Một buổi chiều sau khi phục vụ một đơn vị thanh niên xung phong ở gần giáp ranh với Quảng Trị, chuẩn bị ăn cơm, lúc ấy là mười bảy giờ ba mươi phút, có năm cô gái xin gặp chỉ huy đội. Sơn Ca đưa họ đến hầm của tôi. Tôi hỏi các chị tìm tôi có việc gì? Các cô đùn đẩy nhau, rồi một cô mạnh dạn nói:
- Chúng em là thanh niên xung phong, đã hết nghĩa vụ ba năm, tuần sau chúng em được về quê. Nhưng bọn em thích vào đội văn công xung kích với các anh. Mong các anh chiếu cố.
Chuyện này thì khó, tôi biết sẽ như vậy bởi phải điện xin ý kiến cấp trên ngoài Hà Nội, sau khi đã thử chuyên môn. Trong ánh chiều đỏ lựng hoàng hôn, tôi nhìn kỹ cả năm cô, trông già dặn, eo người thì đẹp nhưng mặt mũi không đạt yêu cầu, sức khỏe có vấn đề - đó là da các cô bủng beo, môi thâm: Sốt rét. Nhưng để các cô khỏi ân hận, tôi yêu cầu thử giọng. Nếu hát hay bằng Sơn Ca, Họa My của chúng tôi, sẽ tuyển ngay. Tôi nói với Bình ắc-coóc, hãy đệm cho họ.
Mỗi cô hát một bài. Ôi giời, chệch nhịp đã đành mà giọng hát thì... thôi rồi, miễn góp ý.
Bình ắc-coóc nói thẳng rằng với các chị rằng hát chưa đạt, về tập lại để tháng sau vào thi tuyển.
Cô thứ nhất nói: “Nhưng tuần sau chúng em ra quân. Chúng em hôm nay hát hỏng là do chúng em bị cúm nên ảnh hưởng đến giọng hát”.
Cô thứ hai nói: “Chúng em đã từng hát giao lưu với các đơn vị bộ đội công binh, pháo binh Trường Sơn và dân công hỏa tuyến. Họ khen chúng em lắm cơ mà”.
Cô thứ ba nói: “Chúng em ở quê đã đi tuyển văn công nhưng cứ muốn đi thanh niên xung phong hết nhiệm vụ trở về đi văn công cũng được. Nhưng bây giờ chúng em thích đi văn công bộ đội”.
Cô thứ tư nói: “Mong các anh nhận chúng em, chúng em sẽ gắng học tập các anh các chị”.
Cô thứ năm nói: “Về các khoản vượt gian khó, không sợ hy sinh thì chúng em có thừa, vì đã qua rèn luyện ba năm ở Trường Sơn, mong các anh chiếu cố!”.
Tôi cố gắng giải thích:
- Do chất lượng không đạt, chúng tôi không nhận được. Phải nhận những người hát được ngay. Cụ thể là ở đội chúng tôi đây chỉ lấy sinh viên từ các trường nghệ thuật, các diễn viên ở các quân khu đã qua đào tạo bài bản, đã diễn nhiều lần thành quen rồi. Mong các chị em thông cảm, chúc các chị em lên đường bình an. Cho chúng tôi gửi lời chào hậu phương.
Họ còn cài nhài khoảng mười phút, nào là đề nghị thử lại lần hai nhưng chúng tôi cương quyết bởi nghệ thuật là nghệ thuật, không nể nang ai. Biết các cô buồn, thậm chí ghét chúng tôi, cũng mặc.
Tôi lại cười một mình khi nghĩ đến mấy tuần trước, lần đầu tiên phục vụ đại đội dân công hỏa tuyến chỗ phà Long Đại, trong lúc liên hoan cháo gà bồi dưỡng sau đêm diễn, anh Pho, Đại đội trưởng dân công hỏa tuyến ngồi với tôi, anh Dũng, Họa My, Sơn Ca, Ngân và Tuấn cười. Không hiểu sao, anh Pho cao hứng:
- Hôm nay các đồng chí hát tốt lắm, đáng đồng tiền bát gạo lắm, nhưng giá như cô Họa My hát lên mi trưởng, Sơn ca hát lên đô thăng thứ thì hay hơn nhiều. Tốp ca nam nữ phải hát si giáng trưởng mới đúng tính chất của bài hát “Bác đang cùng chúng cháu hành quân”. Còn anh kia (chỉ Tuấn) tấu thì được nhưng phải bôi râu nhiều hơn. Cô kia (chỉ Ngân) múa dẻo lắm nhưng cái lưng phải thẳng lên mới đẹp. Độc tấu đàn bầu “Vì miền Nam” phải cho vào giọng la giáng trưởng mới lâm ly thống thiết, mới để người nghe căm thù giặc hơn.
Biết rồi, chúng tôi nhìn nhau không dám cười to. Sơn Ca không nhịn được, cô đứng lên thật nhanh chạy ra chỗ khác mà cười.
Hôm sau, hành quân đến địa điểm khác, Tuấn cười, Sơn Ca thay nhau bắt chước giọng anh Pho, để rồi cứ cười suốt chặng đường bộ gần hai mươi kilômét cho đến chỗ tập kết.
Tôi thì nghĩ, đời này thiếu gì anh không biết gì nhưng cứ hay lòe bịp thiên hạ. Có anh bảo triết học biện chứng là lấy dẫn chứng có sẵn để bao biện cho việc làm của mình! Có anh dám ngạo mạn tuyên bố: Bộ đội có nghĩa là đội quân chính nghĩa, lấy đi bộ là chính! Có anh bảo rằng chủ nghĩa thực dân mới tức là không phải thực dân cũ!
Lạy bố! Vậy mà vẫn có người nghe.
Tôi nghĩ cho nên phải học, học không thừa. Đại học rồi, còn học nữa, học ngoài trường đời. Có ai đó nói, môi trường bộ đội là một trường đại học lớn. Ở đây có nhiều người giỏi mọi mặt, tạo thành một tập thể hùng mạnh. Anh nào mà không đi được bộ đội, quả là tiếc. Chả ai tái tạo được lịch sử. Lớp con cháu ta sau này chắc chỉ biết đến ông cha, anh chị ta anh hùng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ... ở trong sách và trong phim ảnh mà thôi. Để cho hậu sinh tự hào vì cha ông, anh chị chúng, các nhà viết sử hãy ghi chép kỹ càng, trung thực, và phải giáo dục để cho hậu sinh mới hiểu được ngày hôm nay chúng ta đánh Mỹ với nhiều hy sinh nhưng thật vẻ vang...
... Đội trưởng Trần Dũng gọi tôi sang hầm của anh, anh nhìn vào tôi khá lâu. Tôi ghét cái nhìn của anh, nhìn ai cũng chằm chằm như công an nhìn tội phạm. Lần đầu tiên, sau bốn tháng làm việc với nhau, tôi nói:
- Anh bỏ ngay cái kiểu nhìn ấy đi, xấu lắm. Anh tưởng người ta sợ cái nhìn của anh à. Tôi coi thường đấy!
Dũng mềm mỏng:
- Là do thói quen của tôi thôi mà. - Anh có việc gì nói đi.
- Tôi muốn đồng chí từ nay không được sửa chữa quân phục như thế nữa. Ngoài Bắc, tôi cũng đã nhắc nhở nhưng đồng chí không thi hành.
Tôi nói ngay:
- Có điều lệnh nào không cho sửa quân phục không?
- À... à, không nhưng, có thế nào mặc thế, cũng là tôn trọng quân nhu, mà quân nhu cũng là quân đội ta.
- Thôi thôi, tôi hiểu rồi. Thế này nhé, xưa kia vua chúa mặc rộng rãi, mũ cao áo dài, quần rộng, thích hợp với lối đi đứng khoan thai của họ. Tuy nhiên, quan võ lại ăn mặc quá gọn gàng để tiện cho ra trận... Bây giờ, riêng tôi, quân trang phát số Một, quá rộng, số Hai thì cũng thế, tôi chữa lại cho vừa với khổ người của tôi. Mà nói thật nhé, lên sân khấu mặc đẹp là tiêu chuẩn số một để khán giả nhìn vào cơ mà. Chuyện nhỏ, đồng chí đừng nghĩ đến, hãy lo cho anh em, hãy quan tâm những cái lớn hơn. Đây là lần thứ hai đồng chí nhắc tôi, tôi mong là lần cuối cùng.
- Nhưng cái nhỏ thường xé ra to nếu ta không kịp chấn chỉnh.
Tôi nói liền một mạch:
- Đồng chí hãy quan tâm xem anh chị em ta nghĩ gì, cần gì, hoàn cảnh mỗi một con người cụ thể trong đội “Hoa phong lan” ra sao, hãy động viên họ để họ gắn bó với nhau hơn nữa, mà nói thật ra là gắn bó với đồng chí hơn. Chúng tôi vào đây là vì nhiệm vụ, và cũng là vì yêu thích công việc, là muốn thử lửa để nên người, do vậy, đồng chí không phải nghĩ đến chuyện cỏn con như vậy.
Trần Dũng vẫn không buông tha tôi:
- Đồng chí sau cấp hàm tôi, là người thứ hai ở đội, lẽ ra đồng chí phải gương mẫu cho mọi người noi theo, chứ đồng chí không nên có những việc làm, tuy nhỏ nhưng nó sẽ thành nếp xấu khó sữa. À, mà, đồng chí Hải này, mấy ngày nay, đồng chí và một số đồng chí ở các tổ kịch, ca, múa, nhạc... đều không mặc áo đông xuân lót trong là sao. Mặc quần mà không mặc áo còn ra gì nữa. Hôm tắm suối sau khi phục vụ trạm quân y dã chiến của BT3, bảy, tám nam giới không mặc áo lót là sao thế nhỉ?
- Đôi khi tôi không thích mặc, còn các đồng chí khác tôi không biết.
Thực ra, tôi đã nói dối. Tôi đã cho Sơn Ca hai cái áo ấy, áo được phát năm ngoái. Năm nay trước khi vào Trường Sơn mỗi người chúng tôi được phát bốn chiếc, ai cũng gửi về cho bố, hoặc anh em ở nhà, còn thì mặc áo cũ, vì còn tốt, chưa rách. Tôi hiểu ở đây mùa khô ít nước, xa suối, không xà phòng giặt, tôi đã cho cô cả ba cái. Sau tôi gặp riêng Minh, Tuấn cười, Lân, Cường, Bình, Châu, tôi nói rõ như thế. Họ nghe tôi, ai cũng ủng hộ chị em.
Bên tai tôi, Dũng vẫn nói:
- Quân đội trang bị, chúng ta phải dùng, sao cứ gửi về gia đình. Có đồng chí đem bán ra ngoài... Ở gia đình đã có hợp tác xã lo, chúng ta phân tâm thì sao hoàn thành nhiệm vụ.
Tôi cứ im lặng, không muốn nghe bởi Dũng không hiểu đến đời sống nông thôn thời chiến khó khăn như thế nào. Ra trận nhớ thương quê nhà, càng làm ta nung nấu căm thù giặc, nếu không có giặc thì sức người sức của được dồn cho sáng tạo vật chất. Không có chiến tranh thì việc gì mà dân ta ở hậu phương phải thèm cơm, thèm từng cái kẹo, hoặc cốc nước chanh đường!
- Tóc của đồng chí tốt rồi, cắt đi, mà nói mãi, sao đồng chí không cắt trắng ba phân cơ chứ, học tập đồng chí Châu ấy! Quán triệt mãi rồi.
Tôi im lặng, nghe nhắc đến Châu tôi suýt phì cười bởi anh quê Vĩnh Phúc. Anh này có bộ mặt, nhìn vào là đã buồn cười. Ngồi nghe anh em kể chuyện hay lúc luyện tập, anh cứ nhìn mọi người, cái nhìn ngơ ngác, rất ngộ. Châu ít nói, hiền lành, nhìn dáng vẻ chậm chạp nhưng vào việc, anh rất nhanh nhẹn. Anh cắt tóc trắng hếu từ gáy lên, như đầu bác nông dân đi cày để cho mát, nhìn lại càng buồn cười. Trông anh, người lạ không bảo là nghệ sĩ.
Châu đánh trống rất giỏi. Mười cái trống để dãy dọc, anh tung dùi như múa trên mười mặt trống. Có lần anh kể, cứ cho là bịa, nhưng nó lại hàm chứa sự thật hài hước trong đó:
- Lúc tôi bốn tuổi, vô tình nhìn thấy bố tôi lấy hai bàn tay xoa xoa bụng mẹ tôi, bụng mẹ to lắm. Tôi hỏi bố làm gì ông bảo là bố đánh trống đấy. Tôi bảo cho con đánh với. Bố nói trẻ con không được đánh, lớn lên sẽ đánh được. Thế là, từ đó... tôi ước mơ là nghệ sĩ đánh trống.
“Ha ha ha...”. Mọi người cười to. Châu cứ tỉnh bơ. Châu kể tiếu lâm không có yếu tố tục như Tuấn cười. Thực ra, mỗi người một cách kể, không ai giống ai, có người tục mà không ai cười. Vấn đề là biết cách kể để người nghe phải cười, đó là thành công. Hơn nữa, chuyện trên là bịa, nhưng chấp nhận được. Châu giỏi cờ tướng, nhiều cụ cao cờ ở quê anh phải thán phục. Vào Đoàn văn công Quân khu Tả Ngạn, chả có ai biết đánh cờ, anh ta phải ra phố tìm xem có ai biết đánh cờ để kết bạn. Lạ là gia đình nội ngoại anh, không ai làm hoặc biết chút nghệ thuật hoặc cờ, quạt...
*
Đối với người chiến sĩ giáp mặt với kẻ thù thì súng đạn là chính. Với nghệ sĩ biểu diễn thì vũ khí là nhạc cụ, là giọng hát. Vậy mà, chỉ trong ba ngày, bốn giọng ca chính là tôi, Minh, Sơn Ca và Họa My bỗng nhiên mất giọng.
Mới đầu là tôi, ngủ trưa khoảng hai giờ rưỡi đồng hồ, tôi ngồi dậy, đi sang chỗ Tuấn cười định bàn với anh là tối nay phục vụ tổ giao liên ở binh trạm. Tổ có bảy người, họ đưa đường cho bộ binh từ Binh trạm Hai đến Binh trạm Ba. Biết có văn công xung kích của Đường dây 559 vào từ hai mươi tháng ba mà bây giờ một tháng rồi vẫn chưa được xem; nhưng tôi hoảng hốt khi cổ mình bị đặc, không nói to được, thử hát một câu cũng không được.
Trước lúc biểu diễn năm phút, xiếc trống Vũ Châu làm rung động bao con tim, sau đó là ắc-coóc của Bình bùng lên những giai điệu hành khúc, giục giã. Là những người trong nghề nghe còn muốn lao ra sân khấu hoặc cầm súng lao ra mặt trận huống chi là những người khác, khi nghe tiếng trống phách, đàn sáo nổi lên, tâm hồn đã bay bổng, chân tay ngứa ngáy... muốn hát.
Vậy mà tôi bị mất tiếng, rồi nữa, Ngân báo cáo cả Họa My và Sơn Ca, rồi Quang và Minh, ba cây đơn ca chính cũng mất tiếng.
Đội trưởng Dũng lo lắng thật sự, tuy nhiên, anh thiếu tế nhị ở chỗ là nói ra bằng mồm rằng mấy đêm liền diễn xong, anh chị em thức khuya tán gẫu, rồi đánh cờ thì mới thế chứ!
Nhưng anh chỉ nói với cô Yến phục vụ và quân y sĩ Lê Đáng, Châu trống nghe thấy nói lại với tôi. Tôi nghĩ, kệ anh ta, nếu nói trước mặt thì tôi sẽ thanh minh, Họa My, Sơn Ca thì cờ quạt gì mà mất tiếng.
Dũng thuộc típ là nói người ta thì được nhưng bị nói lại thì không biết phản pháo, nhưng vẫn cứ thích nói. Mấy anh ở tổ nhạc không thích nói lắm, nên bảo nhau đặt cho Dũng cái tên “nhà hùng biện”.
Có lúc đang ngồi kể chuyện tiếu lâm, thấy Dũng đến, tất cả lại im, cố nén tiếng cười khi Tuấn cười vừa kể một câu chuyện:
- Làng tôi có một anh lính trẻ về phép để cưới vợ. Khi đại diện gia đình anh lính gặp gia đình nhà gái để đặt vấn đề làm lễ cưới. Vị đại diện nhà gái nói: “Nghe tin nhà trai có truyền thống hiếu học, nhà gái chúng tôi xin ra một vế đối, nếu đối được sẽ cho cưới. Vế đối như sau: Cháu gái ông xinh gái, đẹp co, ngực to, mo lớn”. Đám đại diện nhà trai còn đang lúng túng, nhất là vị đại diện nhà trai không hiểu câu đối, ông ít chữ, chỉ giỏi khoa nói. Đang bí, trong đoàn nhà trai có một chị khoảng ba mươi lăm tuổi, là cô ruột của anh lính trẻ nói: “Các bác nhà gái ra vế đối là: Cháu gái ông xinh gái, đẹp co, ngực to, mo lớn. Nhà trai chúng tôi xin đối là: Con trai bà đẹp trai, có tài, chày dài, giã khỏe”. Ha ha ha ha, chày dài đối với ngực to, mo lớn đối với giã khỏe... ha ha...
... Trở lại chuyện bỗng dưng một số anh chị bị mất tiếng: Quân y Đáng nói do chúng ta mới ở vùng khí hậu miền Bắc nay vào đây khí hậu lạ, dễ mất tiếng. Anh nói anh sẽ đi tìm lá thuốc đắp vào cổ, trước mắt, làm sao có cá mè luộc ăn, sẽ đỡ.
Tin mấy diễn viên văn công bị mất tiếng lan ra cả Binh trạm Hai, nhiều cán bộ, chiến sĩ lo lắng thật sự, nhất là lo cho những giọng ca chính. Họ mong muốn cho ngay anh chị em vào bệnh viện dã chiến của Binh trạm.
Ở Đại đội công binh số Hai, nơi chúng tôi dừng chân, một số chiến sĩ xuống suối bắt cá. Phải đi xa, sâu vào rừng mới tìm ra những đoạn suối nước sâu, sẽ có cá. Quanh đây, suối cạn quá. Sau một ngày, cá được đem về, nhưng làm gì có cá mè, chỉ là những con cá chép, cá diếc nhỏ. Cứ luộc lên xem sao. Ăn liền tối trước và sáng hôm sau nhưng không chuyển. Cả Họa My, Sơn Ca khóc rấm rứt bởi tối qua phục vụ, chỉ có múa với kịch nói và tấu nhạc. Tốp ca nam nữ thiếu người, nên tiết mục hát không rầm rộ khí thế. Tôi khàn giọng, đội trưởng Dũng vất vả chỉ đạo, giọng anh cũng có tín hiệu như muốn khàn, dễ mất tiếng lắm.
Quân y sĩ Lê Đáng có ý kiến chuyển anh em vào suối mát, có nhiều tán cây, sẽ đỡ hơn chăng. Chuyển vào sâu trong rừng nghĩa là hơi xa đơn vị trực chiến, đành vậy.
Có nhiều chiến sĩ công binh xin phép thủ trưởng đơn vị cõng nhạc cụ, cõng... Họa My, Sơn Ca,... nhưng các cô đỏ mặt, ra hiệu không cần và cảm ơn các đồng chí, họ vẫn đi được...
Chà chà, chiến sĩ văn công có giọng hát là vũ khí mà mất giọng thì gay go quá. Nói không thành tiếng, cổ đau rát, nói gì cũng ra hiệu. Đội trưởng Dũng động viên từng người, một mặt anh nói với quân y sĩ Đáng liên hệ với bệnh viện dã chiến xem chữa chạy thế nào.
Lá thuốc mà Đáng đắp cho chúng tôi, có hiệu nghiệm là chỉ dịu mát, cổ họng bớt đau rát chứ vẫn không nói được huống chi là hát.
Tôi nóng lòng muốn khỏi bệnh, chắc Họa My, Sơn Ca cũng vậy. Lạ nhất là Mỹ, cây sáo của đơn vị, không liên quan gì đến phát âm mà cũng mất tiếng, rồi Nga, diễn viên múa cũng vậy. Lo lắng một thì buồn mười. Buồn vì không biểu diễn được. Rồi lại cả Thủy, đàn thập lục cũng bắt đầu khàn giọng cùng với Nga.
*
... Sau năm ngày bị mất tiếng, chúng tôi hát trở lại bình thường, cả đội đến hát với các tổ phá bom mìn, rồi đi bộ đến tốp thanh niên xung phong, sau lại đến chỗ các đồng chí công binh ủi đường. Tất cả reo hò phấn khởi toát cả mồ hôi. Đang hát thì máy bay Mỹ đến ném bom. Tôi kêu to:
- Các đồng chí, xuống hầm cá nhân ngay, đội mũ sắt lên...
Châu trống vỗ vào tai tôi:
- Anh Hải, mơ gì mà ú ớ, mà tay chân đạp loạn xạ vậy.
Thì ra tôi ngủ mơ!...
*
Đơn vị bộ đội công binh có săn được một con nai, họ nói ngoài Bắc anh chị em văn công chưa được nếm thịt thú rừng, nay chúng tôi trổ tài nấu nướng cho anh chị ăn xem sao. Thiếu nước, họ chỉ dám thui bằng lá cây rừng, sau đó cạo sạch, mổ vứt bỏ lòng, dạ dày, phổi, chỉ để tim gan. Xẻ thịt ra, chỉ làm có mỗi món... nướng. Nướng chỉ có ướp muối và xì dầu viên cô đặc của Trung Quốc viện trợ. Thế mà ngon. Lần đầu tiên cuộc đời, ăn thịt thú rừng nướng. Tất cả xuýt xoa, giá có thêm gia vị, càng ngon nữa.
Thủy, nhạc công tam thập lục ăn xong, hỏi Vũ Châu:
- Anh Châu, sao anh Lân béo và Tuệ còm lại nói là ăn cho lắm đạm, lắm đường, bí quá lấy chỗ nào mà đổ cơ chứ. Đổ gì hả anh. Tuệ còm còn nói, nó cứ cứng suốt, khổ thật. Lân béo nói cứng thì xóc xóc vào ống nứa ấy. Thế là chuyện gì nhỉ.
Châu cười toang toác, tôi cũng cười, nhưng khàn giọng mất tiếng, không thành tiếng. Cười nhiều quá, Thủy gắt:
- Người ta hỏi sao không trả lời mà cứ cười!
Châu nói:
- Bao giờ có chồng sẽ biết.
Thủy tròn mắt, vẫn không hiểu gì. Nhưng rồi vài ngày sau thì cô buộc phải hiểu khi hỏi quân y sĩ Đáng, anh đã giải thích. Cô thẹn đỏ mặt.
Sau tám ngày, những người mất tiếng đã bình phục lại. Lúc mất tiếng vẫn phải đứng vào đội hình cho đẹp, miệng mở theo khẩu hình lời hát. Bây giờ, hát được nhưng vẫn phải hát nhỏ, Trần Dũng bắt mọi người ngủ đúng giờ. Không được thức quá hai mươi mốt giờ ba mươi.
Nhưng mà, mới khỏi mất giọng thì cả đội lại gặp nạn mới đó là, cả hai mươi tư người bị nổi mẩn ngứa ngoài da. Dày đặc, nốt đỏ to như hạt ngô. Ngứa, gãi. May mà nó chưa nổi lên mặt.
Quân y sĩ Đáng cho biết ngay nguyên nhân: Thiếu chất rau xanh trong người và vitamin C trong hoa quả. Trước mắt, anh cho mọi người uống vitamin C. Một mặt phát động anh em nam giới khỏe mạnh đi vào rừng cùng công binh lâu năm ở Trường Sơn giúp đi tìm rau rừng. Nhưng, khô nóng thế này thì rau có mọc kịp không trong khi dọc dài dãy Trường Sơn, bộ đội công binh, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến rất nhiều, người ta cũng biết tìm rau chứ.
- Chả lẽ chịu chết, cứ đi. Đội trưởng Dũng cắt cử tôi và quân y sĩ Đáng ở nhà vì... đồng chí Hải là phó, thay tôi trực đơn vị, nữ ở nhà hết - Dũng dẫn đầu cùng một số sĩ quan công binh trẻ tuổi là thiếu úy Trần Long, đã ở Trường Sơn bốn năm. Trần Long kể với mọi người, sau đó, Châu trống về kể lại với tôi và chị em ở nhà:
- Các đồng chí mới chịu đựng hơn một tháng, chúng tôi đã bốn năm với bốn mùa khô. Có tháng không một miếng rau xanh, xót ruột lắm. Mẩn ngứa, gãi nhiều thành nhiễm trùng phát sốt. Rồi ghẻ nữa, ghẻ mới đáng sợ, sợ hơn bom đạn, sợ hơn vắt muỗi mùa mưa! Hôm nay khẩu phần rau của chúng tôi xin nhường các đồng chí
Chao ôi, đồng đội của chúng tôi: Giữa cái sống và cái chết, chả ai nghĩ cho riêng mình. Những uẩn khuất của riêng tư được quên đi, tất cả vì đồng đội, vì chiến thắng...
... Năm giờ chiều, rau đã về. Rau tàu bay, lá sấu rừng chua. Anh em phải trèo ngắt lá non. Quân y sĩ Đáng dặn anh nuôi luộc lấy nước rau. Chia thêm cho những người nào nổi mẩn ngứa dày đặc. Tôi để ý thấy Đội trưởng Trần Dũng bưng cái cà mèn đựng nước canh của mình sẻ cho Sơn Ca, Họa My. Họ không nhận, anh gắt nhỏ:
- Cầm lấy đồng chí, đây là mệnh lệnh!
*
Lại nhớ khi mới vào Trường Sơn được ba ngày, tôi để ý thấy Bình ắc-coóc có vẻ đăm chiêu. Trừ lúc biểu diễn phục vụ, còn lại anh ít nói, nét mặt luôn trầm tư. Nghe Châu trống, Tuấn cười kể tiếu lâm, anh cũng chỉ nhếch mép. Tối nào không diễn phục vụ anh chui vào hầm ngủ sớm...
... Bình có chị ruột tên là Thanh, lấy chồng năm mười bảy tuổi, anh Lê Minh Đức (Đức sáng ngời), người cùng xóm, gia đình Đức ở ngay cạnh gia đình bố mẹ chị Thanh, sát hàng rào. Hai gia đình thân nhau trước lúc chị Thanh là vợ anh Đức. Hai mươi bảy tuổi mới có đứa con gái đầu lòng. Anh công tác ở thị xã, làm ở phòng thuế, chuyên đi thu thuế chợ, bắt hàng lậu ở khu vực thị xã.
Anh rất yêu vợ bởi chị Thanh ngoan, xinh đẹp, chăm lo cho bố mẹ chồng như con gái chăm bố mẹ đẻ để anh Đức yên tâm công tác. Chiều thứ bảy anh mới ở cơ quan về, bốn giờ sáng thứ hai đạp xe về cơ quan. Bố mẹ, anh em nội ngoại nhà chồng ai cũng yêu quý chị. Bỗng nhiên, khi chị ở tuổi ba mươi lăm, anh Đức làm đơn ly hôn.
Chị khóc, hỏi lý do. Anh bảo không hợp. Bố mẹ anh Đức, anh chị em, chú bác cô dì... nội ngoại đều phản đối anh. Anh không nghe. Cực chẳng đã, chị Thanh đồng ý ly hôn. Về nhà mình ở. Chị nói, chị về nhà chồng tay trắng, nay ra đi cũng trắng tay, không cần gì.
Về nhà được sáu tháng, sau Tết Nguyên đán năm một ngàn chín trăm bảy mươi hai, chị được một người chú họ của Bình xin vào làm cấp dưỡng ở Lâm trường Bạch Thông, mãi tận Bắc Kạn.
Thì ra, Đức sáng mà không có đức. Anh ta thấy một cô gái trẻ buôn chè búp Thái Nguyên về chợ huyện nhà bán, bắt luôn. Cô này tiếc của: Năm mươi kilôgam chè chứ có ít đâu. Đành phải cho anh ta giải quyết. Nhiều lần như thế, anh và ả lén lút quan hệ, được đứa con trai. Anh bỏ chị Thanh tháng trước, tháng sau cơ quan đuổi việc. Anh uống rượu, say xong chửi gia đình nhà Bình rằng đã tố cáo để anh ta bị đuổi việc. Bố mắng, anh ta cầm gậy đánh bố đến gãy cả tay!
Hai nhà ở cạnh nhau, chịu sao được, nên chị Thanh phải tìm chỗ khác bằng việc lên Bắc Kạn, bởi sáng ra mới bảnh mắt, anh ta lại chửi cạnh khóe. Việc anh ta bị cơ quan cho thôi việc không phải do gia đình Bình tố cáo. Mà việc quan hệ nam nữ bất chính bị lộ là tong đời ngay.
Có người, chỉ là quen thân một bạn nữ chưa chồng, người này đã có vợ mà còn bị kiểm điểm tơi bời kia kìa! Nhưng vì thế, họ không dám thân nhau như anh em nữa. Câu chuyện về chị Thanh chính là chuyện mà Bình kể cho Minh ở tổ hát nghe. Minh kể lại cho tôi. Thảo nào, mặt anh lúc nào cũng buồn bã, thậm chí phờ phạc như mất ngủ. Tôi định gặp Bình ắc-coóc, lựa lời động viên anh trong một dịp thuận lợi .
*
Châu trống và Lê Thảo, sáng nay đi bộ ra suối rửa mặt. Họ dậy rất sớm, mới tờ mờ, chưa rõ mặt nhau. Ra suối lúc này còn có nước mà dùng. Bởi ban đêm, không có người dùng, nước rỉ ra từ vách đã tích cóp ở lòng suối được một chút ít. Châu nói:
- Phải công nhận là Họa My của đội ta đẹp. Nhìn đến ngứa, rồi đau cả mắt, nhức cả đầu, khô cả lưỡi.
Lê Thảo chưa hiểu ý nói gì. Châu giải thích: “Ngứa mắt tức là... tức là muốn cô ta là của mình, của mình ngay lập tức, không ai được quản lý và sử dụng. Còn đau mắt là nhìn mãi người đẹp mà vẫn muốn nhìn, nhìn không được gì vẫn nhìn đến đau mắt chứ sao. Tương tự, đau mắt thì nhức đầu, nhức đầu do tập trung nhìn, thần kinh trung ương căng thẳng mà điều khiển mắt nên nhức đầu. Còn khô cả lưỡi có thế mà không hiểu. Có vợ rồi mà không hiểu à, này nhá - Khô cả lưỡi là do nhìn người đẹp, chết thèm nên nuốt mãi nước bọt, hết nước bọt thì lưỡi khô, ha ha ha...”.
Đúng như Châu nói: Họa My tiếp tục rực rỡ. Vẫn bộ quân phục ấy, vẫn con người ấy, vậy mà..., mỗi một lần lên diễn, hình như cái đẹp được nhân lên gấp bội, và cái đẹp như mới thêm ra. Những Họa My, Sơn Ca, Ngân, Nga, Thủy, Yến, các đồng chí nữ của chúng tôi xuất hiện ở Trường Sơn, họ là những bông hoa đẹp nở trong bão lửa của cuộc chiến tranh giữ nước. Họ cũng như bao nữ dân công hỏa tuyến, nữ thanh niên xung phong cùng góp phần tô thắm cho truyền thống dân tộc bốn nghìn năm...
... Mặc dù, bệnh mẩn ngứa do thiếu rau vẫn còn nhưng, tất cả vẫn say sưa hát và múa. Hát và múa có thể vừa thể hiện nhưng vẫn khéo léo gãi được, chứ đàn, nhạc, sáo, trống thì chịu. Phải gắng thôi. Đó cũng là một thử thách phải vượt qua, yêu cầu có lòng dũng cảm, kiên trì... Ngứa mà gãi đến bật máu ra vẫn ngứa. Khổ nhất là vùng kín bị ngứa. Ai đã bị như thế, mới thấu hiểu cho những người lính Trường Sơn và cho chúng tôi những ngày ngứa ở da mà nước thì thiếu. Mồ hôi ra càng ngứa, gãi mạnh, mồ hôi thấm vào, xót lắm. Nhưng chẳng ai kêu, bởi so với sự hy sinh, gian khổ của bao cán bộ, chiến sĩ ở Trường Sơn, thì chúng tôi quá nhỏ bé. Và chúng tôi đã trụ vững. Tiểu đoàn trưởng công binh Vũ Thật hôm qua đến thăm chúng tôi, anh nói: “Đó mới là thử thách bước đầu, nhưng tôi tin các đồng chí sẽ chiến thắng. Các đồng chí xứng đáng là các chiến sĩ trên mặt trận ác liệt nhưng vinh quang. Ngày chiến thắng không còn xa. Trong lịch sử chiến tranh của dân tộc, các đồng chí cũng có tên trong bảng vàng để các thế hệ mai sau còn mãi nhắc đến!