Hôm qua, sau buổi biểu diễn phục vụ một tiểu đội phá bom, Họa My kể về việc Sơn Ca có khoe rằng anh chàng Hường ở bên dân công hỏa tuyến có gửi tám bài thơ tặng nội dung là những câu thơ ca ngợi giọng hát, cặp má lúm đồng tiền của Sơn Ca và hẹn ngày thắng lợi. Chúc em luôn mạnh khỏe để phục vụ đồng đội, cùng đồng đội chiến thắng...
Đến lượt tôi nhìn Họa My, cái nhìn của người đàn ông đang yêu. Nhưng Họa My lại cố tình tránh cái nhìn của tôi. Cô kể chuyện gia đình, cô nói sau khi hoàn thành nhiệm vụ mời anh Hải về quê em, vào ngày Hội Lim - tháng Giêng âm lịch, vui lắm. Tha hồ chọn vợ đẹp hát hay. Em có người yêu rồi. Trung úy đấy nhé. Tôi thì lại nghĩ thầm anh chỉ muốn có em. Tuy nhiên tôi cũng kịp nghĩ có lẽ Họa My có người yêu thật, nên ba tháng huấn luyện ở ngoài Bắc, cô rất gần gũi tôi trong công việc nhưng tình cảm thì né tránh. Họa My có lần nói: “Anh Hải có thấy một người đàn ông trẻ, trắng trẻo nhưng hơi gầy hay tìm gặp em không? Có à. Đấy, anh ta, lái xe ty lương thực. Ba ngày đến chỗ em một lần. Lần nào đến cũng cho em xà phòng giặt, rồi thì những thứ cần cho con gái, có lần một tập tiền toàn tờ năm đồng mới coóng. Em chả nhận thứ gì. Còn một ngày nữa thì đội ta lên đường, anh ta còn đến mong em trả lời, anh ta sẵn sàng chờ bao nhiêu năm cũng được. Em lạ gì, lái xe bên dân sự không thiếu những mối tình chớp nhoáng. Chứ lái xe bộ đội ấy à, bố bảo. Giá mà... chà chà, bây giờ mà có mấy bánh xà phòng giặt thì hay quá...”.
... Tôi nghe Họa My nói, nhớ đến chiều hôm kia, lúc ba giờ, Sơn Ca vào hầm tôi hỏi: “Anh Hải có giẻ rách không, cho em một ít?”. Tôi hỏi giẻ rách làm gì? Mồm hỏi nhưng bụng nghĩ cô này muốn kiếm cớ gặp mình mà thôi nhưng nhìn vẻ buồn buồn của cô ấy. Tôi hỏi lại, Sơn Ca nói, nước suối cũng cạn trơ, muốn có phải đi xa bốn cây số đường rừng, mấy anh bộ đội công binh nói vậy, nên... nếu có giẻ rách, dùng xong bỏ ngay cũng được.
Bây giờ thì tôi hiểu. Tôi nói, em về đi, đoạn anh đưa sang. Sơn Ca đi ra. Tôi lấy ngay một cái áo Đông Xuân tuy cũ nhưng không rách tý nào, và cởi ngay một cái như thế đang mặc, cố tình thò tay xé rách rồi đem đến cho Sơn Ca. Cô hồn nhiên cầm lấy, reo lên, cảm ơn mà lại còn nói to, giẻ rách này còn mới quá, sạch quá!...
*
... Nhớ lại ngày mùng một tháng mười một năm một ngàn chín trăm sáu tám, Giôn-xơn, Tổng thống Mỹ tuyên bố dừng ném bom miền Bắc, chấm dứt bốn năm chúng tiến hành chiến tranh phá hoại, hậu phương lớn, buộc chúng phải ngồi họp Hội nghị Pari, giải quyết vấn đề bằng thế thắng ở chiến trường, buộc ta phải xuống thang. Do vậy, chúng tập trung đánh mạnh ở miền Nam. Tuy nhiên, nhân dân miền Nam đã từng ngày, từng giờ làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ”. Chúng lại giở trò “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Đầu năm một ngàn chín trăm bảy hai, cả ba mặt trận: Ngoại giao, quân sự, chính trị chúng đều thua. Nguy cơ “Việt Nam hóa chiến tranh” của chúng sụp đổ. Do vậy ngày mùng sáu tháng tư năm ngàn một chín trăm bảy hai, Ních-xơn, tổng thống kế nhiệm ra lệnh phát động chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai với quy mô lớn hơn, ác liệt hơn và tàn bạo hơn. Chúng sử dụng hải, lục, không quân đánh phá ác liệt dùng máy bay B-52 ném bom hủy diệt, dùng ngư lôi phong tỏa cảng Hải Phòng, cảng Sông Gianh...
Và, ở Trường Sơn, chúng tôi đã nếm trận B-52 đầu tiên. Lúc ấy, vào bốn giờ chiều, đội “Hoa phong lan” đang phục vụ một trận địa pháo ở một ngọn đồi cao, cách trọng điểm chữ U trên đường Trường Sơn mà chúng vẫn đánh phá từ nhiều năm nay. Chương trình diễn ra mới được hai mươi phút, bỗng nghe tiếng gầm rít, chỉ sau mười giây là hàng loạt tiếng nổ. Chỉ huy trận địa bình tĩnh chỉ đạo anh em chúng tôi vào hầm trú ẩn cách đó khoảng năm mươi mét, mấy cái hầm chữ A khá rộng. Đây là chỗ trú ẩn tạm cho những đồng chí nào lỡ bị thương và sơ cứu, trong khi chờ đợi đưa đi cấp cứu ở tuyến trên.
Đợt bom kéo dài hai mươi phút, mặt đất như đưa võng. Nhiều anh em chúng tôi đầu đập vào thành gỗ của hầm chữ A, có cảm tưởng như hầm sắp sập. Sơn Ca ôm chặt lấy tôi thầm thì em sợ quá, nhưng có anh, em không sợ.
Tôi thì nghĩ đến Họa My, cô ở hầm khác. Không biết Họa My có tâm trạng gì khi chứng kiến trận B-52 đầu tiên ở tuyến lửa?
Nếu nói rằng, vào chiến trường, đối mặt với bom đạn, không có ai nghĩ đến cái chết là nói khoác. Và nói thẳng là ai cũng không muốn chết, mà rất sợ chết. Nhưng, chỉ xem những đoạn phim mà bọn lính Mỹ sát hại dân ta ở miền Nam thì không ai sợ chết, nếu ở đó, ai cũng sẵn sàng lao vào đánh lại chúng, dù chỉ có tay không.
Tôi nghĩ đến cái chết. Tôi có lần nói với anh Thảo, tổ trưởng tổ nhạc và Tuấn cười, người cùng quê Sơn Tây với tôi:
- Nếu hy sinh, tôi chỉ muốn hy sinh lúc mình đang hát ở trận địa, như hàng ngàn chiến sĩ Hồng quân Xô-viết, hát trước mũi súng lũ phát xít Đức, trong thế chiến thứ hai. Nếu phải chết thì chết như thế, không chết lặng lẽ, chết không ai biết. Nhưng, ước muốn là thế, bom đạn giặc có chừa ai đâu, nó “cắt hộ khẩu” bất kỳ lúc nào. Cho nên, đã ra trận phải sẵn sàng đón nhận tình huống xấu.
Tôi nhớ đến quê, một làng nhỏ bên bờ sông Đà. Sông đẹp nhất là vào cuối mùa thu. Nước không đỏ ngầu sủi bọt và chảy xiết như lũ tháng năm. Dòng sông thu hẹp lại, nước chảy chầm chậm, trong vắt. Đêm ngày, rộn rã những cánh buồm nâu, buồm trắng ngược xuôi.
Năm ngoái, tôi có về phép năm ngày. Gặp các bạn cũ là nữ, có một người chưa chồng, tham gia vào trung đội dân quân cơ động. Cô là bí thư chi đoàn mời tôi: “Hải ơi, tối đến sinh hoạt với chúng tớ, hát cho chúng tớ nghe bài “Hà Tây quê lụa” nhé. Các cậu sướng thật, đi văn công, ăn trắng mặc trơn, đi đâu cũng có người đưa đón, ai cũng đẹp. Sướng thật!”.
Em họ tôi - cái Loan mười sáu tuổi, cứ năn nỉ xin được cho đi văn công bộ đội. Tôi nói rằng em phải học hết lớp mười, phải có giọng hát. Nó nói muốn xin làm diễn viên múa thì cần gì giọng hát, chỉ cần co người đẹp với bàn tay thon thì chắc là ổn?
Ở hậu phương, họ có biết, bây giờ chúng tôi đang đối mặt với sự tàn bạo của sắt thép mà người Mỹ ném xuống. Họ có biết đâu chúng tôi cũng hành quân vác nặng, chân rớm máu, vai bỏng rát vì đeo ba lô, chứ không như họ nói - nếu có vào chiến trường cũng có xe đưa đón. Chỉ đi bộ từ ngã tư Thọ Lộc, huyện Bố Trạch - Quảng Bình lên phà Long Đại khoảng hai mươi kilômét mà hai vai của những nữ chiến sĩ văn công trầy xước, rớm máu vì đeo ba lô... Rồi nữa, hãy thử bị một lần khát nước mà nửa ngày không được uống vì trên đầu, máy bay giặc quần đảo, bom tấn, bom bi, rốc-két từ trên máy bay của chúng vãi xuống như vãi trấu thì mới hiểu thế nào là gian lao.
Ngay việc, nếu không có chiến tranh, văn công chỉ ăn với tập luyện cũng vất vả cùng cực. Chỉ vì trót đam mê nghề nghiệp, mà hình như thượng đế đã sắp đặt mỗi người một nghề. Nghe những người theo gánh hát chèo ngày xưa kể: Đi hát một đêm được cả lạng vàng, chứ ngày nay, người hát cũng tem phiếu, chả đủ ăn, làm gì có dư mà gửi về cho bố mẹ. Giờ đây, ngay cả văn công bên dân sự ở miền Bắc cũng phải vừa diễn vừa lo công tác phòng không, vất vả kém gì?
... Máy bay đã đi xa, cả khoảng trời, khoảng rừng mênh mông Trường Sơn trở lại im ắng. Chỉ có chang chang nắng, và rồi, có tiếng gọi nhau í ới rất gần. Tôi định choàng ngay dậy nhưng lại nghĩ, việc của chúng tôi chỉ là phục vụ, không nhất thiết và không ai bắt chiến sĩ văn công xung kích phải tham gia vác đạn, vác gạo, trừ trường hợp cứu thương khẩn cấp đối với những cán bộ, chiến sĩ ở những đơn vị mà chúng tôi đến phục vụ.
Sơn Ca gối đầu vào đùi tôi, tiếng ngáy nhẹ, đều đều. Cô ngủ ngon lành, miệng hé mở như đang cười. Tôi đặt khẽ đầu cô xuống, rồi lao ra khỏi hầm. Trận địa pháo bị bom vùi, ba đồng chí pháo thủ hy sinh, tám bị thương nặng. Đội trưởng Trần Dũng tuýt còi, miệng nói các đồng chí nam giới tập hợp. Theo lời đội trưởng, tất cả dọn dẹp giúp anh em pháo binh việc chôn cất người hy sinh, chuyện này xảy ra không ngoài dự kiến mà khi huấn luyện ba tháng ở ngoài Bắc đã đề cập đến.
Mãi đến bảy giờ tối mới xong mọi việc. Cả đội ngồi quây quần nhưng không ai nói nổi câu nào với ai. Cơm nuốt không trôi, cổ họng ai cũng như có vật đắng chẹn ngang. Ai cũng nghĩ thương đồng đội của mình. Ba người hy sinh, tuổi đời mới ngoài hai mươi, trong đó có cả sinh viên tạm rời giảng đường đại học. Thương quá.
... Tám giờ tối, toàn đội có lệnh lùi lại khoảng năm kilômét về phía bắc, phục vụ Trạm Quân y dã chiến số Ba. Trạm này cách trục chính của Đường Trường Sơn sáu kilômét, đi bộ theo đường nhánh (gọi là đường xương cá).
Tất cả hăm hở lên đường. Đêm ấy, trăng mười sáu, trăng lọt qua những khoảng trống của những tán cây rừng. Có giao liên dẫn đường. Chúng tôi đến trạm đúng hai mươi hai giờ ba mươi phút. Nghỉ năm phút, tốp ca nam nữ hát đầu tiên “Bác đang cùng chúng cháu hành quân”. Trạm này nằm dưới những gốc cây cổ thụ, có những hầm chữ A rất to, diện tích đến ba mươi mét vuông. Chúng tôi diễn say sưa.
Ắc-coóc-đê-ông của Bình mới nổi lên, tất cả thương binh, quân y sĩ vỗ tay hát theo chúng tôi. Tiếng ắc-coóc mạnh mẽ, dồn dập thích hợp với biểu diễn dã chiến, không cần loa đài lớn.
Tan buổi diễn là mười một giờ đêm. Chúng tôi quây quần hỏi thăm các thương binh, hỏi thăm quê quán, nhận đồng hương vừa ăn bồi dưỡng... lương khô. Chao ôi, ăn lương khô, chỉ sợ không có nước uống, nhưng không, đồng chí bác sĩ trưởng trạm nói, có con suối trong, dù còn ít nước nhưng... các đồng chí đủ dùng. Anh cho người khiêng đến ba thùng tô-mi-nê bằng men trắng. Chúng tôi uống thả phanh và tiếc rẻ không ai mang bi đông để lấy về.
Một điều mà hình như cả hai mươi bốn con người đều chung một ý nghĩ là: Ngắm trăng bên suối và... tắm suối. Tuấn cười là người nêu ra ý kiến này:
- Đề nghị đội trưởng cho tất cả mọi người ra suối ngắm trăng và tắm.
Không ngờ Dũng vỗ tay khen. Rồi anh nói:
- Ưu tiên nữ tắm trước, mọi người đứng xa canh gác.
Đồng chí đại úy, trưởng trạm quân y dã chiến cử một đồng chí bảo vệ đưa chúng tôi đến một đoạn suối có nhiều nước nhất, nhưng cũng chỉ quá đầu gối một chút. Anh giải thích, là do anh em ở trạm quân y moi đá, cải tạo cho nó sâu hơn đấy.
Được, vẫn đằm mình được. Và đêm ấy chúng tôi tha hồ tắm thỏa thuê, rồi ngắm trăng bên suối, đến khi gà rừng báo sáng. Bình minh rồi, chúng tôi lại hành quân về phía mặt trận...