Đội văn công xung kích mang tên “Hoa phong lan” được thành lập sau Tết Nguyên đán năm một ngàn chín trăm bảy mươi hai để phục vụ bộ đội, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến ở Trường Sơn từ Quảng Bình vào sâu đến Quảng Trị.
Đội gồm một số diễn viên của Đoàn Văn công Tổng cục và ở Đội Tuyên truyền Quân khu Ba, Thành đội Thủ đô.
Đội biên chế hai mươi bốn người. Trung úy Trần Dũng, ba mươi hai tuổi do Đoàn Tổng cục Chính trị cử sang làm đội trưởng. Đội phó là tôi - Hải, Thiếu úy hai mươi sáu tuổi, công tác ở Thành đội Thủ đô. Tôi như có máu nghệ thuật bẩm sinh. Biết thổi sáo, sử dụng thành thạo năm loại nhạc cụ dân tộc, giọng hát được giới chuyên môn đánh giá như chuyên nghiệp dù tôi chưa qua một trường lớp đào tạo chính quy nào.
Tổ diễn viên hát gồm có Trà My (Hoàng Thị Trà My), Lê Thị Kim Sơn (Sơn Ca), và nam giới là Duy Minh hai mươi hai tuổi, người Quảng Ninh, Mạnh Cường hai mươi bốn tuổi, người Bắc Giang.
Tổ múa có nữ Kim Ngân, Thu Nga, Quang, Thạch là hai nam giới.
Tổ kịch có Tuấn, Đức, Dung, Hà. Tổ nhạc có tám người: Sáo trúc: Lê Mỹ, người Phú Thọ, ắc-coóc-đê-ông: Văn Bình, người Hòa Bình, trống: Vũ Châu, người Vĩnh Phúc. Ba chiếc vi-ô-lông do ba nam giới là Lân béo, Tuệ còm, Cường tổ ong. Cả ba là người Nam Định. Một tam thập lục do Thủy, người Thái Nguyên sử dụng. Lê Thảo, ba mươi tám tuổi, duy nhất trong đội là có vợ con ở quê, anh là tổ trưởng tổ nhạc, nghệ sĩ đàn bầu và sử dụng được bốn nhạc cụ dân tộc nữa (tam, tứ, nguyệt, thập lục).
Người cuối cùng là Yến, nữ phục trang đạo cụ, khi cần cũng đóng một vai phụ trong các vở kịch ngắn. Ăn uống nghỉ ngơi do đơn vị mà chúng tôi đến phục vụ sẽ giúp đỡ. Cấp trên đã có văn bản gửi từ trước một tuần lễ khi chúng tôi lên đường.
Tổ hát có bốn người, nhưng khi cần hát đồng ca, Dũng, Tuấn, Hải và Ngân tổ múa cũng tham dự được.
Đội được trang bị một máy phát điện hai người khiêng được. Dàn âm thanh công suất vừa đủ cho biểu diễn dã chiến.
Trước lúc vào mặt trận, Đội được tập trung học chính trị, học mười lời thề của Quân đội nhân dân Việt Nam, mặc dù các anh chị đã ở trong các đơn vị đều đã biết. Nhưng vẫn phải học lại. Ngoài Lê Thảo quân hàm thượng úy và Dũng quân hàm trung úy, tôi thiếu úy, còn lại anh chị em mới hạ sĩ đến chuẩn úy. Các diễn viên nữ đẹp nổi bật trong sắc xanh quân phục. Chúng tôi cũng tập đeo ba lô, mỗi người ba mươi kilôgam đi bộ hành quân ban đêm mười kilômét, sáng tập chuyên môn ca, nhạc, chiều học chính trị, tối lại tập hành quân. Tóm lại như một chiến sĩ chuẩn bị ra trận. Chỉ Dũng và tôi được đeo súng ngắn.
Về tên gọi các diễn viên, tất cả đều gọi bằng bí danh hoặc nghệ danh, đề phòng bọn tâm lý chiến giở trò bỉ ổi mà chúng đã từng làm.
Từ năm một nghìn chín trăm sáu lăm đến năm một nghìn chín trăm sáu tám, do một sự vô tình nào đó, chúng nhặt được một bản danh sách một trung đội Quân giải phóng có tên tuổi quê quán, phiên hiệu đơn vị. Số cán bộ, chiến sĩ này là người miền Bắc, chúng rêu rao trên Đài Phát thanh Sài Gòn rằng số cán bộ, chiến sĩ này đã về đầu hàng chính nghĩa quốc gia, đang được sung sướng... Tóm lại là chúng vẽ những cái bánh thật ngon. Đây là một đòn rất hiểm độc. Do đó, trong đội văn công xung kích mang tên “Hoa phong lan”, ai cũng mang một nghệ danh, ví như Trà My là Họa My, Kim Sơn là Sơn Ca. Tôi (Hải) là Nguyễn Đại Bàng. Đội trưởng Trần Dũng là Văn Lê... Giấy tờ tùy thân cũng mang cái tên như thế. Lỡ bọn tâm lý chiến có nhặt được thì đồng đội, người thân cũng không lo lắng.
Không ít trường hợp ở miền Bắc, có anh nghe lén đài địch, nghe thấy Nguyễn Văn B, Lê Văn H,... đã chiêu hồi về chính quyền quốc gia, đã tung tin rằng, bộ đội ta có nhiều người theo địch thế. Rồi gia đình nhà đồng chí B., H. đó đã lo lắng, hoảng loạn, xấu hổ không dám nhìn dân làng.
Thế mới biết đòn tâm lý chiến nguy hiểm không kém bom đạn của chúng ném xuống đất này. Do vậy, việc giữ bí mật là điều cần thiết.
Luyện tập học hành đúng ba tháng, chúng tôi được lệnh vào Trường Sơn, chứ không phải là sang Lào theo phán đoán của một số anh em trong đội. Có anh còn hài hước rằng sang phục vụ đoàn đại biểu Chính phủ ta và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại hội nghị bốn bên ở Pari.
Chúng tôi bắt đầu hành quân vào năm giờ sáng ngày hai mươi tháng ba năm một ngàn chín trăm bảy hai. Được đúng nửa tháng thì ngày mùng sáu tháng tư năm ấy, Mỹ tái ném bom phá hoại miền Bắc kể từ khi Giôn-xơn, Tổng thống Mỹ ra lệnh tạm chấm dứt vào ngày mùng một tháng mười một năm một ngàn chín trăm sáu tám. Nhưng sau đó, Mỹ vẫn thua đau ở miền Nam, chúng căm tức và xấu hổ nên Tổng thống Mỹ là Ních-xơn, người thay Giôn-xơn lại xua máy bay bắn phá các cơ sở kinh tế, giao thông quan trọng ở miền Bắc, ngăn sự chi viện của hậu phương cho tiền tuyến. Nhưng dưới bom đạn ác liệt của quân thù, nhân tài vật lực từ miền Bắc vẫn rùng rùng chuyển động theo hướng Nam thẳng tiến. Đội Văn công xung kích “Hoa phong lan” của chúng tôi cũng ra trận, dùng lời ca tiếng hát để động viên cán bộ, chiến sĩ đang đối mặt với kẻ thù ở dọc đường Trường Sơn, con đường mang tên Bác Hồ kính yêu.
Phong trào “Tiếng hát át tiếng bom” đã nổi lên từ khi Mỹ dựng lên sự kiện Vịnh Bắc Bộ ngày mùng ba tháng tám năm một ngàn chín trăm sáu tư vu cáo Hải quân Việt Nam tiến công tàu chiến thuộc Hạm đội Bảy của Mỹ, và rồi ngày mùng năm tháng tám năm một ngàn chín trăm sáu tư lấy cớ ném bom miền Bắc. Vu cho Việt Nam đánh tàu chiến Mỹ ở biển Đông, ngoài vùng biển quốc tế để rồi bắn phá miền Bắc, chẳng khác gì Hít-le cho lính đóng giả quân đội Ba Lan tiến công đồn biên phòng của Đức tiếp giáp, rồi vu cáo họ gây chiến để bùng nổ Chiến tranh thế giới thứ hai vào ngày mùng một tháng chín năm một ngàn chín trăm ba chín.
*
Cuộc họp kiểm điểm Trà My chiều nay tạm gọi là không có kết quả. Dũng rất bực.
Lúc sáng nay toàn đội hành quân từ chỗ trú chân ở Binh trạm Hai mươi đến Trạm quân y dã chiến, Binh trạm số hai thuộc Đường dây 559, để phục vụ thương binh.
Trong hang đá khá rộng, nhiều thương binh phải nằm tại chỗ nghe chúng tôi hát. Ở đây không thể múa và diễn kịch bởi không có mặt bằng rộng như ven suối hoặc chân đồi.
Có một thương binh nghe Trà My hát, anh hỏi tên cô ta và nói xin cho gặp chỉ huy. Dũng chạy đến. Đồng chí thương binh nói: “Đề nghị cho tôi hôn Trà My, ồ ồ, cô ta là Họa My mới đúng, hát hay lắm. Tôi đã hai mươi tám tuổi, tám năm ở mặt trận, chưa được ai yêu, hãy hôn tôi, bởi tôi sắp chết rồi”.
Trong ánh sáng của các ngọn đèn dầu, toàn thân đồng chí thương binh băng bó trắng toát, giọng yếu ớt, nằm bất động.
Đội trưởng Dũng hội ý với tôi, đội phó. Tôi nói: “Đó là quyền của Trà My”. Dũng nói chúng ta phải quyết định. Tôi im lặng đi ra. Dũng gọi Trà My nói rõ như vậy, cô ta tròn mắt kinh ngạc nhìn Dũng và nói giọng gay gắt:
- Không, không, tôi không làm được chuyện ấy.
Nói xong, cô chạy ra cửa hang. Dũng nhắc Ngân, tổ trưởng tổ múa gọi Trà My vào ngay nhận lệnh của chỉ huy. Phải mất mười phút sau cô ta mới vào. Buổi biểu diễn phục vụ thương binh không có múa, mà chỉ có tấu sáo, tấu đàn bầu và ca hát.
Ở Trường Sơn có nhiều trạm quân y dã chiến làm nhiệm vụ chữa chạy cho cán bộ, chiến sĩ, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến Trường Sơn rồi bộ đội công binh phá bom, bộ đội pháo cao xạ bắn máy bay Mỹ khi họ bị thương. Nếu ai bị nặng quá sẽ chuyển lên tuyến trên.
Trà My nói với Dũng rằng: “Nếu tôi là người yêu của anh, anh có cho tôi hôn người khác không?”. Dũng lúng túng một lát rồi nói là có, vì người đó là thương binh, đã đổ máu xương vì Tổ quốc. Đồng chí đã không hoàn thành nhiệm vụ. Trà My nói không hôn người mình không yêu thì không có tội.
Dũng nói với Trà My, có những nữ chiến sĩ hoạt động tình báo trong lòng địch, họ ăn nằm với kẻ thù để từ đó luồn sâu leo cao biết âm mưu của chúng mà báo cáo cấp trên đối phó. Trà My nói: “Nhưng tôi không là nữ chiến sĩ tình báo, tôi là diễn viên văn công quân đội. Nhiệm vụ của tôi là hát”. Dũng hét lên: “Nhưng là quân đội của dân, sẵn sàng vì nhân dân chiến đấu và hy sinh”. Trà My nói: “Thôi thôi, thích thì đưa ra cuộc họp, đừng ở đây mà cãi vã nhau nữa”.
*
Trạm quân y dã chiến số Một được bố trí ở một hang núi đá vôi. Hang chỉ chứa được khoảng bốn mươi giường.
Trừ những thương binh quá nặng mới được nằm giường, còn thì ngồi, nằm ở dưới đất. Mà Trường Sơn bắt đầu từ những ngày tháng năm năm một ngàn chín trăm bảy hai này, ngày nào mà Mỹ không rải bom. Ngày nào mà bộ đội ta không có người hy sinh, với lại bị thương. Rồi thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến nữa.
Tối nay, sau bữa cơm, chúng tôi lại vào phục vụ lần thứ hai ở trạm quân y này.
... Chúng tôi hát say sưa. Thương binh vỗ tay hát theo các bài: “Bác đang cùng chúng cháu hành quân”, “Anh vẫn hành quân”, “Nổi lửa lên em”...
Rồi thì hòa tấu đàn bầu bản nhạc “Vì miền Nam”, độc tấu sáo trúc “Trên đường chiến thắng”..., tiết mục nào cũng gây xúc động cho người nghe. Nhìn những thương binh bó bột tay, chân, cằm rồi sườn... Chúng tôi không cầm nổi nước mắt. Chị em nữ vừa hát vừa khóc. Nhất là sau buổi diễn, bác sĩ trưởng trạm quân y cho biết đồng chí Tài đã không qua khỏi. Dũng kêu lên: “Hả, anh Tài ra đi rồi?”. “Vâng! Đi rồi”. Dũng hét lên: “Ác quá! Ác quá! Họa My ơi là Họa My”.
Vũ Văn Tài, chính là người có đề nghị mà không được chấp nhận. Anh đã ra đi.
Dũng cứ lẩm bẩm: “Ác quá! Ác quá” từ lúc đó cho đến về chỗ nghỉ. Sơn Ca hỏi Dũng ác cái gì vậy? Dũng nói rõ rằng người thương binh đó là người Trà My không hôn. Anh ta đã chết!
Sơn Ca kể lại lời trên với tôi, tôi ôm gối ngồi trong hầm. Có tiếng chân người, tôi nhìn ra: Trà My đang qua cửa hầm của tôi để gặp đội trưởng Dũng. Tôi để ý nghe.
Cô đi vào chào Dũng thật nhỏ rồi cô òa khóc. Cứ để cô khóc xong, Dũng nói giọng mỉa mai:
- Cũng biết ân hận cơ đấy!
- Tôi đến xin lỗi anh, bản kiểm điểm đây - Trà My đáp lại cứng cỏi - Tôi xin lỗi tập thể. Tôi hứa, từ hôm nay nếu gặp trường hợp như thế, tôi sẽ đáp ứng nguyện vọng ngay lập tức. Tôi thề đấy đồng chí đội trưởng ạ.
Dũng cứ im lặng ngồi. Trà My đứng một lúc, cô quay ra nói to: “Chào đội trưởng ạ!”.
*
Đội trưởng Dũng đã có một quyết định không mấy “rành mạch” cho lắm, đó là tuyên bố cho Trà My nghỉ hát đơn ca, chỉ được hát tốp ca. Quyết định này gây ra sự phản ứng của đa số anh em. Họ không nói ra nhưng tôi biết. Ba ngày liền, đa số không bắt chuyện với Dũng ngoài Sơn Ca và Yến phục vụ, Ngân - tổ trưởng tổ múa.
Quyết định có lồng chút cá nhân trong đó. Ấy là gần bốn tháng trước, khi có lệnh triệu tập các diễn viên theo yêu cầu của Tổng cục về đội tập trung. Dũng giật mình vì... Trà My quá xinh đẹp (chí ít là trong mắt anh). Toàn đội phải công nhận Trà My đẹp thật. Cô cao khoảng mét sáu, eo người thon thả, tóc dài ngang lưng. Mặt trái xoan, cặp mắt đen to với hàng mi cong. Gái nhà quê chính hiệu, gái Bắc Ninh chính cống. Da Trà My trắng hồng, mịn. Ảnh Trà My ở tập báo ảnh đã đẹp nhưng ngoài đời còn đẹp hơn. Hàm răng cứ như bằng ngọc trai được người thợ kim hoàn tài ba mài giũa cầu kỳ lắp vào. Cô có giọng hát rất hay. Cô vào trường văn hóa nghệ thuật tỉnh lúc mười lăm tuổi, ba năm sau về Đoàn Quân khu Tả Ngạn. Cô hát được cả chèo, quan họ, trong khi cả gia đình không có ai có khả năng gì về nghệ thuật. Cô đóng được cả kịch, cô đảm nhận vai nữ chính trong các vở kịch ngắn của Liên Xô như “Hoa sim gai trắng”, “Thành phố yên lặng”... Mới vào Trường Sơn biểu diễn buổi đầu tiên, bộ đội ta đã hoan hô rầm rầm, xin địa chỉ rồi gọi cô là Họa My.
Trong đội cũng không ai bảo ai, đều gọi Họa My từ lúc tập trung huấn luyện ở ngoài Bắc.
Họa My được cả thanh lẫn sắc. Thanh là giọng hát, đủ cả vang, rền, nền, nảy. Sắc thì ai cũng nói cô đẹp không thua diễn viên điện ảnh Thụy Vân trong phim “Nổi gió” mà chúng tôi được xem ở Hà Nội vào đầu năm một ngàn chín trăm sáu sáu.
Dũng để ý và đã ngỏ lời với Hoạ My. Sau ba tháng huấn luyện để vào mặt trận, ai cũng được về thăm quê năm ngày. Dũng theo Họa My về Bắc Ninh. Cô và gia đình nhiệt tình tiếp đón. Bố mẹ, các em, rồi bà con cô bác trong họ còn tưởng Dũng là chồng sắp cưới của Họa My. Tuy nhiên, Họa My không đón nhận tình cảm của Dũng. Cô nói đã có người yêu đang ở Trường Sơn.
Và việc Dũng không cho Họa My hát đơn ca, cũng nằm trong ý thích “trả đũa” của những người đàn ông yêu si mê nhưng không được đáp lại.
Nghe tin này, Họa My dửng dưng. Cô vẫn lên hát, vẫn tươi cười nhưng sau đó, thường tìm cách tránh mặt Dũng. Tôi gay gắt với Dũng:
- Họa My là hạt giống của đội, cây đơn ca chủ chốt, vậy mà đồng chí lại làm thế. Một phụ nữ tiếp xúc với đàn ông lạ, một đòi hỏi bất ngờ, dễ gây ra cho người phụ nữ phản ứng tức thời, không kịp suy nghĩ. Đồng chí học nhiều, phải hiểu điều đó mới đúng!
Dũng nói với tôi: “Cứ lo hoàn thành nhiệm vụ của mình đi. Còn tôi, tôi dám nhận trách nhiệm vì việc làm của mình...”.
... Buổi diễn phục vụ đầu tiên của chúng tôi là lúc đặt chân vào khu vực đoàn dân công hoả tuyến của Hà Tây đang làm nhiệm vụ bảo vệ đường giao thông ở khu vực phà Long Đại, huyện Bố Trạch - Quảng Bình. Tại đó cũng có đơn vị công binh đang mở đường, quân số khoảng một đại đội.
Buổi sáng dừng chân, anh chị em dân công hoả tuyến ào đến đón chúng tôi, ai cũng muốn chúng tôi về hầm chữ A của họ:
- Hầm của em rộng lắm, đủ chứa bốn chị nữa.
- Hầm tôi cũng vậy, phải chứa cả dàn nhạc của các anh.
Bảy giờ tối, chúng tôi bắt đầu chương trình. Nơi biểu diễn là bãi cỏ rộng ven con suối.
Buổi diễn kéo dài bởi có cả kịch, cả múa, cả hát, độc tấu đàn bầu, sáo trúc... Chương trình diễn của chúng tôi là chín mươi phút. Tuy nhiên, trên đã chỉ thị, nếu phục vụ ở đơn vị nào mà có người biết hát, cần phải mời họ. Do đó, đại đội dân công hoả tuyến xin đóng góp bốn tiết mục. Một độc tấu sáo, một đơn ca nam, một song ca nam nữ và một tốp nam.
Cả đội chúng tôi ngạc nhiên khi người độc tấu sáo lại kiêm hát đơn ca, song ca nam nữ, và tốp ca nam lại là một người đàn ông đẹp trai, người cân đối, cao khoảng mét bảy. Anh có cái tên của phụ nữ: Minh Hường. Thổi sáo trúc bài “Anh vẫn hành quân” - có biến tấu, có đấm lưỡi kép, không thua cậu Lê Mỹ, người quê Phú Thọ, là thành viên trong đội chúng tôi. Rồi Minh Hường đơn ca bài “Hà Nội niềm tin và hi vọng”, giọng ca quá chuyên nghiệp. Chính tôi, là người chủ động vỗ tay và reo to trước tiên: “Hay lắm, tuyệt lắm”. Anh em trong đội “Hoa phong lan” cũng vỗ tay tỏ vẻ thán phục. Có thể nói, giọng cậu này ngang ngửa với các anh em trong tổ ca ở đội “Hoa phong lan”.
Tiếp đó, Hường lại song ca bài “Trai anh hùng gái đảm đang” của Đỗ Nhuận. Cô bé hát cùng Hường giọng to khoẻ nhưng chất giọng khô cứng. Nếu mà Hường được hát với Họa My hoặc Sơn Ca thì rất đẹp đôi... Tôi nghĩ, thì ra trong quần chúng còn rất nhiều nhân tài.
Tôi nảy ý định báo cáo đội trưởng Dũng điện ra Bắc, xin cậu Hường sang “Hoa phong lan”.
Diễn xong, đại đội dân công hoả tuyến đãi chúng tôi bữa cháo nấu bằng thịt hộp. Các anh chị đã bớt tiêu chuẩn của mình, dồn cho ngày vui này.
Ăn cháo, kể chuyện, hỏi thăm nhau, hẹn ngày gặp nhau. Tôi để ý thấy anh chàng Hường cứ để mắt tới Sơn Ca. Thậm chí, thấy anh ta nhét vội cái gì vào túi áo của Sơn Ca, nữ diễn viên hát trong đội, tôi đoán chắc lại là bài thơ cậu ấy sáng tác vội để tặng Sơn Ca. Thơ tình ấy mà! Chuyện thường thấy ở những đoàn văn công khi biểu diễn ở các địa phương, nhiều nam nữ diễn viên đã làm bao trai thanh gái lịch ở địa phương phải ôm nặng khối tương tư.
Chia tay lúc mười hai giờ ba mươi, lưu luyến lắm. Hẹn gặp lại! Nhiều nữ dân công hoả tuyến khóc hu hu... Tôi thấy anh chàng Hường còn nhìn mãi Sơn Ca, ngược lại cô ấy cũng có vẻ lưu luyến, vẫy đến muốn gãy cánh tay mà không muốn thôi...
Trong đại đội công binh, có đến sáu chục cán bộ, chiến sĩ không được xem tối hôm đó, họ đề nghị chúng tôi phục vụ riêng cho họ. Chúng tôi nhận lời. Đó là nhiệm vụ trên giao. Một người đứng ở chốt gác cũng phải phục vụ huống chi đây những sáu mươi người...
Chúng tôi phục vụ họ lúc chín giờ sáng hôm sau. Rất ngạc nhiên là... anh chàng Hường ở dân công hỏa tuyến cũng đến. Đại đội công binh ở cách đại đội dân công hoả tuyến gần bốn cây số. Vậy mà, Hường và một số anh chị em mặc cho máy bay gầm rú trên đầu, vẫn đi bộ đến.
Chúng tôi diễn ở bãi cỏ hẹp ven bờ một con suối nhỏ trong rừng, cách mặt đường giao thông hai kilômét.
Đây là chỗ ở của bộ đội công binh. Cũng hai người ở một hầm chữ A, hầm nọ cách hầm kia ba mươi mét. Bộ đội công binh bày cho dân công hoả tuyến cách làm và bố trí hầm chữ A khi họ mới vào đây.
Vì ở dưới tán rừng lại ban ngày, chúng tôi không cần đốt đuốc hoặc đèn đóm khi biểu diễn. Mặc cho máy bay Mỹ luôn gào rú trên đầu rồi tiếng bom nổ ùng oàng phía mặt đường. Tôi để ý thấy nét mặt của sáu chục chiến sĩ rạng rỡ vì chăm chú nghe hát, nhưng thoắt lại đăm chiêu khi nghe thấy bom nổ...
Chúng tôi biết, xem xong chương trình mỗi người lại một việc, người thì rà phá bom nổ chậm, người thì đục đá..., toàn những công việc được làm dưới đạn bom, dưới nắng nóng mùa khô gay gắt và dai dẳng. Rồi hy sinh mất mát. Không ngày nào mà Trường Sơn không có người ngã xuống, không đoạn đường này thì cũng đoạn đường kia, không cây cầu này mới bắc xong hôm qua thì hôm nay lại trúng bom thì cây cầu khác bị địch phá. Rồi nữa, những đoàn xe chở súng đạn, quân trang, lương thực, cũng không thoát khỏi những con mắt đói khát của máy bay trinh sát của địch. Đó có cả đoàn xe hơn hai chục chiếc lăn xuống vực, bộ đội công binh, dân công hoả tuyến, thanh niên xung phong lại lần mò cứu từng tải gạo, từng viên đạn... Vì vậy, ai cũng tự nhủ lòng hát cho hay, hát hết sức mình, nghệ sĩ cũng là chiến sĩ trên mặt trận, vì một mục tiêu chống Mỹ, cứu nước.
*
Đội trưởng Trần Dũng, nhập ngũ tháng chín năm một ngàn chín trăm năm chín, lớp tòng quân đầu tiên sau hoà bình lập lại ở miền Bắc. Vốn biết ca hát nên sau huấn luyện sáu tháng, ở trên lấy anh lên Đoàn Ca múa nhạc Tổng cục. Lên đó phải học nghiệp vụ hai năm. Năng khiếu vượt trội của Dũng thì không có, anh chỉ đứng trong dàn đồng ca cho đẹp đội hình chứ không hát được đơn ca bao giờ. Dũng cũng tự thấy mình là ai, nên không có những suy nghĩ chán nản hay đua chen. Có nghĩa là Dũng an phận, đến đâu thì đến.
Chuyện riêng tư cũng vậy, Dũng không thuộc loại hoạt ngôn nên cái khoản nói chuyện với phụ nữ là rất kém. Không biết tỏ tình hoa lá. Mà phụ nữ xưa nay các cụ nói là họ yêu bằng tai. Cứ đổ mật vào tai. “Chim khôn mắc bẫy vì mồi, gái khôn chết mệt vì lời nhỏ to...”.
Năm Dũng hai mươi bốn tuổi, một lần nghỉ Tết Nguyên đán về quê, Dũng quen một cô, là do đứa em con cô ruột giới thiệu. Cả xã lúc ấy vào năm một ngàn chín trăm sáu ba mà vẫn chỉ mới có Dũng là bộ đội, đeo quân hàm trung sĩ là oách lắm. Gái làng cứ lác mắt. Có cô chủ động hỏi han mà lưỡi Dũng như bị trói chặt. Gặp cô bé tên là Nhẫn ở cửa hàng quốc doanh huyện chuyên bán thịt theo tiêu chuẩn tem phiếu của cán bộ, Dũng cũng không hót cho hay được, phải nhờ người anh họ nói đỡ. Lễ dạm hỏi diễn ra. Cả họ Dũng mừng. Ai cũng nói:
- Thời buổi này mà có vợ bán thịt thì nhất rồi. Chân giò, lòng lợn, cổ hũ, sủ lợn... toàn đồ ngon, giá Nhà nước cực rẻ. Có phiếu thịt cũng không phải xếp hàng, thậm chí không động đến phiếu. Sướng nhỉ!
Cô này là con ông chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp cùng làng Dũng, chả sợ đói, bố mẹ Dũng cũng được nhờ. Làm ruộng bấy giờ, một ngày công được bảy lạng thóc chả đủ ăn cho một người, lấy đâu ra mà nuôi con cháu?
Sau gần sáu tháng dạm hỏi, chuẩn bị xin cưới thì cô Nhẫn từ hôn. Đó là vì cô ruột Nhẫn, làm phó giám đốc bệnh viện huyện, làm mối cho cháu một bác sĩ, cũng ở bệnh viện của bà. Bà đổ mật vào tai Nhẫn:
- Bố mẹ thằng Dũng là dân cày, làm sao bằng bố mẹ cái cậu Hiệp, ông bà ấy đều là cán bộ ở ty lương thực, Hiệp là con trai duy nhất, không phải đi bộ đội. Thằng Dũng theo loại ca hát thì không chung thuỷ, văn công thiếu gì gái đẹp. Nó lại chán cháu ngay thôi Nhẫn ạ.
Bố mẹ Nhẫn cũng tính toán thiệt hơn. Thông gia với cán bộ ty lương thực, danh giá hơn xã viên hợp tác xã nông nghiệp chứ!
Thế là, Dũng coi như có một đời vợ. Sau chuyện này, Dũng buồn bã đến ba năm trời, mặc dù bố mẹ động viên tìm cho cô gái khác, Dũng không ưng cô nào. Lần lữa mãi, ba mươi hai tuổi vẫn “phòng không nhân dân”. Nhân có đợt phục vụ chiến trường, cơ quan lấy tinh thần xung phong. Nghĩ mình chưa biết đến mặt trận ra sao, lại là người còn độc thân, Dũng đề đạt nguyện vọng và được chấp nhận.