Đội trưởng Trần Dũng đã điện ra Hà Nội, xin phép cho chuyển cậu Hường bên dân công hoả tuyến sang với đội. Nhưng anh Pho - Đại đội trưởng dân công hoả tuyến giãy nảy:
- Không được, đồng chí đã nhầm rồi.
- Nhầm gì cơ ạ? - Dũng ngạc nhiên.
Theo lời kể của anh Pho, Dũng có thể hiểu tóm tắt như thế này: Nguyễn Minh Hường, sinh năm một ngàn chín trăm năm mốt, tốt nghiệp 10/10. Do bố đẻ có thời gian đi lính cho Tây nên được xếp vào thành phần không trong sạch, nên dù học giỏi, năm chị em Hường không được đi đại học, thậm chí không được đi bộ đội và đi thanh niên xung phong.
Dũng về chỗ ở, một lát sau, chị Liên, Đại đội phó của anh Pho sang. Không rõ ai nói gì mà chị Liên nói thế này:
- Bố cậu này có đi lính Tây nhưng là do bị bắt đi, ông ta đã bỏ trốn về trước khi giải phóng Điện Biên Phủ sáu tháng. Ông ta đi lính ba năm, nhưng chỉ ở đơn vị hậu cần. Nếu có tội ác thì đã bị xử năm một ngàn chín trăm năm nhăm rồi. Các anh cứ lấy cậu Hường đi!
Dũng nói:
- Tôi xin phép cấp trên đã, trả lời chị sau.
Nhưng không bao giờ chị Liên và anh em bên dân công hoả tuyến nghe Dũng trả lời như thế nào bởi vì anh Pho điện ra ngoài đó nên Hường không được chuyển sang đội “Hoa phong lan”. Cũng tiếc cho cậu nhưng biết làm thế nào...
... Chúng tôi tiếp tục vào sâu hơn, cách đơn vị dân công hoả tuyến mười lăm cây số, vậy mà đêm diễn đầu tiên ở chỗ mới đến thuộc Binh trạm Ba vào lúc năm giờ chiều, tôi lại thấy Hường đến xem. Cậu ta đến trước lúc biểu diễn hai giờ đồng hồ. Tôi hỏi Hường không phải làm việc hôm nay à. Hường nói được anh Pho cho nghỉ để sáng tác một kịch ngắn ba mươi phút chuẩn bị cho hội diễn của mười ba đại đội dân công hoả tuyến, thuộc Trung đoàn Bảy mốt.
Tôi có cảm tình với cậu, nhưng lại buồn vì sáng hôm qua Dũng nói với Sơn Ca:
- Đồng chí không được yêu cậu Hường ở dân công hoả tuyến đâu.
- Vì sao vậy? - Sơn Ca lơ đãng quay chỗ khác.
- Đồng chí nhìn thẳng vào mặt chỉ huy đây này. Tôi nhắc rồi, đồng chí không được yêu cậu ta.
- Vì sao vậy thưa chỉ huy?
- Cậu ta là con nhà ảnh hưởng lý lịch, không hợp với đồng chí.
- Tại chỉ huy không yêu tôi, tôi phải tìm người yêu chứ.
- Không được! Nhất là đang làm nhiệm vụ, không được yêu đương. Học tập rồi! Quán triệt rồi!
Sơn Ca cười khanh khách:
- Lúc học tập, cấp trên chỉ nghiêm cấm kết hôn trong chiến trường, chúng ta đi có một năm, không việc gì phải vội, đúng không? Yêu, chứ kết hôn ngay đâu ạ.
Dũng lúng túng một lát rồi nói:
- Tôi không có thời gian cãi nhau với đồng chí, muốn về địa phương thì... liệu đấy!
Ái chà, ngày này mà về địa phương, khác gì đào ngũ, tiếng xấu suốt đời.
Tôi không đồng ý với Dũng ở chỗ, anh nhắc riêng Sơn Ca thì được nhưng cuộc họp toàn đội cũng lôi ra cái chuyện cấm các nữ diễn viên trong đội “Hoa phong lan” yêu cậu Hường rằng cậu ta có thành phần không trong sạch, suốt đời chỉ ở nhà đi cày mà thôi!
Tôi nghĩ, bố mẹ, anh em Dũng hoặc chú bác cũng đang đi cày. Đi cày là xấu hay sao mà anh ta lại nói vậy. Lẽ ra Dũng phải khéo léo, không nên xúc phạm đến người khác...
... Sơn Ca sinh năm một ngàn chín trăm năm mốt. Năm nay vừa hai mốt tuổi, sinh ra ở thị xã Hưng Yên. Cô có cặp mắt đen hạt nhãn, hình thức của cô điểm tám thì Họa My là điểm mười. Họa My đẹp kiểu hiền dịu, hơi buồn ở cặp mắt, Sơn Ca sắc sảo, nhanh nhẹn. Cô thấp hơn Họa My khoảng ba centimét. Chỉ tội cái cằm hơi lẹm một tí, nên cô chịu thua Họa My một chút về hình thức. Nhìn chung, diễn viên nữ trong đội “Hoa phong lan” ra mặt trận lần này đều xinh đẹp. Sơn Ca cũng học xong trường Trung cấp Văn hóa Nghệ thuật Việt Bắc - sau về Tỉnh đội Hưng Yên. Được hơn một năm, tình nguyện vào chiến trường với chúng tôi.
Trở lại chuyện ngăn cấm Sơn Ca và Hường. Dũng lấy lý do Hường ảnh hưởng lý lịch để ngăn cấm Sơn Ca. Nói đi nói lại khoảng nửa giờ đồng hồ, Sơn Ca tỏ vẻ bất cần:
- Ai cấm yêu được ai? Yêu mà hoàn thành nhiệm vụ là được chứ ! Thưa chỉ huy.
- Tôi yêu cầu đồng chí nghiêm túc lại.
- Thì tôi vẫn nghiêm túc đấy chứ!
- Không được vắt tréo cái chân thế kia!
- Nhưng chân nó mỏi, nó thích thế một tý thôi mà.
- Đồng chí đứng lên.
- Thì tôi đứng đây ạ!
Sơn Ca đứng lên, mắt nhìn thẳng vào Dũng. Tôi thấy anh lúng túng, mãi rồi anh mới nói:
- Quân đội cách mạng phải có kỷ luật nghiêm minh, không có kỷ luật thì không đánh thắng kẻ thù xâm lược. Lịch sử bốn ngàn năm của nước ta là đánh giặc giữ nước. Quân đội thời kỳ nào cũng có kỷ luật. Có kỷ luật là có tất cả.
Dũng nói đến đây thì tôi và một số anh em tủm tỉm cười vì anh vừa nói vừa đi đi lại lại, tay trái chống nạng, tay phải đưa lên đưa xuống. Anh nói không sai nhưng nghe ngồ ngộ thế nào ấy.
*
Tuấn, tổ trưởng tổ kịch cũng là một chàng trai đa năng. Sáng tác được bài hát, kịch ngắn phục vụ kịp thời, có tài bịa chuyện cười và kể chuyện cười.
Chiều nay họp đội xong, chưa có cơm, Sơn Ca nói anh Tuấn cười ơi, kể câu chuyện cho vui trong khi chờ cơm! Mọi người xúm lại, trừ Dũng, anh không thích tếu táo. Lúc nào cũng tạo cho mình một tác phong đạo mạo giống chỉ huy. Tuấn e hèm rồi kể:
- Vừa qua trong hội diễn văn nghệ chống Mỹ, cứu nước. Đội tuyển văn nghệ quần chúng của công ty vệ sinh thành phố đã có đóng góp một chương trình ca, múa. Cô gái là người giới thiệu của đội đã mở đầu như sau...
Khi còn huấn luyện ba tháng ở ngoài Bắc, Tuấn để ý đến Sơn Ca, nhưng không được Sơn Ca đón nhận.
Tuấn hai mươi bảy tuổi, cùng quê Ba Vì - Sơn Tây với tôi, hơn tôi một tuổi, khác xã. Làng anh ở ven sông Hồng, còn làng tôi ở ven sông Đà. Giữa năm một ngàn chín trăm sáu mươi tám ba huyện Bất Bạt, Tùng Thiện, Quảng Oai của tỉnh Sơn Tây, sáp nhập thành một huyện lấy tên Ba Vì.
Núi Ba Vì thuộc huyện Tùng Thiện và Bất Bạt. Tuấn cười ở huyện Quảng Oai cũ. Tôi ở Bất Bạt.
Tuấn định kể tiếp thì Dũng đến. Thấy Dũng, tất cả im lặng. Dũng nói tôi tuyên bố, đồng chí Họa My tiếp tục hát đơn ca, ngâm thơ chính của đội.
Lạ quá, tất cả vỗ tay, chỉ có Sơn Ca xịu mặt lại. Từ lúc nhập đội, Sơn Ca đã tỏ thái độ ghen tỵ với Họa My. Sáu buổi phục vụ bộ đội không có Họa My đơn ca, Sơn Ca hát thay, hát những bài vốn được quen là bài ruột của Họa My như: “Nổi trống lên rừng núi ơi”, “Cô gái vót chông”. Giọng cô cũng tốt nhưng vẫn còn kém Họa My một bậc, mặc dù khán giả hoan hô cổ vũ nồng nhiệt. Nhưng họ không biết trong đội “Hoa phong lan” có một nữ diễn viên xinh đẹp đang đứng ở dàn đồng ca kia mới là người hát hay nhất...
... Tuấn có thân hình cao lớn, chỉ tội mặt hơi thô, và sở hữu một hàm răng tuy đều nhưng to nên khi mím môi rất khó. Vậy là lúc nào cũng như cười nên anh em trong đội gọi vui là Tuấn cười. Gọi mãi thành quen.
Trong chiến tranh, kỷ luật quân đội không cho phép kết hôn. Nhưng, việc từng cặp lén lút nhìn nhau, tranh thủ lúc ăn cơm, lúc luyện tập, giải lao nói chuyện vài câu hứa hẹn, ai biết được. Thực ra, người ta chỉ sợ chỉ huy thôi, chứ sau lưng chỉ huy thì đâu lại vào đấy. Ai giữ được mình thì khi trở về được trân trọng, không giữ được thì chịu tai tiếng.
... Đa số cũng tỏ vẻ vui mừng vì Họa My được hát đơn ca trở lại. Có giọng hát hay, ai mà không muốn đơn ca, vì hát đơn ca người ta mới thể hiện được tài năng, giá trị của mình. Vào mặt trận cũng vậy, đâu có phải diễn viên nào cũng được hát đơn ca.
... Họa My có lẽ tin tưởng tôi nên cô hồn nhiên kể rằng nhà cô nghèo lắm, bố mẹ lấy nhau ở tuổi mười chín, đôi mươi mà ngoài ba mươi mới có anh trai cô là con đầu, sau là cô và hai em nữa. Làm ruộng hợp tác xã chả đủ ăn. Quanh năm, thèm cơm thèm thịt. Mong có ngày giỗ, ngày tết nhưng cũng chỉ đủ nhờn môi.
Lúc mười ba tuổi, xem văn công bộ đội diễn ở sân đình làng mình, Họa My thích lắm.
- Anh Hải ạ, lúc ấy nhìn các chị diễn viên mặc quân phục lên hát, em mê lắm. May mà em được đi học rồi vào văn công quân đội. Anh xem em mặc quân phục được chứ?
Tôi khen đẹp và nhìn Họa My theo kiểu người con trai đang thèm yêu... Đêm ấy, Họa My hát. Cả núi rừng Trường Sơn như rung chuyển. Con suối như thôi rì rào. Mấy thác nước như ngừng đổ. Chỉ phục vụ có một trung đội công binh phá bom ở cua chữ Y, hơn ba mươi người, nhưng trước mắt chúng tôi như có cả ngàn vạn khán giả đang im lặng lắng nghe.
Tôi đơn ca bài “Bài ca Trường Sơn”, cả trung đội công binh vỗ tay hát theo. Và họ lại hát cùng tốp ca nam nữ của chúng tôi bài “Bác đang cùng chúng cháu hành quân”. Hát, để phục vụ. Nghe, để mai lao vào trận chiến đấu mới. Trong số khán giả đêm nay, mai sẽ có ai là người mãi mãi ra đi. Hè năm một ngàn chín trăm bảy hai đỏ lửa. Nhưng Trường Sơn vẫn nhộn nhịp những đoàn quân ra trận, những đoàn xe hối hả nối theo nhau. Chúng tôi hát, hát để cán bộ, chiến sĩ đang ở mặt trận ngày đêm có thêm sức mạnh và niềm tin ở ngày chiến thắng.
*
Lúc ấy khoảng mười hai giờ ba mươi phút, chúng tôi đang nghỉ ngơi buổi trưa, bỗng mấy tiếng nổ ục ục rất nhỏ. Mặt đất chao đảo. Theo những anh chị đã ở Trường Sơn lâu năm thì mặt đất chao đảo mạnh, tiếng nổ không to nghĩa là chúng ném bom tọa độ ở rất gần nơi đóng quân, và như thế nghĩa là sẽ có chuyện. Đúng như vậy, đội hình của Trung đội công binh số Một thuộc Binh trạm Hai mươi mốt (BT21) án ngữ tại cua chữ Y bị bom. Thật đau lòng khi thấy đồng đội của mình đào bới mấy căn hầm chữ A đưa ra thi thể tám cán bộ, chiến sĩ của trung đội. Vừa mới gặp nhau đêm qua.
Mười hai căn hầm chữ A của chúng tôi không hề gì. Hầm chúng tôi ở cách các đồng chí công binh có năm mươi mét. Những chiếc hầm mà chúng tôi ở là do có công văn ở Binh trạm gửi xuống, anh em công binh đã vào rừng đẵn gỗ, dựng trong một đêm thì xong.
Các nữ diễn viên văn công bật khóc hu hu, như chính anh trai mình, người thân của mình ngã xuống. Các anh được yên nghỉ trong một khoảng đất trống sâu trong rừng. Không có nhang khói, chỉ có rất nhiều hoa rừng phủ lên mộ các anh.
Đội nhạc của đội “Hoa phong lan” chúng tôi dự lễ truy điệu đã tấu khúc mặc niệm “Hồn tử sĩ”. Âm thanh réo rắt của bốn cây vĩ cầm hòa với tiếng đàn bầu nghe buồn thê thảm. Sau đó là hai mươi mốt phát AK nổ vang.
Lần đầu tiên tôi nhìn thấy người đồng đội hy sinh, nhìn thấy máu của đồng đội đổ xuống do quân xâm lược gây ra.
Đêm ấy, suốt từ mười giờ đêm tới bốn giờ sáng, bom nổ to, chát chúa. Nó nổ ở mặt đường, cách chúng tôi hai cây số đường chim bay. Không biết đêm nay, trong đoàn xe và đoàn người vượt Trường Sơn ra trận, có xe nào, có đồng đội nào của tôi gặp nạn không? Lần đầu tiên trong cuộc đời, tôi không ngủ, nghe bom nổ. Và sợ hãi xen lẫn lo âu. Chắc là ai cũng đang nghĩ đến... việc lỡ mình phải ra đi khi mà bom của Mỹ ném không ngớt, pháo sáng thả rợp trời, ánh sáng, tiếng nổ của tội ác. Cứ như thể số bom thừa trong chiến tranh thế giới thứ hai của Mỹ tồn lại trong kho, cộng với số bom sản xuất sau năm một ngàn chín trăm bốn lăm đến lúc này, mùa hè năm một ngàn chín trăm bảy hai đỏ lửa, đem dồn vào, trút hết xuống Việt Nam, trong đó có đường Trường Sơn.
... Khoảng bốn giờ sáng, Sơn Ca như cơn gió ào vào chỗ tôi. Cô bật khóc, tôi lúng túng không biết nói câu gì, lại mong cô ta im lặng đi ra khỏi lều kẻo anh em trông thấy là lôi thôi. Nhưng tôi không nói được. Tôi đứng dậy đi ra, tốt nhất là mình phải ra. Trai gái bên nhau, không có chuyện gì cũng chả ai thanh minh được. Nhưng bỗng Sơn Ca thôi khóc, cô theo sau ôm chặt lấy tôi, kéo tôi ngồi xuống, giọng ráo hoảnh:
- Anh đi đâu? Ra đó gió lạnh. Ngồi xuống đây, em không ăn thịt anh đâu.
- Nhưng mà...
- Sợ người ta nói trai gái trong bóng đen hả? Thì đốt đèn to nữa lên.
Căn hầm sáng hơn. Hai chúng tôi im lặng thật lâu. Rồi Sơn Ca nói trước:
- Bom Mỹ, anh sợ không?
Tôi định nói dù sợ cũng phải hoàn thành nhiệm vụ, vấn đề là, tôi cũng là phó chỉ huy, phải dũng cảm. Nhưng tôi không nói thế, mà tôi hỏi lại:
- Cô có sợ không?
Sơn Ca nói:
- Sợ lắm. Vì... chết, là hết nhưng không nhìn được bố mẹ và các em lần cuối... Nhưng, kệ nó. Chỉ có điều là, anh ngốc lắm.
- Ngốc cái gì vậy?
- Có người yêu anh mà anh không biết à?
- Ai vậy?
- Thế mới biết là ngốc.
- Tôi không biết thật mà.
- Chả lẽ là Họa My à.
- Thôi, nói chuyện khác đi.
Sơn Ca hỏi dồn dập làm tôi không kịp trả lời: “Nào là: Mẫu người phụ nữ mà anh yêu là thế nào? Trong đội ta, anh yêu ai không? Anh định về quê lấy vợ à...”.
Quái lạ, ai nói mà cô ta biết chuyện tôi và cô giáo cấp hai chứ? Mà thôi, tốt nhất là im lặng.
- Sao anh im lặng vậy?
Tôi nói quên chuyện cũ đi. Sơn Ca im lặng thật lâu. Tôi nhận thấy Sơn Ca là người đa sầu đa cảm, dễ mủi lòng trước sự việc buồn. Nghe Họa My kể chuyện bố ở quê ốm nặng, thèm một quả chanh với một thìa đường mà không có, Sơn Ca cũng chảy nước mắt. Cô bảo, sau đợt phục vụ trở về, cô ghé biếu cụ năm cân đường trắng. Họa My nói, tiêu chuẩn của mình cũng có nhưng gửi về, cụ lại cho các cháu!
Lạ cho Sơn Ca ghen tỵ với Họa My, vậy mà lại ôm chặt lấy bạn mà khóc khi nghe kể cuộc đời mẹ cha khổ cực. Sơn Ca là người mà không biết đến nỗi khổ thiếu cơm ăn áo mặc. Là con cái của người thị xã, dù bố mẹ không giàu nhưng anh chị em cô không thiếu cơm, rách áo. “Giàu nhà quê không bằng ngồi lê thành thị”. Ở thành thị dễ kiếm tiền. Ở quê chỉ trông vào công điểm làm cho hợp tác xã, mất mùa cũng như được mùa, nhà nào cũng thiếu ăn, mặc rách. Em tôi và những thiếu niên tuổi chín, mười đến mười sáu, mười bảy, có mỗi một bộ quần áo lành để dành lúc có những việc vui như xem hội, ăn cỗ cưới thì mới đem ra dùng. May áo quần mới phải may rộng, dài đề phòng lớn nhanh. Thành ra, do để dành đến tết hoặc đi ăn cỗ mới mặc nên lúc cơ thể lớn nhanh, quần áo chật mà vẫn còn mới.
Kể chuyện này, Sơn Ca nghe, mở tròn mắt, luôn mồm hỏi: “Có thế thật à? Khổ thế cơ à... Thế thì về thành thị mà sống”. “Về sao được? Ai cho đi?”.
Họa My có lần kể chuyện với anh em dọc đường hành quân vào Trường Sơn rằng nhiều thanh niên nam nữ làng quê mong ước vào bộ đội để đánh giặc, sau đó là được ăn no mặc đủ. Hết giặc, trở về, vẫn ở bộ đội, sướng biết bao nhiêu. Chả sợ đi cày, đã vất vả mà quanh năm lại lép cái bụng...
... Hầm bên cạnh, chắc là Thảo, tổ trưởng tổ nhạc mở rađiô nên nghe rõ tiếng nhạc hiệu Đài Tiếng nói Việt Nam, báo hiệu một ngày mới.
Tôi vươn vai đi ra khỏi hầm. Chim rừng như rủ nhau cùng ào trở dậy và cùng hòa tấu lên thanh âm muôn thuở của loài chim.
Tôi xuống suối rửa mặt. Nước suối mát làm tỉnh ngủ. Rừng vẫn xao động bởi ngàn vạn tiếng chim đua nhau hót. Không có tiếng máy bay, tiếng súng phòng không của ta. Khung cảnh thật đẹp cứ như nơi đây không hề có chiến tranh. Cứ như chúng tôi đang dạo chơi ngắm cảnh trong rừng, ngắm cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Có tiếng ríu rít phía sau, tôi quay lại: Mấy nữ diễn viên múa, nữ diễn viên hát rủ nhau ra suối rửa mặt. Họ chào tôi.
*
Tàu hỏa chỉ đưa chúng tôi đến được thành Vinh. Nghỉ một đêm, sáng sau có xe đưa vào Quảng Bình. Một ngày ròng rã, đường rất xấu, xe đi chậm. Tối mịt mới tới xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, nằm ở bờ nam sông Gianh.
Làng quê thời chiến, tất cả vì tiền tuyến trông thật tiêu điều xơ xác. Gia đình nào cũng ở trong căn nhà tạm. Bộ đội hành quân nếu ghé qua, họ vẫn sẵn lòng nhường giường chiếu cho bộ đội, còn họ nằm đất hoặc ra sân. Nghèo đói quanh năm bởi chỉ cấy được một vụ vào mùa mưa. Mùa khô không có nước, đất bỏ hoang, cỏ không mọc nổi. Nghe nói Nhà nước cũng có kế hoạch xây dựng hệ thống thủy lợi nhưng chưa kịp khởi công thì Mỹ ném bom miền Bắc. Đã nghèo lại chắt bóp từng hạt gạo gửi ra tiền tuyến. Chợ búa không có gì vì máy bay bắn phá, đường giao thông hỏng hết.
... Chúng tôi nghỉ tại nhà dân, kế hoạch là sáng hôm sau đi bộ theo đường Hai Mươi, rồi lên phà Long Đại, theo đó phục vụ suốt Trường Sơn nhưng nhân dân ở đây biết chúng tôi là văn công quân đội, họ chạy lên nhà ông chủ tịch xã, bảo ông “xin cho người dân được xem văn công bộ đội”.
Lúc này, vẫn còn mùa khô, nắng nóng gay gắt. Gió Lào tràn sang. Người nào cũng mệt mỏi nhưng nghe nói phục vụ nhân dân là tất cả đều sẵn sàng.
Đội trưởng Dũng quyết định cho anh em nghỉ lại một ngày, đêm đó phục vụ nhân dân địa phương - Nơi đầu sóng ngọn gió và là cái túi đựng bom của giặc Mỹ ở miền Bắc.
Mới chập tối, khoảng mười tám giờ ba mươi phút, sân trường cấp Một của xã đã đông nghịt người. Xã đem ra hai đèn măng sông. Suốt chín mươi phút, khán giả im lặng gần như tuyệt đối khi theo dõi các tiết mục. Chỉ có lúc anh Tuấn cười tấu hài, rồi kịch ngắn “Bắt phi công Mỹ” có những tình tiết gây cười, thì bà con ta rộ lên, sau lại thôi. Mỗi tiết mục hát, múa xong, là tiếng vỗ tay nổi như pháo. Đêm diễn thành công ngoài mong đợi của chúng tôi. Đêm ấy, xã chiêu đãi cháo gà do bà con đóng góp mỗi người một ít, chúng tôi thật cảm động. Càng cảm động khi biết những năm một ngàn chín trăm sáu bảy, một ngàn chín trăm sáu tám, nhiều gia đình dỡ bỏ nhà ở đem ra lót đường, chống lầy cho xe bộ đội ra trận. Có gia đình đem chục quả trứng gà chuẩn bị cho ấp hoặc là có bà mẹ cóp nhặt được hơn chục đồng bạc, nghe tin có anh bộ đội bị thương ngoài trận địa bảo vệ phà Sông Gianh liền đem ra ủng hộ để chú ấy bồi dưỡng, mà có sức đánh giặc. Nam nữ thanh niên các xã đào chiến hào quanh trận địa bắn may bay, giúp bộ đội xong họ về ăn cơm nhà. Hầu như xã nào, thôn nào ở tuyến lửa Quảng Bình cũng dính bom Mỹ, và đâu đâu cũng ủng hộ bộ đội, tham gia sửa đường giao thông bất kể ngày đêm. Giữa xã Hạ Trạch, có hai cái ao to, tròn xoe, đó là chứng tích hai trái bom Mỹ thả năm một ngàn chín trăm sáu bảy. Hai gia đình không còn một người nào. Hai hố căm thù còn đó...
... Sáng hôm sau, chúng tôi hành quân bộ về phía phà Long Đại, và chúng tôi đã có buổi giao lưu với đại đội dân công hỏa tuyến...
... Mùa khô ở Trường Sơn, ai đã ở đó, chỉ cần một tuần mới hiểu mùa khô dữ dội thế nào. Mùa hè ngoài Bắc từ tháng tư đến hết tháng sáu, dù gay gắt nhưng thỉnh thoảng còn có mưa rào. Ở đây, khác hẳn.
Trời nắng nóng suốt ngày, có cảm giác quăng cả bát ngô ra sân gạch, chín giòn như được rang trong chảo lửa. Gần sáu tháng không có mưa. Nắng nóng dễ làm cho người ta cáu gắt vô cớ với người thân hoặc người xung quanh. Ví như Dũng đã mắng tôi cái “tội” chữa quần áo quân phục. Tôi mặc số một thì rộng, số hai thì chật, đành đăng ký số một rồi sửa chữa cho vừa với thân thể.
... Lúc lội qua con suối cạn, nghệ sĩ trống Vũ Châu bỗng trượt chân, loạng choạng suýt ngã. Tuấn cười ứng khẩu hò luôn:
Ơ hô... Hoan hô nghệ sĩ Vũ Châu
Ngã đau như thế mà hai đầu còn nguyên... Ơ hò.
Mệt bở hơi tai mà tất cả cười vui. Và chính Vũ Châu có sáng kiến hãy nghỉ giải lao ba mươi phút bên con suối cạn này để hò cho vui. Và ngạc nhiên bao nhiêu khi chưa ai nghe Châu hò từ lúc nhập vào đội, vì anh chỉ đánh trống, ít nói, vậy mà anh hò...
Ơ hò... Hò lên cho cứng cái chân
Cái gân nó chắc, cái quần nó mau khô... ơ hò.
Câu hò ngộ nghĩnh thật. Rồi nữa:
Ơ hò... Trống này là trống của anh
Em nào thích đeo trống, anh dành cho luôn... ơ hò.
Bên nữ, cũng bất ngờ, nữ đồng chí Yến đối đáp:
Ơ hò... Nghệ sĩ trống Vũ Ngọc Châu
Cái đuôi thì bé cái đầu thì to... Ơ hò.
Cứ như thế, tiếng hò đối đáp nhau chan chát, làm quên hết mệt nhọc. Đội trưởng Dũng bỗng nói một câu:
- Vui thì vui, đừng đồng chí nữ nào mang trống về khi chưa được cho phép nhé.
Không ai nói lại câu gì.
... Đầu tháng tư năm một ngàn chín trăm bảy hai, Mỹ ném bom trở lại miền Bắc. Đường Trường Sơn mở rộng nhiều nhánh. Mở rộng đường là đồng nghĩa với việc xe ta ra trận nhiều hơn, và giặc chóng đến ngày tận số. Vì vậy, trước lúc giãy chết, chúng quay ra chống cự điên cuồng. Bom ném suốt ngày đêm trên tuyến đường Trường Sơn. Bom ném trên đường, ném cả vào rừng, hai bên đường. Bom phát quang, mìn lá, bom bi, bom phá, đủ kiểu được ném xuống.
Sau khi phục vụ các đơn vị thuộc Binh trạm Hai mươi, chúng tôi vào khu vực Binh trạm Hai mốt. Một thứ thèm nhất bây giờ lại là rau xanh. Rau rừng muốn hái phải đi xa. Chúng tôi không thể đi vì còn giữ sức phục vụ bộ đội. Có chỗ, chỉ có ba người, chúng tôi cũng hát, độc tấu nhạc cụ, tấu hài, tiếc là không diễn kịch và múa được. Mặc dù thế, vẫn hát. Anh chị em tổ múa, tổ kịch cứ đứng vào cho đẹp đội hình, cũng máy môi hát theo, nhưng không dám hát to sợ không hòa nhập với tổ ca.
Khổ nhất là diễn viên nữ. Nước tắm đã thiếu, lại thiếu nước lúc thấy “tháng” thì càng khổ.
Nước uống cũng hạn chế. Nhất là vào sâu gần đến địa phận Quảng Trị. Không dám uống nước suối vì nghe nói Mỹ rải chất độc xuống đó. Bộ đội công binh đã có sáng kiến đào giếng ở chân đồi, nhưng cũng phải sâu đến mười mét mới có nước sạch. Thiếu nước, nhưng có tin văn công đến, bộ đội đã dè sẻn nước để phần văn công. Có anh lính trẻ tếu táo nói rằng cứ thấy các chị văn công cười tươi là chúng tôi hết khát. Các chị cứ ở đây vài năm, chúng tôi cũng không khát nước!
Anh chàng nói cũng không sai. Đang mệt mà có phụ nữ đẹp đứng trước mặt thì anh nào cũng vui vẻ, nhanh nhẹn ngay. Anh nào đang nói tục bỗng im như thóc...
... Đã thiếu nước, có buổi ăn chỉ với muối mặn. Nước luộc rau, mỗi người được một bát con. Cả đội khát nước, cố nghỉ lấy sức để chiều phục vụ nhưng cơn khát giày vò khốn khổ.
Tôi nằm võng mà nghĩ đến quả chanh vắt nước rau muống luộc, tự nhiên nước miếng chảy ra, nuốt vội, nhưng rồi vẫn khát. Nhưng bỗng nhiên, khoảng một giờ ba mươi phút chiều, Tuấn cười đi từ phía rừng ra. Anh kêu to:
- Anh em ơi, lại đây.
Ái chà chà, đâu mà nhiều thế! Một ba lô con cóc đầy những quả dâu rừng. Thì ra, Tuấn không ngủ, anh chàng vào rừng tìm hoa quả. Tuấn nói, quê anh ở Sơn Tây, anh ở ven sông Hồng nhưng lúc ở nhà vẫn vào rừng - Vùng núi Ba Vì để lấy củi nên biết rừng nào cũng có hoa quả. Do vậy trưa nay anh không ngủ, lén đi tìm. Thì ra, dâu rừng khá nhiều. Anh nói, anh phát hiện ra rất nhiều chuối rừng, sẽ vào lấy đọt chuối về luộc thay rau.
Trưa hôm sau, chúng tôi được ăn đọt chuối luộc. Tiếc là không có rau thơm, chanh, lạc rang để làm nộm chua ngọt. Dù sao, có nó thay rau cũng tốt.
*
Trong chúng tôi, trước khi ra trận, ai cũng có những tâm sự giấu kín, không nói ra, nhưng rồi, với trách nhiệm chỉ huy nên rồi tôi và Dũng cũng biết.
Thủy - người sử dụng tam thập lục, duy nhất là nữ trong tổ nhạc. Thủy kể một chuyện buồn là, chuẩn bị vào Trường Sơn. Thủy ra chợ Trời ở thành phố mua cho em trai một mảnh vải may quần, loại ka ki Nam Định, loại tốt nhất so với hàng nước ta sản xuất. Trả tiền xong, không hiểu cái cô bé bán vải ấy khoảng mười lăm tuổi, nó đánh tráo thế nào mà nhanh quá. Cũng gói trong tờ giấy báo, có chữ Quân đội nhân dân rõ to, lúc mở ra, thì ra là miếng vải trắng rẻ tiền mỏng bay, gập thật khéo, ở giữa độn thêm giấy báo. Tiếc tiền, Thủy khóc. Lúc đó, vô tình đi qua nhà ở của nữ diễn viên, tôi hỏi vì sao. Thủy kể lại đầu đuôi. Tôi chỉ đành an ủi và rồi, lấy chiếc quần bộ đội của tôi còn mới nguyên, chưa mặc đến, bảo Thủy mang về chữa lại cho em trai, Thủy nhất định không nhận, rồi cô cười vui ngay được.
Còn Họa My, mẹ ở nhà bệnh nặng. Xuống bệnh viện huyện người ta không tìm ra bệnh gì. Về Bạch Mai, người ta chỉ nói do suy nhược cơ thể, thiếu ăn nên kéo theo cả bệnh hen phế quản, ngoài ra không có bệnh nào khác. Biết vậy nhưng làm sao mà mua được những thứ có thể như mật ong, trứng gà. Nuôi vài con gà, đẻ trứng phải cho nó nở thành đàn gà, nhưng gà con mới là gà nhép đã bị dịch, chết một loạt, gây mãi không được đàn nào. Đến cơm độn sắn cũng không đủ no, nói chi đến bồi dưỡng. Không ai kêu ca bởi tất cả vì tiền tuyến. Ai cũng vui vẻ bởi mình đã góp công cho tiền tuyến. Cái hôm Họa My bị kỷ luật. Tôi thấy cô đăm chiêu tôi tìm cách bắt chuyện. Lúc ăn cơm xong, không ai thấy đội trưởng Dũng ở đó, tôi hỏi em có buồn không. Họa My nhìn tôi một lát rồi mới nói.
Tôi nghĩ là diễn viên, muốn thể hiện mình bằng việc được giao vai chính, hát chính trong đêm diễn. Họa My thì lại khác. Tôi nói: “Lẽ ra em phải buồn mới phải chứ!”. Họa My nói: “Buồn cũng không làm gì được. Chỉ huy có quyền tối cao mà anh”.
Tôi bảo, em bị oan. Họa My nói, oan sẽ được giải oan. Tôi nói rằng, người bị thiệt là bộ đội. Họ không được nghe những bài hát mà chỉ có Họa My mới thể hiện đúng tâm trạng. Có phải cứ là diễn viên ca hát thì hát bài nào cũng hay đâu! Đúng không đồng chí Họa My?
Họa My nói: “My buồn chuyện khác, ở nhà cơ anh Hải ạ”. Và My kể chuyện như trên cho tôi nghe. Tôi nghĩ. Chà chà! Chuyện này không hiểu đội trưởng Dũng có biết không nhỉ. Biết thì không xử sự như vậy với một phụ nữ, chưa xa gia đình lâu ngày, sẵn sàng đối mặt với khó khăn và thử thách, thậm chí cả bom đạn và hy sinh. My nói: “Mỗi người vào đây đều có hoàn cảnh buồn riêng, anh Hải ạ. Cái Ngân ở tổ múa đấy. Tối qua ngủ với em, nó khóc kể rằng ở quê nó cũng chẳng hơn gì!”.
My, Thảo, Nga sau vài lần tâm sự với tôi, tôi định báo cáo với đội trưởng, chưa kịp gặp, anh đã tổ chức cuộc họp, anh nói đại ý:
- Ở đây, tôi toàn quyền, mọi vướng mắc gì cứ gặp tôi, kể cả chuyện riêng tư. Đồng chí Hải không có quyền nói gì với anh em ở đội này hết, và đồng chí cũng không có quyền giải quyết hay giúp đỡ được ai ở đây cả. Đồng chí chỉ là cấp phó.
Chờ cho anh chị em hết xì xào, tôi có ý kiến:
- Ở đây chỉ có tôi và đồng chí là đảng viên, là chỉ huy. Việc các diễn viên, nhạc công gặp tôi tâm sự hoặc bàn chuyện gì đó là quyền của người ta, họ là quần chúng. Tôi phải nghe, sau đó, sẽ báo cáo lên đồng chí, vậy thì có gì là sai mà đồng chí bắt bẻ?
Dũng nói rằng anh ghét kiểu tụ tập đông người. Tôi nói luôn sau những giờ phục vụ hoặc luyện tập căng thẳng, anh em trong một nhà, đồng chí đã từng nói vậy, gặp nhau tâm sự, đùa vui cho quên mệt mỏi, quên nỗi sợ hãi để mà làm tiếp nhiệm vụ, sao lại gọi là tụ tập đông người?
Dũng lại nói:
- Nhưng chúng ta là bộ đội có kỷ luật riêng.
Tôi nói:
- Bộ đội cũng là con người, cũng biết yêu, thương, giận, hờn, căm, ghét. Chả lẽ bộ đội chỉ có đánh giặc, ngoài ra không biết làm gì nữa? Tụ tập đông người để động viên nhau hoàn thành nhiệm vụ, giúp nhau giữ vững chí khí chứ có nói chuyện phản động gì mà đồng chí đặt vấn đề lên to thế. Thưa đội trưởng, tôi mong chúng ta lúc nào cũng vui, khỏe thì hát lên bất cứ lúc nào, trừ lúc ngủ, không nên nghĩ những chuyện khác. Chỉ nghĩ, hát để phục vụ bộ đội, hát cũng là nhiệm vụ quan trọng trong cuộc kháng chiến này.
Dũng im lặng không nói. Một lát sau, anh nói giải tán...
*
... Hầu hết anh em ở đây họ ít tâm sự với đội trưởng Dũng, ngoại trừ những lúc bàn công việc. Ba tháng học tập rèn luyện ở ngoài Bắc, mấy ngày đầu còn bỡ ngỡ, nhưng rồi tất cả đã quen thân, đã tuân thủ theo kỷ luật của quân đội, không có ai ra khỏi đơn vị, dù chỉ năm phút mà không báo cáo. Là chỉ huy, không chỉ là người quản lý cấp dưới chặt chẽ, mà cũng phải biết đi vào tâm tư nguyện vọng của mỗi người, khơi dậy niềm tự hào, niềm tin của mỗi người được đứng trong hàng ngũ những người ra trận đánh giặc. Họ gác mọi nỗi buồn riêng. Như Thu Nga, diễn viên tổ múa, là con gái duy nhất, độc nhất của một người mẹ. Bố Nga đi bộ đội giữa năm một ngàn chín trăm năm mươi. Lúc ông hy sinh ở Huế trong chiến dịch Mậu Thân, cô mới mười sáu tuổi. Nga cũng giống Họa My, Sơn Ca, thấy nữ bộ đội mặc quân phục thì thích đi bộ đội. Xin mẹ bằng được, mẹ không cho cũng trốn đi. Huyện đội trả về, lại tìm cách gặp người chỉ huy về địa phương lấy quân. May quá, ông này không ngờ lại gặp con gái của bạn mình thời đánh Pháp. Ông nói cho cháu lên chỗ bác làm văn thư, thế là mười bảy nhập ngũ, làm ở văn phòng Quân khu Ba. Xem văn công bộ đội thích quá lại xin đi múa. Thế mà được. Nghe tin Nga tập trung huấn luyện ba tháng để đi vào Trường Sơn, mẹ Nga lên tận nơi khóc lóc gặp ban chỉ huy, rồi gặp con gái van xin cho nó về vì bà chỉ có một nó là con. Một tháng nó không về bà đã mất ngủ, biếng ăn, giờ lại đi Trường Sơn, bao giờ mới về.
- Sáu tháng thôi mẹ ạ.
- Sáu tháng cũng lâu, mà lại đạn bom nữa.
Cô bé bướng bỉnh ngồi cười khanh khách:
- Mệnh con cao số lắm. Mẹ đừng lo. Nhất định con sẽ trở về với mẹ, đem theo một thằng con rể thật oai phong cho mẹ xem.
Nước mắt của dỗ dành khóc lóc cũng không làm mềm lòng con gái. Thôi thì đất không chịu trời thì trời chịu đất. Nhớ đi cho bằng các chị, khổ phải chịu, chớ có quay về mà nhục con ạ...
... Nga cắn răng chịu đau vai, đau chân trên đường hành quân, kiên quyết không để các đồng chí nam giới san bớt vật dụng ở ba lô con cóc trên lưng...
... Rồi kia, Minh, diễn viên nam, anh hát khá hay. Cũng là lính Thành đội Hải Phòng, nhà Minh ở đường Hai Bà, vậy mà vui miệng Tuấn cười nói rằng nhà Minh ở số Bốn, đường Bốn Vú. Mấy cô thẹn đỏ mặt. Nhưng rồi Sơn Ca bạo miệng hỏi đường gì mà lạ thế? Tuấn bảo, đó là đường... đường Hai Bà Trưng.
Minh chỉ khẽ cười. Tôi biết anh vẫn buồn chuyện ở hậu phương. Chị dâu của anh, phản bội anh trai đi theo một gã đẵn gỗ xuôi bè..., trong khi, anh trai anh đang ở mặt trận. Họ chưa có đứa con nào. Mẹ của Minh thở dài:
- Tha cho nó, chồng vắng bảy năm liền, nó lại còn quá trẻ. Cưới nhau, ở được có bốn ngày, chồng biền biệt như thế.
Chị gái Minh cãi lại mẹ rằng: “Cái đồ hư hỏng mới thế. Cả làng này hàng trăm vợ bộ đội đi vắng, cứ gì con mụ ấy”. Mất nết. Bố Minh, vốn nho học, ông chỉ nói khẽ:
- Đất nước này qua bao lần bị xâm chiếm, bao nhiêu đàn ông ra trận. Thôi thì, thời nào cũng có một, hai người đàn bà như thế. Suy cho cùng, cũng vì thằng Mỹ cả thôi. Bố cấm chị cả không được nói lung tung nữa đấy!
Chi viện cho miền Nam gồm những trai tráng khỏe mạnh, những tri thức trẻ, khỏe, rồi hàng hóa, súng đạn, nhưng ở hậu phương cụ thể là ở vùng nông thôn: Xóm làng vắng trai tráng, chỉ phụ nữ, ông già, bà già, trẻ em là cày bừa trên đồng ruộng. Nhiều người có chữ, chưa phải nhập ngũ là những thầy giáo, cô giáo, những cán bộ công nhân viên trong các cơ quan nhà nước thì có tiêu chuẩn gạo, thịt, vải vóc..., nhưng nông dân không có gì, chỉ có hạt lúa.
Trong những lúc quây quần bên nhau, chúng tôi, đa số con nông dân đều đem chuyện nhà ra kể. Buồn, nhưng lại tin tưởng rồi đây hết giặc, mọi việc sẽ thay đổi.