Ông bà nội mình sinh được hai người con. Cô ruột mình mất tích trong nạn đói năm 1945. Nhà chỉ còn mình bố. Bởi vậy, ngay từ khi anh em mình còn nhỏ xíu, bố luôn dạy “một giọt máu đào hơn ao nước lã”, các con phải biết yêu thương cô chú, anh chị em trong họ tộc như ruột thịt.
Trong số anh em thúc bá với bố mình, anh chị em mình đặc biệt yêu quý và kính trọng chú Tráng.
Chú Tráng là con cụ Tự Vân. Cụ là bậc túc nho trong làng. Và cũng là người cưu mang bố mình từ thuở bé thơ khốn khó. Vì thế, đến đời chú Tráng, cả nhà mình coi chú vừa là họ hàng thân thích vừa là ân nhân.
Thừa hưởng kho sách và trí tuệ uyên thâm của cụ Tự Vân lại ham học hỏi nên chú Tráng rất giỏi nhữ Nho. Mọi người trong làng trong xã đều tôn kính và gọi chú là thầy.
Nhà ai có công to việc lớn đều lất bất chạy qua chú. Người nhờ chú xem hộ ngày lành tháng tốt để lo việc hiếu hỷ, động thổ hay đi làm ăn xa. Người nhờ cậy chú cầu cúng mỗi dịp lễ Tết, giỗ chạp hay khi gặp điều gì bất trắc. Tất tật chú đều giúp đỡ với lòng thành tâm trong trẻo.
Bên tả căn nhà của chú là một điện thờ rộng. Thành kính và thâm u. Đối với nhiều người trong đó có mình, nơi đó đặc biệt linh thiêng, huyền bí.
Người làng mỗi lần đến nhờ cậy chú đều lòng thành đặt vào điện thờ những sản vật hái từ vườn nhà: nải chuối, quả na, trái cau, trái bòng, chùm hoa hồng, hoa bưởi... Gần gũi và thân thuộc.
Hồi nhỏ, mỗi lần bước chân qua bậu cửa, sát chỗ điện thờ là mình nín thở, tim đập, chân run. Cái không khí u tịch lẫn mùi hương ngào ngạt khiến mình vừa sợ vừa muốn tò mò khám phá.
Mình tự hào với mọi người trong làng ngoài họ vì “chú Tráng là người nhà mình”. Đi đến đâu, hễ ai hỏi, mình cũng kể vanh vách về mối quan hệ của bố với chú.
Và chú cũng đặc biệt quý mến nhà mình.
Hồi mình võ vẽ học chữ Hán, sách vở khan hiếm lắm. Mình thường lò dò lên nhà chú mượn sách và nhờ chú chỉ bảo, chú cười khà khà vỗ vai mình đồm độp và nói vui: Học loại chữ thánh hiền này khó gấp trăm lần cái thứ chữ a, b, c dắt dê đi ị, dê không ị dắt dê quay về mà cháu đang học đấy. Không chăm chỉ, thiếu nghị lực không học được đâu. Thôi cứ về bắt cua, mót thóc cho thật giỏi rồi ra chú xem mày có đáng cho mượn sách không đã… Lúc ấy mình ức lắm. Mình đâu có hiểu chú đang thử thách mình.
Nên ngày mình đạt giải kỳ thi học sinh giỏi Văn toàn miền Bắc, chú mừng lắm. Chú gọi mình lên đứng trước điện thờ rì rầm khấn vái. Rồi chú trịnh trọng mặc áo the, đội khăn xếp cho mình, bắt vái trước điện thờ trước khi đặt vào tay mình hai cuốn Tam Tự Kinh và Tam Thiên Tự. Từ buổi ấy hai cuốn sách theo mình như những báu vật. Bài học đầu đời với: “Nhân chi sơ, tính bản thiện”, “Nhân bất học, bất tri lý”… Rồi sau này là: thiên - trời, địa - đất, cử - cất, tồn - còn, tử - con, tôn - cháu, lục - sáu, tam - ba, gia - nhà, quốc - nước, tiền - trước, hậu - sau, ngưu - trâu, mã - ngựa, cự - cựa, nha - răng, vô - chăng, hữu - có… thấm vào mình từ ngày ấy.
Chỉ tiếc rằng sau này vì quăng quật với “áo cơm ghì sát đất” nên vốn Nho học của mình cứ rơi rụng dần.
Tuy nhiên, “vạn sự khởi đầu nan”, cái cách trọng chữ, yêu kính chữ, nâng niu từng con chữ từ chú đã truyền sang mình. Rất tự nhiên, chúng góp phần làm nên một văn hóa chữ, một cốt cách chữ dẫu còn rất khiêm tốn ở nơi mình.
Nhớ sinh thời, chú thường xuất hiện trước sân nhà mình với điệu cười khà khà. Chú cất tiếng gọi “anh Tẩu à, anh Tẩu ơi” nghe âu yếm và thân thương đến lạ. Bố mình chạy ra vồn vã mời chú vào nhà. Nhìn cái cách bố mình và chú ngồi rít thuốc lào, thả từng làn khói trắng thanh thản vào không gian thanh tịnh mới thấy tình anh em, nghĩa đệ huynh hồi đó trong sáng thuần khiết nhường nào…
Sau này, khi biết mình trưởng thành, học hành giỏi giang, thành đạt, chú tự hào lắm. Chú ít khi khen nhưng mỗi lần gặp mình là cười khà khà. Nụ cười đôn hậu làm rung cả bộ râu trắng như cước.
Đận mình tích cóp được một khoản tiền rồi đập bỏ gian nhà lá dột nát để xây nhà mới, chú mừng lắm. Chú cùng bố lên làm lễ động thổ. Ngày mình lấy vợ, chú cũng là người xem ngày lành tháng tốt, dẫn cả đoàn nhà trai xuống nhà gái tận Hải Phòng để làm lễ “xin dâu”.
Rồi ngày Áo vàng nhà mình lâm bồn, trong nỗi lo lắng tột cùng vì mẹ thiếu máu và thai quá to, bác sỹ yêu cầu phải sinh mổ, mình gọi điện về hỏi chú. Chú bảo cứ đúng ngày ấy, giờ ấy thì nhờ bác sỹ mổ. Thể nào mọi việc cũng tốt đẹp.
Mình bám víu vào câu nói ấy, phập phồng hy vọng. Và thế là đúng giờ tị, ngày tị, tháng tị, năm tị, con trai mình ra đời. Như một phép màu, con khỏe mạnh, lành lẽ, trút cho mình nỗi lo ngàn cân vì tình hình sức khỏe của vợ không được tốt suốt thời kỳ mang bầu.
Vậy nên, mỗi ngày con lớn khôn, mình luôn thấy như có bóng hình của chú.
Gọi là “bóng hình” là bởi, chú đột ngột ra đi khi ở tuổi 70, không hề bệnh tật đau yếu gì.
Mình nhớ đợt đó, đang công tác ở Nhật Bản thì mình nhận tin chú tự bắt xe khách từ quê vào Đồng Nai để thăm cậu con trai thứ.
Mình xin nghỉ phép từ Nhật về, rồi cùng bố mẹ bay vào Đồng Nai gặp chú. Chú, sau phút giây tay bắt mặt mừng, lặng lẽ nắm chặt tay mình thủ thỉ: Chú thấy người khó ở nên vào thăm vợ chồng em mày và các cháu. Nhưng cháu không được nói kẻo em mày nó lại nghĩ ngợi. May mà mày về chứ lần sau thì… Mình lặng người. Nghe tim đau thắt. Tranh thủ mấy ngày nghỉ, mình với cậu em (con trai chú) đưa chú cùng bố mẹ đi thăm thú khắp nơi. Rồi mình xin phép mua vé máy bay cho chú về quê nhưng chú nhưng kiên quyết từ chối vì: Chú quen đi tàu hỏa, chúng mày mua vé tàu cho chú là được rồi.
Sau chuyến đi đó không lâu thì chú hai năm mươi. Lặng lẽ, an nhiên...
Bố mình, sau đận ấy cũng yếu hẳn đi vì quặn thắt nỗi nhớ thương “người bạn tâm giao” như lời bố mỗi lần nhắc đến chú.
Mình không dám nói ra điều ấy, nhưng mỗi lần về lại căn nhà của chú, nhất là khi có việc liên quan đến thế giới tâm linh, mới càng cảm nhận rõ sự thiếu hụt chống chếnh.
Những gì chú để lại trong tâm trí của mọi người quá lớn, khiến cho những “dấu ấn” về chú vẫn như còn hiển hiện trong toàn bộ căn nhà ấy. Từ cái bậc cửa, bộ bàn ghế, giò phong lan đến ngôi điện thờ với làn khói hương mơ hồ phả vào không trung mùi thơm thuần khiết thanh tao...
Nhưng quan trọng hơn cả, chú mang theo “hồn cốt” của một ông thầy túc nho chỉn chu, lành lẽ, thiên lương.
Mình rất tâm đắc với hai câu thơ của nhà thơ Đồng Đức Bốn: Bao nhiêu là thứ bùa mê / Vẫn không bằng được nhà quê của mình. Vì thực sự, dù có bay nhảy khắp bốn phương trời, dù có sống ở thị thành hơn bốn chục năm rồi thì mãi mãi mình vẫn chỉ là một “đứa trẻ”. “Đứa trẻ” quê mùa ấy luôn thuộc về cái xứ đồng chiêm: Cấy cắn răng gặt há mồm /Nước đồng ễnh bụng bát cơm vàng khè của mình. Hiểu thấu điều đó, lại không thuộc tuýp người lợi khẩu nên mình rất kiệm lời trong giao tiếp, nhất là khi đã ở cái tuổi “tri thiên mệnh”. Vậy mà đôi lúc buộc phải khai khẩu trong họp hành hay hội thảo gì đó thì thể nào cũng có ý kiến cho rằng, mình là người thật thà, thật đến mức “hồn nhiên” quá.
Ờ, thì “Em cứ hồn nhiên rồi em sẽ bình minh” chứ biết sao!
Bởi vậy cho đến tận bây giờ, không một trò chơi nào của đứa trẻ thôn quê mà mình không nhớ, không một trò nghịch ngợm nào mà mình chưa trải qua. Đã từng ngày nối ngày đi cất vó, tát cá, nhặt cua ngoi trưa nắng, bắt cá rô lạch nước chiều mưa, bắt rắn trong hang, đào chuột trong lỗ, tuốt thóc trộm, đánh dậm, thả câu, buông lờ, đơm đó, kiếm củi, hót phân trâu bò, cắt cỏ, chăn trâu, vơ lá khô… nên cái chất “hồn nhiên” quê kiểng ngấm vào mình tự trong máu thịt cốt cách. Có muốn sống khác cũng chẳng được…
Góp phần định hình nên tính cách đặc quê kiểng của mình là những người quê đích thực. Là gia đình, là chòm xóm, là đám trẻ trâu… của những tháng năm thương khó vốn đã lùi xa lăng lắc.
Trong số ấy không thể không kể đến chú Tráng. Người chú mà mỗi lần nghĩ đến, mình lại thấy lòng dịu dàng, mềm mại, rưng rưng trong muôn nỗi thương yêu.
Làng mình ngày trước có nhiều cây cổ thụ, rất nhiều ao chuôm với cá tôm ăm ắp, có cả cái giếng trong văn vắt ngọt lừ ngọt lự. Nhưng rồi những cây cổ thụ bị đốn chặt, những sông suối, ao chuôm, những giếng thì lần lượt bị lấp. Và cả những dãy đồi chè, đồi thông uốn lượn đẹp như tranh vẽ vốn tồn tại hàng ngàn năm cũng đang bị băm vằm xâu xé. Còn đâu hồn cốt cái làng Nghè đói nghèo mà đẹp như tranh vẽ của mình…
Nên, giờ mỗi lần về làng, nhớ lại cảnh cũ người xưa cứ thấy lòng trống tuơ huơ toác hoác.
Kí ức cứ lội ngược dòng miết mải trở về những ngày xưa trên mảnh sân nhà, chú Tráng bước vào và cất tiếng gọi nhẹ như gió thoảng: Anh Tẩu à, anh Tẩu ơi!..
Cũng như bố thương yêu, chú Tráng của mình đã sống một cuộc đời nghèo khổ nhưng thanh cao, đầy lòng tự trọng và chẳng bao giờ vơi đi đạo lý làm người. Bố mẹ, chú và nhiều bậc cao niên dẫu chẳng để lại công trạng gì lớn lao cho làng xã nhưng chính những con người bình dị ấy đã góp phần không nhỏ làm nên phong vị làng quê, làm nên những câu chuyện về tình người hồn quê đẹp như cổ tích.
Hoặc chí ít chú cũng khắc sâu trong kí ức tuổi thơ của mình những dấu ấn ấm áp sống động, ngọt ngào như huyền thoại.
Vì lẽ đó, dù chỉ là chú họ, nhưng mình luôn coi chú như người cha thứ hai của mình.
Mình viết những dòng này khi bố mình cũng đã theo chú về thế giới bên kia, nơi suối nguồn trong trẻo của những hồi ức một đi không trở lại. Nhưng nhức buồn nhớ, tiếc thương và mải miết xa xăm...
Thương nhớ bố và chú, mình luôn thuộc nằm lòng mấy lời dạy của tiền nhân mà lúc sinh thời bố thường khuyên nhủ: Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc. tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn (Biết đủ là đủ, đợi đủ đến khi nào mới đủ. Biết nhàn là nhàn, đợi nhàn biết khi nào mới nhàn).
Biết đủ, thấm nhàn nên chú rồi bố đã quy tiên nhẹ nhõm an nhiên. Mình tin giờ này, chắc ở một nơi nào đó trong cõi thiền lặng, chú Tráng đang cùng với bố mình thanh thản ngồi đọc sách chữ Nho, ung dung nhấp chén trà xanh và mỉm cười rung rung chòm râu trắng muốt.
Như hạc trắng bay về trời…