10A của Châu mới ra trường tên Hoa, cô hai mươi hai tuổi. Cô rất xinh đẹp, dạy văn rất hay. Châu phải lòng cô giáo này. Một tuần có năm tiết văn, Châu chỉ mong đến giờ của cô Hoa. Châu như bị cô thôi miên. Kế hoạch làm quen cô Hoa của Châu đầu tiên là đến khu tập thể giáo viên của trường giả vờ nhờ cô giảng lại một số chỗ Châu chưa hiểu. Cô vô tình, trò thì hữu ý. Tiến tới đem cho cô mấy bắp ngô nướng - “Quê em có bãi sông, nhiều ngô cô ạ”. Rồi tiến tới là khoai luộc. Thời bao cấp, giáo viên có mười ba kilôgam lương thực một tháng, gạo ít, độn nhiều, ăn không đủ no. Mới đầu cô ngại, sau vì Châu nói khéo quá nên cô nhận. Châu nói thế này: “Đây là thứ ở quê em nhà nào cũng trồng được, không phải mua. Qua sông phải bắc cầu Kiều, muốn hay chữ thì phải yêu... yêu cô thầy”. Không phải là tiền bạc gì, em mong cô nhận cho”. Giọng Châu mạch lạc, dứt khoát, nghe lại êm như ru, cô nhận luôn. Hết khoai, đến lạc vỏ luộc sẵn. Rồi thì sắn luộc, toàn những thứ cô thích. Rồi chuối tiêu vườn nhà, mía vườn nhà. Hết những thứ làm quà lại bày trò đến nhờ giảng dạy lại bài chiều nay. Nghe cô giảng thì ít mà ngắm cô thì nhiều. Cô đang ngồi chấm bài, cố tình vòng đằng sau để mũi vào tóc cô mà hít lấy hít để. Rồi thì cô cũng nhận ra cái nhìn của Châu. “Cô nhắc em còn trẻ, còn phải học đi, đừng nghĩ xa xôi vội nhé”. Nó vâng đấy nhưng mắt vẫn nhìn cô như muốn... nuốt cô vào bụng. Sau đó là những lá thư Châu gửi cô qua bưu điện hoặc hôm nào không có tiền mua tem thì đến phòng, tìm cơ hội nhét vào túi áo cô.
... Học hành sút hẳn, lại không được cô đáp lại tình yêu. Châu viết một thư dài gửi cô.
Châu cứ gửi thư, nhưng hồi âm thì cũng chỉ tóm gọn: “Cảm ơn Châu đã nghĩ tốt về tôi, nhưng tôi không thể, Châu trẻ quá mà, còn nhiều hy vọng, nhiều thành công ở trước mặt đang chờ đón Châu. Thế nhé, mong Châu hãy quên tôi”.
Châu đã vào bộ đội như thế đấy. Vào bộ đội để chạy trốn một mối tình mà chính mình là thủ phạm khơi ngòi nổ mà không cháy. Chà chà, tẩm ngẩm mà đánh ngầm chết voi.
*
Tôi phải khâm phục khả năng làm việc của Họa My và Sơn Ca. Ngoài chương trình biểu diễn cụ thể ở một điểm nào đó cho cán bộ, chiến sĩ ta, lúc xong chương trình, giải lao vài phút chờ ăn bồi dưỡng, có những đề nghị của cán bộ, chiến sĩ như:
- Chúng tôi thích nghe hát chèo.
- Và tôi muốn chị ngâm lại bài “Bài ca Xuân bảy mốt” của Tố Hữu đi.
- Chúng tôi thích nghe quan họ, đồng chí Họa My.
- Hát xoan Phú Thọ được không? Đồng chí Họa My.
- Chị Ngâm bài thơ “Trăng trối” của Tố Hữu đi, Họa My.
Thế là Họa My và Sơn Ca hát luôn cả chèo và hát xoan và ngâm thơ thì Sơn Ca cũng khá. Có những chỗ dừng chân, gặp bộ đội hành quân vào Nam, nghỉ chân ven suối, một mình Họa My chỉ ngâm thơ, hát chèo đã chiếm ba mươi phút. Mà chương trình phục vụ dọc đường như thế này thì không nằm trong kế hoạch. Bởi vì, bộ đội hành quân theo đường giao liên thì rất đông. Bộ đội ta đi hàng một, đa số là men theo đường núi, có nhiều chỗ dốc cao, vực sâu. Tất nhiên, không ai hát ở đó, mà khi gặp chỗ bằng phẳng ven suối, bộ đội ta nghỉ chân khoảng ba mươi phút là đi, mới phục vụ được. Việc phục vụ thế này chỉ là vô tình gặp nhau mà thôi.
Có một điểm phục vụ mà vì thế Đội trưởng Dũng và tôi đã nổ ra tranh luận đến gay gắt. Đó là: Tại cua giao thông chữ S, một trọng điểm mà ngày đêm Mỹ dùng không quân bắn phá, ác liệt không kém cua chữ Y, chữ V, chữ U. Địa hình cua chữ S rất bằng phẳng, nhưng vì ở trên cao lưng chừng núi, vực rất sâu nên khi có báo động phòng không, việc sơ tán sẽ gặp khó khăn. Do vậy, chỉ cần bom rơi cách xa tám, chín mét, sập hầm cũng xảy ra thương vong nếu không kịp thời cấp cứu.
Hầu như ngày nào ở đây cũng có bom ném xuống đủ loại, bom phá, bom đào, bom sát thương, bom bi, bom nổ chậm, bom từ trường, mìn lá…
Nguy hiểm vậy mà ở cua chữ S luôn có mặt một tổ phá bom nổ chậm - có ba người - đây là những chiến sĩ quả cảm tuyệt vời, có kiến thức về phá bom. Đó là Hạ, Cương, Thành. Họ mới hai mươi tư, hai mươi lăm tuổi, ba năm ở Trường Sơn, bom đạn ác liệt là vậy, họ vẫn trụ vững, không một ngày nào ngừng nghỉ. Máy bay rải bom rồi tháo chạy, các đồng chí lại có mặt ngay. Không có trái bom nổ chậm nào mà các anh bó tay, nếu nó chui sâu xuống đất, các anh giật bộc phá cho nổ. Thuốc nổ lấy ngay từ việc tháo từ ruột những trái bom không nổ. Có những trái sắp nổ, chỉ còn khoảng ba phút, không kịp tháo kíp, ba đồng chí co cẳng đạp nó xuống vực. Thành vừa làm vừa hát: “Quả bom là quả bom câm, Mỹ chui í à, Mỹ rúc, Mỹ nằm dưới sâu…”.
Tên tuổi các anh được nhiều người biết đến. Được đi dự hội nghị tuyên dương chiến sĩ giỏi toàn miền. Dự xong, các anh lại về.
Biết có văn công bộ đội đến. Các anh không dám bỏ việc đi xem, do vậy, Đại đội trưởng công binh số Năm đã đề đạt nguyện vọng của ba đồng chí với chúng tôi...
... Trần Dũng và tôi nổ ra tranh luận đó là: Cho quân tập kết cách hầm của ba đồng chí công binh nói trên khoảng năm trăm mét. Sau đó, cử hai đồng chí diễn viên cùng Bình ắc-coóc đến phục vụ, biết sắp xong thì cử diễn viên khác đến. Đó là ý kiến của tôi nhằm tránh thương vong mức cao khi máy bay Mỹ đến. Nhưng đội trưởng Trần Dũng không đồng ý, anh muốn cả đội cùng đến, chỉ phục vụ ba mươi phút. Cuối cùng, họp toàn đội, tất cả tán thành ý kiến của tôi: Lần lượt từng tiết mục của ai, của bộ phận nào thì người đó đến, xong lại về hầm trú ẩn cách xa mặt đường. Nếu có máy bay, nhảy xuống hầm cá nhân ở ven đường mà các đồng chí công binh đã đào sẵn rất nhiều.
Đầu tiên là Họa My, Sơn Ca - ngâm thơ, hát đơn ca, sáo của Mỹ và Bình ắc-coóc đi theo. Khi tốp này vừa xong, rút về vị trí tập kết thì tốp khác đến. Mệt nhưng mà vui. Chương trình gần sáu mươi phút, chỉ vở kịch “Trong thành phố im lặng” - độ dài ba mươi phút nói về một chiến sĩ tình báo hoạt động trong lòng địch là không diễn được ở trong hầm hoặc địa hình không bằng phẳng.
Xong việc, Thành thay mặt tổ ba người anh hùng tặng chúng tôi mỗi người một nhẫn đeo tay, một lược chải đầu bằng xác máy bay Mỹ. Nhẫn đuya-ra, các anh gọt giũa rất đẹp. Mặt chiếc nhẫn nào cũng có hình trái tim nổi. Lược chải đầu thì làm thành hình chiếc máy bay, có hoa văn chìm hai bên, rất tinh xảo. Ngân, diễn viên múa nói vui: “Cho em xin một chiếc nữa để em tặng người yêu” - Có ngay. Thành tặng luôn mỗi người một chiếc nữa và hứa nếu anh chị em quay ra, chúng tôi còn sống, sẽ tặng các anh chị thật nhiều. Hạ tặng thêm Lê Thảo một điếu cày, cũng gò bằng xác máy bay Mỹ, trên khắc dòng chữ: Những ngày ở Trường Sơn. Chiếc điếu tuyệt đẹp. Thảo đem về, không dùng, anh nói cất làm kỷ niệm, nay mai gửi về Bảo tàng Quân sự. Vả lại, hút không ngon bằng điếu cày làm bằng nứa, mà anh mang theo. Anh còn tiếc, nếu biết Trường Sơn nhiều lồ ô, nứa thì không mang cái điếu cày từ nhà.
Chia tay, lại lưu luyến, lại có những giọt nước mắt đàn bà. Chúng tôi cũng thấy rưng rưng trong lòng. Lời hứa nói trên của Thành không thực hiện được: Cả ba đồng đội của chúng tôi đã hy sinh sau đó một tuần lễ. Nhớ mãi câu Hạ nói phải đem mấy chục vỏ bom về cho hợp tác xã làm kẻng gõ báo xã viên hội họp hoặc ngày ngày ra đồng làm việc. Nếu có xe tải hạng nặng, phải chở mấy mươi chục xe, đủ cung cấp cho các hợp tác xã tiên tiến ở miền Bắc dùng làm kẻng. Mỗi lần cầm dùi gõ kẻng, khác gì bổ vào mặt thằng Ních-xơn...
... Sáng hôm sau chúng tôi đi tiếp, không hiểu bằng cách nào mà Sơn Ca có được lá thư của Cương. Sơn Ca không đọc cho tôi nghe, cô chỉ nói thư dài lắm, có nhắc đến yêu nhưng có một đoạn như thế này:
“Sơn Ca ạ, anh là người nói tục nhất Đại đội công binh số Năm ở Trường Sơn này (nói đúng hơn là chỉ có anh nói tục thôi) nhưng gặp em, anh thấy mình đã bỏ nói tục cả chiều nay, và anh xin thề anh sẽ không bao giờ nói tục nữa. Nhưng cũng vì cái thằng Mỹ đểu mà thôi. Nó không mang bom đến đất nước này thì việc gì bọn anh phải ngày đêm săn tìm để diệt nó. Nhiều thằng Mỹ (trái bom) cắm mặt xuống đất sâu quá, hoặc nó mắc kẹt ở những bụi gai góc, rất khó trị nên... chúng nó đã làm anh điên máu, mà đã điên máu là chửi tục, mãi thành quen. Nay có em, anh quyết tâm không nói tục cũng như quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Chào em. Hẹn gặp em ở Sài Gòn!”.
Tôi ngầm hiểu ý của Sơn Ca rằng tôi cũng có nhiều chàng trai bộ đội dũng cảm, đẹp trai yêu tôi. Anh có nhanh chân lên, kẻo là mất đấy, Hải ạ.
Tôi thấy lạ, chỉ có một buổi biểu diễn, rồi chia tay ngay, không hiểu Cương viết thư lúc nào mà nhanh thế. Và đưa vào lúc nào? Thôi đúng rồi có thể đêm hôm ấy, anh chàng mò đến chỗ chúng tôi ở - mà chúng tôi không biết! Lính ta, chà chà, giỏi thật.
Tôi hỏi anh ta đưa tận tay cho đồng chí hay sao, Sơn Ca đỏ mặt không nói.
*
- Thế anh có biết vì sao mà nước ta cứ bị nhiều thằng giặc xâm lược từ mấy trăm năm nay không?
Nghe Châu trống hỏi câu này, Lê Thảo, anh em quen gọi là Thảo già - thủng thẳng nói:
- Nước ta lắm của cải, tài nguyên thì thằng cướp nào không muốn đến.
Châu nói:
- Cho nên anh không hiểu là phải, em nói thế này bố già nhé, em nói về ngũ hành để thấy rằng nó liên quan đến xã hội, đến thiên nhiên và từng con người. Khoa học chưa chứng minh được nên cứ cho là mê tín. Thực ra không phải thế. Bố già cứ ngồi im, để em nói nhé. “Ngũ hành gồm Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Trước hết về tương sinh thì Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim”. Sinh ở đây là tương sinh, là cùng sống chứ không phải là cái này sinh đẻ ra cái kia. Hiểu chửa bố già?
- Rồi, tiếp đi.
- Còn tương khắc là không hợp nhau, là xung đột nhau: Thủy phải khắc Hỏa (nước dập lửa). Hỏa phải khắc Kim (lửa đốt cho Kim loại chảy). Kim khắc Mộc (sắt chém được gỗ). Mộc lại khắc Thổ vì cây hút hết chất của đất. Vậy là mỗi cái khắc hai mà hợp ba, tức là tương sinh với ba mạng. Vũ trụ sinh ra muôn loài, có sinh có diệt, nếu chỉ có sinh không thì không có chỗ ở, nếu chỉ diệt không thì trái đất là con số không, là tăm tối. Nước ta bị nhiều kẻ xâm lược, là cũng ứng với cái thuyết sinh - khắc.
Thôi, nghỉ tý đi, sắp làm việc rồi, Đội trưởng nghe thấy lại cho rằng chúng ta vô kỷ luật, không nghỉ trưa. Mà, bố già ạ, ý kiến của em cũng chỉ là tham khảo thôi, chứ chưa hẳn đã đúng đâu, bố cũng không nên lấy đó là bài học nhé, hì hì hì...
*
Tuấn cười luôn vui là thế nhưng anh chàng cũng sống nội tâm, ít biểu hiện ra ngoài. Nhớ ngày huấn luyện ở ngoài Bắc, mới được nửa tháng. Buổi sáng đang tập luyện ở đình làng Quyết Tiến, thì có người xin gặp.
Tuấn đi ra, ngoài cổng đình, một người ăn mặc quân phục bộ đội vẫy tay, anh đi nhanh, không thể tin được:
- Anh Hoàn! Anh vào bộ đội khi nào, sao anh không cho em biết?
Hoàn, anh trai thứ hai của Tuấn, trên là một anh nữa, đang ở mặt trận Lào.
- Chuyện buồn lắm, anh sẽ kể cho em nghe ngay bây giờ. Anh nhập ngũ ba tháng rồi.
- Vậy mà cả nhà giấu em.
- Để chú yên tâm mà làm việc. Cả nước ra trận, có riêng gì nhà ta.
- Nhưng anh thuộc diện hoãn, cơ mà.
- Biết rồi, nhưng mà...
... Hoàn hai mươi chín tuổi, chưa vợ, là cán bộ phòng thương nghiệp ở huyện nhà. Anh học Trung cấp Thương nghiệp ra. Mọi việc đều hoàn thành nhưng tám năm qua, không bao giờ được bầu là lao động tiên tiến, mười một anh em trong phòng đề nghị, chỉ một mình ông trưởng phòng không đồng ý, ai cũng phải theo. Không theo, chỉ dọa cho thôi việc là sợ. Thôi việc thì đi đâu. Về nhà mang tiếng là bị đuổi nên, thủ trưởng là to nhất. Vậy mà có mỗi Hoàn không sợ. Anh dám phê bình thủ trưởng tham lam, đã có hai xe đạp được phân phối giá cung cấp lại muốn lấy cái thứ ba, trong khi nhiều đồng chí trong cơ quan không có xe. Đã thế, săm lốp cung cấp, cũng giành lấy hết cho mình.
Bị phê bình, ông trưởng phòng tím mặt, sôi gan, nghĩ ngay cách trị tội Hoàn. Trước mắt, sáng nào cũng thế, ông sai Hoàn quét sân cơ quan. Có đống phân bò, phân chó, ông cũng sai. Hoàn chấp nhận vài lần - sau biết đây là đòn của ông ta, Hoàn phản đối:
- Cơ quan ta đa số là nhân viên chỉ có sơ cấp chuyên môn, tuổi hai mươi hai, hai mươi ba, ít tuổi hơn tuổi tôi sao ông không sai họ, hay vì tôi phê bình ông tham lam mà ông tức!
- Đơn xin vào cơ quan, ai cũng hứa luôn chấp hành phân công của tổ chức, làm bất kỳ việc gì. Do vậy anh phải nghe lệnh tôi.
- Nhưng hót cứt không phải là việc của tôi. Bảo vệ đâu, bảo vệ làm gì mà để chó, bò vào sân cơ quan. Còn nữa, tại sao không sai mấy cô nữ nhân viên kia, hay là ông tư tình với họ hả. Tôi lạ gì ông nữa, cậy thế cha chú thì làm gì thì làm à.
Trưởng phòng không nói được câu nào, mãi sau ông bảo:
- Anh không làm thì tôi cho nghỉ việc.
Hoàn hét to:
- Nghỉ thì nghỉ, làm việc với ông cho nó bẩn người, bẩn hơn phân người, phân chó. Chào ông.
Hoàn làm đơn xin thôi việc, ném vào mặt ông ta. Anh về luôn, trả chìa khóa phòng nhà tập thể. Ba tuần sau có đợt nghĩa vụ quân sự, anh làm đơn xung phong, xã chấp nhận ngay.
- Thôi, không buồn, Tuấn ạ, anh cũng chưa vợ, không băn khoăn gì. Chỉ thương anh cả ở bên Lào, vợ yếu, con dại. Còn chú ở ngoài này hãy luôn thư từ cho bố mẹ, chị dâu, nếu thứ bảy về được, cố mà thăm nhà.
Tuấn giấu anh trai chuyện mình cũng sắp ra trận. Đêm đó anh em nằm với nhau tâm sự đến bình minh. Sáu giờ sáng, Hoàn đi bộ năm kilômét ra bến xe, không khiến người em mượn xe đạp của chủ nhà đưa đi. Hoàn nói:
- Coi cuộc chia tay như dạo chơi, đừng nhìn theo, vẫy tay lưu luyến, buồn lắm. Chơi vài năm thì về, có gì mà lưu luyến, mà dặn dò mãi. Thế nhé, chú vào nhà đi, đừng nhìn theo nữa.
Tuấn nghĩ: Hai mươi chín tuổi, đã là chín chắn rồi, lẽ ra phải nhịn nhường người ta. Người ta có quyền thế, cãi lại làm gì. Mà lạ lắm, anh Hoàn vốn hiền lành, từ nhỏ đến lớn chăm làm, chăm học, biết nhường nhịn em, không nặng lời với em. Thầy và bạn đều yêu quý. Học Trung cấp Thương nghiệp đạt xuất sắc khi tốt nghiệp, do hàm răng cũng hơi vẩu, nên... nên nhà trường không giữ lại để đào tạo tiếp làm giảng viên trong trường. Về phòng thương nghiệp huyện gần tám năm đều hoàn thành tốt nhiệm vụ mà không hiểu sao cơ quan không phát triển Đảng?
Tuấn cười nói với tôi:
- Không hiểu sao mà ông trưởng phòng lại xử sự như thế. Lúc anh Hoàn nhập ngũ, ông ta, không hiểu có phải vì ân hận hay không mà lên thăm gia đình tôi, tặng anh Hoàn bút máy Trường Sơn, khăn mặt, xà phòng 72 của Liên Xô những mười bánh, hai bánh xà phòng thơm, thuốc đánh răng, hai tút thuốc Tam Đảo bao bạc, một kilôgam kẹo Hải Hà. Lúc ông trưởng phòng ra đến ngõ, anh tháo tung hết, quăng vào mặt ông ta: “Trả ông những thứ ông ăn cắp của nhà nước”.
Ông tái mặt, đạp xe đi. Trẻ em trong xóm chạy ra tranh nhau nhặt kẹo. Mấy bà xã viên đi gặt về lao vào tranh lấy bánh xà phòng, miệng reo to: “Của quý đây, không có cái này quần áo không sạch”.
Bố mẹ Tuấn cười bảo sao không lấy, phí của trời. Hoàn im lặng mãi sau mới nói một câu: “Không có của nó, không chết”. Và thế, anh đi bộ đội cũng chỉ vì lý do ấy. Anh nói với bố mẹ rằng cơ quan cho nghỉ để đi bộ đội, chiến trường đang cần người, sắp giải phóng rồi.
Tin đồn anh bị đuổi việc sau có ba ngày rời khỏi cơ quan, nhanh hơn bão lốc. Cả làng ngạc nhiên!