Tối tối chàng Đánh Cá trẻ ra khơi quăng lưới. Khi gió từ đất liền thổi ra chàng chả đánh bắt được gì, một con tép nhỏ cũng không, bởi đó là thứ gió cay xè, cánh đen kịt, kéo những con sóng to nổi lên hứng đón. Nhưng khi gió từ ngoài khơi thổi vào bờ, cá từ lòng biển sâu ngoi lên, mắc vào lưới của chàng, chàng liền bắt cá, đem ra chợ bán.
Tối tối, chàng ra biển. Một lần, tấm lưới nặng trĩu khiến chàng mãi không kéo nổi lên thuyền. Chàng cười và nghĩ thầm: “Khéo mình đã chụp được hết cả lũ cá đang bơi, hay một con quái đần cho mọi người sững sờ, mà cũng có khi là một cái gì ghê gớm khiến Hoàng Hậu cũng phải thèm ước”. Gắng hết sức, chàng kéo mạnh những sợi lưới thô ráp, như những sợi men xanh quấn quanh một cái mình đồng, tấm lưới dài ngoằng đã phủ lên tay chàng. Chàng kéo mạnh những sợi lưới mảnh, những cuộn lưới nhẵn bóng gần lên, gần mãi lên, và cả tấm lưới cuối cùng đã nhô khỏi mặt nước.
Nhưng không có bóng dáng một con cá, cũng chẳng phải một con quỷ đần, hay một vật ghê rợn nào, chỉ có một nàng Tiên Cá đang nằm ngủ say trong tấm lưới mà thôi.
Mái tóc nàng như mớ phoi vàng ướt, mỗi sợi tóc là một sợi vàng ròng lồng trong một lớp thủy tinh. Thân nàng trắng như ngà, còn đuôi nàng kết bởi ngọc trai và bạc. Bạc và ngọc trai là đuôi của nàng, được quấn trong rong biển xanh biếc, tai nàng tựa một đôi sò biển, còn cặp môi như hai mảnh san hô. Những con sóng mát lạnh phủ lên ngực nàng lạnh mát, muốn phủ lóng lánh trên đôi bờ mi của nàng.
Nàng đẹp tuyệt trần khiến chàng Đánh Cá ngẩn ngơ khi nhìn thấy nàng. Chàng đưa tay kéo tấm lưới lại gần, rồi cúi xuống, chàng ôm lấy nàng trong vòng tay mình. Chàng vừa chạm vào nàng, nàng liền kêu lên như một chú hải âu bị kinh động và bừng tỉnh giấc, nàng đưa cặp mắt tím ngát nhìn chàng kinh hoàng và vùng vẫy tìm cách thoát ra. Nhưng chàng cứ ôm chặt lấy nàng không muốn rời xa.
Thấy mình có vùng vẫy cũng vô ích, nàng bật khóc và cất tiếng nói rằng: “Cúi xin chàng để cho em đi, bởi em là con gái duy nhất của Thủy Vương, cha em đã già và cô đơn lắm.
Chàng Đánh Cá liền đáp rằng: “Ta không thả nàng đâu nếu nàng không hứa với ta, rằng bất kì khi nào ta gọi, nàng phải hiện lên ngay và hát cho ta nghe, bởi lũ cá thường thích nghe Tiên Ngư hát, vì thế mà lưới của ta sẽ được nặng đầy”.
“Chàng thực sẽ thả em nếu em hứa với chàng điều đó chứ?” Nàng Tiên Cá kêu lên.
“Ta sẽ thả em thực mà”, chàng Đánh Cá hứa.
Thế là nàng hứa với chàng, và còn thề với chàng lời thề của loài Tiên Ngư, chàng liền thả tay khỏi người nàng, nàng lặn một hơi xuống đáy nước, vẫn còn run rẩy bởi nỗi khiếp sợ lạ lùng.
Tối tối, chàng Đánh Cá trẻ ra khơi và cất tiếng gọi Tiên Ngư, nàng liền nhô lên mặt nước và cất tiếng hát. Quanh nàng bơi lội những chú cá đen phin, còn trên đầu nàng, đàn hải âu chao liệng dập dìu.
Nàng hát những bài ca mê li. Nàng hát về bày Tiên ngư bơi qua các hang động, mang trên vai những hài nhi bé bỏng, hát về các thần Nhân ngư râu xanh dài lê thê, ngực đầy lông, thổi tù và ốc xà cừ khi Thủy Vương đi qua, hát về những cung điện hổ phách của Thủy Vương, mái ngọc lục bảo trong suốt, vỉa hè lát toàn ngọc trai sáng, hát về những khu vườn Thủy Cung ngày đêm dập dờn những cánh quạt san hô khổng lồ rực rỡ cùng những bầy cá, khu vườn ngả bóng mỗi khi những đàn cá, như những cánh chim bạc bơi qua, và những vạt cỏ chân ngỗng bám vào bờ đá cùng những con thuyền nằm cắm mình trên những bờ cát kẻ lăn tăn những gợn sọc vàng. Nàng hát về những đàn cá voi khổng lồ bơi đến từ vùng biển Bắc, trên vảy còn bám những mảnh băng sắc nhọn; hát về các nữ chim thần có giọng hót mê li, kể chuyện mê hồn khiến các khách buôn bỏ quên không gắn sáp vào tai để nghe chuyện của các nàng, rồi mê mẩn lao mình xuống biển cả, để rồi chết chìm dưới đáy nước, hát về những chiếc thuyền Gale1 cột buồm cao lênh khênh bị chìm cùng những thủy thủ chết cứng rồi vẫn còn bám chặt vào từng bộ phận trên thuyền, và từng bày cá thu bơi ra bơi vào qua những của sổ ở thành tàu, hát về những con chân tơ nhỏ li ti, lại là những khách du lịch cừ khôi, vì chúng bám chặt vào vỏ tàu và cứ thế không ngừng chu du vòng quanh thế giới; hát về bầy cá mực sống ẩn mình dưới gầm những vách đá, sải ra những ống vòi dài đen ngòm và có thể kéo đêm đen ập xuống khi chúng thích. Nàng hát về loài ốc anh vũ có con thuyền là vỏ của nó cái vỏ giống như mảnh Ôpan trắng đục, và bơi đi dưới một cánh buồm óng ánh mượt mà, hát về những chàng quân ngư hạnh phúc, gảy đàn hạc và có thể mê hoặc một gã Kraken2 khổng lồ đến ngủ lịm đi, hát về những đứa trẻ nhỏ tóm được rồi vừa cười vừa cưỡi trên lưng những chú cá đen phin trơn tuồn tuột hát về các nàng Tiền Ngư nằm trên những đám bọt biển trắng xóa và chìa cánh tay ra vẫy mời các chàng thủy thủ, hát về bày sư tử biển có những cặp nanh cong vút cùng lũ hải mã có đám bờm nổi lên bồng bềnh.
1 Loại thuyền có sàn thấp, chạy bằng buồm và chèo, thường do nô lệ hoặc tù nhân chèo thuyền.
2 Theo huyền thoại vùng Xcăngđinavơ là một loài quỷ biển.
Khi nàng Tiên Ngư hát du dương, lũ cá ngừ từ từ nơi đáy biển ngoi lên nghe nàng, còn chàng Đánh cá thì thả lưới đánh bắt chúng, các loài cá khác thì chàng xiên chúng bằng mũi lao. Khi thuyền của chàng đầy ắp rồi, nàng Tiên Ngư mỉm cười chào chàng rồi lặn trở về đáy biển.
Nhưng chẳng khi nào nàng chịu đến gần để chàng có thể chạm được vào người nàng. Chàng thường kêu gọi, van nài nhưng nàng chẳng bao giờ chịu, còn khi chàng thử tóm lấy nàng thì nàng liền lặn một hơi xuống đáy nước như một chú hải cẩu và cả ngày hôm ấy không xuất hiện nữa.
Mỗi ngày tiếng hát của nàng vang bên tai chàng thêm ngọt ngào mê li. Tiếng hát nàng du dương khiến chàng quên luôn cả tấm lưới cùng tính không ngoan, và cũng quên luôn cả việc đánh bắt lũ cá ngừ vây đỏ như son, mắt lồi vàng óng bơi từng đàn vào lưới của chàng. Chiếc lao nằm mốc bên chàng, còn chiếc giỏ bện bằng liễu gai thì rỗng tuếch. Môi trễ xuống, mắt mơ màng, chàng ngồi đói meo trong chiếc thuyền rỗng và cứ lắng nghe hoài, nghe mãi, cho đến khi sương giăng kín quanh chàng, khi vầng trăng lênh đênh nhuộm bạc đôi cánh tay nâu rám của chàng.
Một tối chàng gọi nàng mà bảo rằng: “Nàng Tiên Ngư bé nhỏ ơi, nàng Tiên Ngư bé nhỏ hỡi, ta yêu nàng mất rồi. Hãy lấy ta làm chồng đi, vì ta yêu nàng mà”.
Nhưng nàng Tiên Ngư lắc đầu. “Chàng có linh hồn”, nàng bảo. Chỉ trừ khi chàng từ bỏ linh hồn của mình, em mới có thể yêu được chàng”.
Chàng Đánh Cá nhủ thầm: “Phỏng linh hồn có ích gì cho ta nhỉ?” Ta không thấy nó, không sờ được vào nó, càng không biết gì về nó. Nhất định ta sẽ từ bỏ nó, rồi ta sẽ còn vui thú hơn nhiều”. Chàng sung sướng reo lên, từ trên chiếc thuyền quét sơn, chàng đứng bật dậy, vươn tay về phía nàng Tiên Ngư. “Ta sẽ bỏ linh hồn của mình”, chàng kêu to, “và nàng sẽ là vợ ta, ta sẽ là chồng của nàng, chúng ta sẽ mãi ở bên nhau nơi đáy biển sâu nhé. Nàng sẽ hát cho ta nghe, còn ta sẽ làm tất cả những gì nàng mong ước. Chúng ta sẽ không bao giờ xa nhau nữa”.
Nàng Tiên Ngư bé nhỏ cười sung sướng và giấu mặt vào cánh tay.
“Nhưng ta làm sao đuổi được linh hồn khỏi thân xác ta” chàng Đánh Cá kêu lên. “Hãy bảo ta phải làm gì, ta sẽ làm ngay không nấn ná”.
“Ô, em cũng chẳng biết nữa”, nàng Tiên Ngư đáp: “Người cá vốn không có linh hồn mà”. Và nàng lặn xuống đáy biển, ánh mắt khao khát vẫn hướng về chàng.
Sáng hôm sau, trước lúc mặt trời lên gần tới đỉnh đầu, chàng Đánh Cá tìm đến nhà ngài Linh Mục và gõ ba lần vào cánh cửa.
Một giáo sĩ tập việc nhòm qua ô cửa con, khi thấy ai đứng đó, gã đẩy chốt cửa và bảo: “Vào đi”.
Chàng Đánh Cá lách vào, quỳ xuống sàn nhà trải cói tỏa hương ngọt ngào, chàng kêu với ngài Linh Mục đang ngồi đọc kinh thánh: “Thưa cha, con đang phải lòng một nàng Tiên Ngư, và linh hồn của con cản trở ước vọng của con. Xin hãy bảo con cách tống khứ nó ra khỏi người con, bởi vì con thực không cần gì đến nó cả. Nó có đáng giá gì với con đâu? Con không nhìn thấy nó. Con không chạm được vào nó. Con lại càng không biết nó ra làm sao”.
Ngài Linh Mục gõ vào ngực chàng mà bảo: “Than ôi! Than ôi! Con mất trí rồi hoặc đã ăn phải thứ cỏ độc bởi linh hồn là phần cao quý nhất Đức Chúa trời ban tặng cho mỗi người chúng ta. Chẳng có gì quý hơn linh hồn con người, không một của báu nào trên trần thế sánh được với nó. Nó đáng giá tất cả vàng bạc trên thế gian này, còn quý hơn ngọc ngà của các bậc vua chúa. Vì thế, con trai của ta ạ, đừng vương vấn về chuyện này làm gì, bởi đó là tội lỗi không thể tha thứ. Còn như đám nhân ngư, chúng ta sẽ không được cứu rỗi trong ngày tận thế, những kẻ giao du với chúng cũng sẽ cùng chung số phận. Chúng là những loài cầm thú không biết phải quấy, Đức Chúa trời đâu có chịu nạn vì chúng.
Chàng Trai mắt đẫm lệ khi nghe thấy những lời cay đắng của ngài. Rồi chàng nhổm lên, thưa với ngài: “Thưa cha, các nhân dương sống nơi rừng hoang và cảm thấy sung sướng, các nhân ngư ngồi trên những mỏm đá cùng những cây đàn học bằng vàng đỏ của họ. Cứ để cho con được như họ, con van cha đấy, dù cuộc đời của họ có ngắn ngủi như loài hoa kia. Còn như linh hồn của con, nó có lợi lộc gì cho con khi chắn ngang con với người con yêu?”
“Tình yêu thể xác là đồi bại”, ngài Linh Mục quát, mày cau lại: “Chính tội lỗi và sự đồi bại là những thứ vô đạo, vì chúng mà Đức Chúa trời đã phải chịu đau đớn lang thang qua khắp nước của người. Đáng nguyền rủa cái ý nghĩ làm nhân dương nơi rừng rú, đáng nguyền rủa cái ý nghĩ làm nhân ngư véo von nơi biển sâu! Khi đêm về ta nghe tiếng hát của chúng, chúng lôi kéo ta ra khỏi giường. Chúng gõ vào cửa sổ và cười cợt. Chúng thì thào bên tai ta, kể về những lạc thú liều lĩnh của chúng. Chúng súi dục ta sa vào sự cám giỗ của chúng, và khi ta cầu nguyện, chúng thè lưỡi giễu ta. Chúng sẽ không được cứu rỗi, ta bảo con đây chúng ta sẽ xuống địa ngục. Đối với chúng, không có Thiên đàng cũng chẳng có địa ngục, nếu không chúng đã cầu cứu Đức Chúa trời”.
“Thưa cha”, chàng Đánh Cá kêu lên: “Cha chẳng biết mình đang nói gì. Một lần con đánh lưới được con gái của Thủy Vương. Nàng chói sáng hơn cả sao mai, trắng trẻo hơn cả chị Hằng. Con xin hiến linh hồn con vì tấm thân của nàng, vì tình yêu của nàng con xin từ bỏ Thiên đàng. Cầu xin cha bảo cho con cách làm điều đó và cho con được toại nguyện”
“Cút đi! Cút đi!” Ngài Linh Mục quát: “Ả tình nhân của người sẽ sa xuống Địa ngục và người cũng sẽ xuống đó cùng với ả”. Rồi không chúc phúc cho chàng, ngài tống chàng ra khỏi cửa.
Chàng Đánh Cá đi xuống chợ, chàng lê bước, đầu cúi gục đau đớn.
Khi các khách buôn nhìn thấy chàng như thế, họ thì thào với nhau, một người trong bọn họ tiến lại phía chàng, gọi tên chàng và bảo: “Anh cần bán gì vậy?”
“Tôi cần bán linh hồn mình”, chàng đáp: “Xin ngài hãy mua nó giùm tôi bởi tôi chán ngấy nó rồi. Nó có ích gì cho tôi nào? Tôi không thể thấy nó không mó được vào nó, cũng chẳng biết nó ra làm sao”.
Đám khách buôn giễu chàng: “Linh hồn con người có lợi gì cho chúng tôi đây? Nó chả đáng một đồng xèng. Cứ bán thân anh làm nô lệ cho chúng tôi, chúng tôi sẽ mặc đẹp cho anh, đeo nhẫn vào ngón tay anh rồi tiến cử anh làm thị đồng cho Hoàng Hậu. Nhưng chớ có nhắc đến Linh hồn làm gì, với chúng tôi nó là con số không vì nó chả có lợi gì cho công việc buôn bán của chúng tôi sất.”
Chàng Đánh Cá bụng bảo dạ: “Quái lạ thật! Ngài Linh Mục thì bảo mình linh hồn đáng giá tất cả vàng bạc nơi trần gian, còn đám khách buôn lại nói chả đáng giá một đồng xu gì”. Chàng rời khu chợ, đi ra bờ biển và bắt đầu cân nhắc xem mình phải làm gì.
Đến xế trưa, chàng chợt nhớ ra người bạn làm nghề cắt cỏ samphire có lần kể với chàng về một ả Phù Thủy, ả nàng trú trong một cái động ở đầu một con vịnh và rất giỏi về phép thuật. Thế là chàng vùng chạy như bay, vì đang quá mong mau mau tống khư được linh hồn của mình đi, một đám bụi mù mịt bốc theo sau chàng khi chàng phi qua bãi cát ven biển. Thấy gan bàn tay ngứa ran ả Phủ Thủy trẻ biết chàng Đánh Cá đang đi đến chỗ ả. Ả phá lên cười xõa mớ tóc theo phủ quanh người rồi ra đứng chờ trước cửa hang mở rộng, trong tay cầm một cành độc cầm dại lá đâm tua tủa.
“Ngươi thiếu gì? Ngươi còn thiếu thứ gì?” Ả hát lên khi chàng Đánh Cá hổn hển leo lên xuống và cúi người chào ả. “Cá vào lưới người lúc trời lặng gió ư? Ta có một ống tiêu sậy xinh xinh, khi ta thổi nó, lũ cá đối sẽ bơi vào trong vịnh. Nhưng nó có giá đấy, cậu bé đáng yêu ạ, nó có giá đấy. Ngươi thiếu gì? Ngươi còn thiếu gì vậy? Một trận bão tố nhấn chìm tàu bè và đánh dạt những hòm châu báu vào bờ ư? Ta vốn có nhiều bão tố hơn những cơn gió trong lành, bởi ta phụng sự một kẻ còn mạnh hơn cả gió, với cây cọc và một xô nước ta có thể nhấn chìm cả một chiếc thuyền Gale khổng xuống đáy biển sâu. Nhưng ta luôn ra giá đấy, cậu bé dễ thương ạ, ta luôn đạt giá. Ngươi thiếu gì nào? Ta biết một cây hoa mọc trong thung lũng, không một ai biết ngoài ta ra. Cánh hoa đỏ tía, một ngôi sao ngự trong tim nó, còn mật của nó trắng muốt như sữa vậy. Nếu ngươi chạm được bông hoa này vào cặp môi khắt khe của Hoàng Hậu, nàng sẽ theo ngươi đến tận cùng trời. Nàng sẽ rời bỏ giường êm đệm ấm của nhà Vua mà theo ngươi đến chân trời góc biển. Nhưng nó có giá, cậu bé dễ thương ơi, nó có giá đấy nhé. Ngươi thiếu gì? Ngươi còn thiếu gì không? Ta có thể nghiền nát như tương một con cóc rồi nấu thành súp này bằng bàn tay của kẻ đã chết. Vẩy thứ nước ấy vào kẻ thù của ngươi khi hắn đang ngủ, hắn sẽ biến thành một con rắn đen, khiến mẹ đẻ của hắn cũng phải đập chết hắn đứ đừ. Với một cái bánh xe, ta có thể đẩy mặt trăng khỏi bầu trời, còn trên mặt pha lê trong ta có thể cho ngươi xem dung nhan của Thần Chết. Ngươi thiếu gì? Ngươi còn thiếu gì nào? Hãy kể cho ta ham muốn của ngươi, còn ngươi hãy trả công cho ta, anh bạn thân mến, hãy trả công cho ta đấy”.
“Ham muốn của tôi nhỏ nhoi thôi”, chàng Đánh Cá nói, “vậy mà ngài Linh Mục đã nổi cáu và tống cổ tôi đi. Nó có đáng gì đâu, ấy vậy mà đám khách buôn giễu nhạo tôi và từ chối tôi thẳng cánh. Tôi bèn đến chỗ bà, dù con người gọi bà là xấu xa, dù bà đặt giá thế nào, tôi cũng xin trả đủ”.
“Ngươi muốn điều gì?” Ả Phù Thủy xán lại gần chàng hơn mà hỏi.
“Tôi muốn tống khứ Linh hồn khỏi người tôi”, chàng Đánh Cá trẻ đáp. Ả Phù Thủy tái mét, ả rùng rình và giấu mặt vào sau tấm áo choàng. “Anh bạn thân mến”, ả lẩm bẩm, “đó là một công việc khủng khiếp đấy”.
Chàng Đánh Cá lắc những búp tóc nâu và cười. “Linh hồn của tôi là con số không đối với tôi”, chàng ta bảo. “Tôi không thể trông thấy nó, không mó vào được nó, lại càng không biết nó ra làm sao”.
“Ngươi cho ta cái gì nếu ta mách cách cho người? Ả Phù Thủy hỏi, nhìn chàng qua cặp mắt mê hồn.
“Năm đồng tiền vàng”, chàng đáp, “và tấm lưới của tôi, cùng gian nhà tranh tôi đang sống, với chiếc thuyền sơn tôi vẫn ra khơi. Chỉ cần mách bảo tôi các thoát khỏi linh hồn của mình, tôi sẽ biếu bà tất cả những gì tôi có”.
Ả phá lên cười chế giễu, phất cành độc cầm vào người anh chàng.
“Ta có thể biến lá thu thành vàng”, ả nói và ta có thể biến ánh trăng nhợt nhạt kia thành bạc nếu ta muốn. Kẻ ta phụng sự giàu có hơn mọi bậc Vua chúa trên thế gian này, cùng với quyền lực của họ.
“Vậy tôi phải trả gì cho bà đây”, chàng kêu lên: “Một khi bà không cần bạc cũng chẳng cần vàng?”
Ả Phù Thủy hất mớ tóc bằng bàn tay trắng toát. “Ngươi phải nhảy múa cùng ta, cậu bé dễ thương kia ạ”, ả lẩm bẩm và mỉm cười với chàng.
“Không cần gì hơn ư?” Chàng Đánh Cá kêu lên ngỡ ngàng và chàng nhổm người dậy.
“Không cần gì hơn”, ả đáp và lại mỉm cười với anh chàng.
“Vậy khi hoàng hôn buông, ta sẽ cùng nhảy múa ở một nơi kín đáo nhé”, chàng nói: “Và khi chúng ta nhảy múa xong bà sẽ mách tôi cách thực hiện điều tôi ham muốn”.
Ả gật đầu, “khi trăng tròn đấy nhé,” ả thì thào. Rồi ả nhìn khắp xung quanh, lắng tai nghe ngóng. Một chú chim xanh lao ra khỏi tổ và lượn một vòng quanh những cồn cát, ba chú chim đốm lạch phạch bay qua những bãi cỏ úa vàng và ríu rít hót gọi nhau. Tất cả đều nhường tiếng cho những con sóng vỗ ì oạp lăn tăn vào bờ đá cuội nhẵn bóng phía dưới kia. Ả vươn tay kéo chàng Đánh Cá lại gần và ghé sát cặp môi khô héo vào tai chàng.
“Đêm nay, người phải trèo lên tận đỉnh núi”, ả thì thào. “Có một lễ Xabat1 và ngươi sẽ ở đó”.
1 Sabbath- ngày thờ phụng Chúa và nghỉ ngơi hoàn toàn (là ngày thứ bảy đối với người Do Thái và ngày chủ nhật với người Cơ Đốc giáo)
Chàng Đánh Cá ngỡ ngàng ngẩng nhìn ả, ả nhe hàm răng trắng ởn và cười. “Người mà bà nói đến là ai vậy?” Chàng hỏi.
“Không quan trọng”, ả đáp. “Đêm nay ngươi cứ đến và đứng ở dưới tán cây trăn đợi ta. Nếu một con chó đen chạy lại phía ngươi, hãy lấy một cành liễu quất nó, nó sẽ bỏ đi. Nếu một con cú hỏi chuyện ngươi, thì đừng có trả lời. Khi trăng tròn ta sẽ đến với ngươi và chúng ta sẽ cùng nhảy múa trên bãi cỏ”.
“Nhưng bà thề sẽ bảo tôi cách thoát khỏi linh hồn của tôi chứ?” Chàng hỏi. Ả bước ra ngoài nắng, mái tóc hoe của ả phất phơ trong gió. “Ta thề có móng của loài dê”, ả đáp.
“Bà là một Phù Thủy tử tế nhất”, chàng Đánh Cá reo lên: “Đêm nay nhất định tôi sẽ nhảy múa cùng bà trên đỉnh núi. Tôi đã tin thật rằng bà chẳng đòi tôi trả vàng trả bạc, mà chỉ có thế thôi, bởi việc của tôi có to tát gì đâu”. Và chàng ngả mũ, cúi rạp chào ả Phù Thủy, rồi chàng chạy như bay về phía thành, lòng tràn trề mừng vui.
Ả Phù Thủy trông theo chàng Đánh Cá đang xa dần, khi chàng đã đi khuất, ả trở vào trong động và lấy một chiếc gương từ một cái hòm gỗ tuyết tùng chạm trổ ra, đặt nó lên một cái giá, rồi cầm một viên than hồng rực, châm vào một nhánh cỏ roi ngựa và quan sát nó qua làn khói. Một lát sau ả vươn tay lên vẻ khao khát: “Chàng sẽ thuộc về ta,” ả lẩm bẩm, “ta cũng sẽ xinh đẹp y như cô ta”.
Tối hôm đó, khi trăng mọc, chàng Đánh Cá lên đỉnh núi và đứng chờ dưới tán cây trăn. Dưới chân chàng, biển bao quanh như một tấm khiên kim loại bóng loáng, bóng những con thuyền đánh cá lay động dập dờn trong con vịnh nhỏ. Một con cú khổng lồ mặt vàng mầu lưu huỳnh cất tiếng gọi tên chàng, nhưng chàng không đáp lời. Một con chó mực chạy về phía chàng, gầm gừ, chàng lấy một cành liễu quất nó, thế là nó rên rỉ chạy biến mất.
Đúng nửa đêm, các mụ Phù Thủy bay đến trong không trung như những con dơi. “Phíu!” Các mụ kêu to khi hạ cánh xuống mặt đất. “Có người lạ đang ở đây! Rồi các mụ đánh hơi ra xung quanh huyên thuyên và làm dấu hiệu với nhau. Ả Phù Thủy trẻ có mái tóc hoe phất phơ trong gió đến sau cùng. Ả mặc một bộ váy thêu mắt công bằng chỉ vàng và đội một chiếc mũ xinh xinh bằng nhung xanh.
“Người đâu, người ở đâu nhỉ?” Các mụ Phù Thủy gào lên khi nhìn thấy ả, nhưng ả chỉ cười và chạy về phía cây trăn, kéo tay chàng Đánh Cá ra ngoài ánh trăng và họ bắt đầu cùng nhảy múa.
Họ lượn vòng, lượn vòng, ả Phù Thủy nhảy rất cao, đến nỗi chàng Đánh Cá nhìn cả thấy gót giày đỏ chót của ả. Chen ngang đôi vũ công, chàng Đánh Cá nghe thấy tiếng ngựa phi nước đại, nhưng chẳng nhìn thấy ngựa đâu, chàng Đánh Cá thấy kinh sợ.
“Nhanh lên”, ả Phù Thủy kêu lên, hai cánh tay ả quấn chặt lấy cổ chàng Đánh Cá, hơi thở ả nóng bỏng vào mặt chàng. “Nhanh lên, nhanh nữa lên! Ả gào lên, mặt đất như xoay tròn dưới chân chàng, đầu óc chàng đâm rối loạn, một nỗi khiếp sợ ập đến bởi có một cái gì hắc ám đang chằm chặp nhìn chàng và cuối cùng chàng nhận ra một hình thù mới xuất hiện đang ẩn dưới bóng một tảng đá.
Đó là một người đàn ông mặc áo sơ mi nhung kiểu Tây Ban Nha. Mặt y nhợt nhạt đến kì lạ nhưng cặp môi lại y như một bông hoa đỏ rực kiêu hãnh. Trông y có vẻ mệt mỏi, người ngả ra phía sau vẻ lơ đãng, y hững hờ dựa lên chuôi kiếm. Phía sau y, nằm trên mặt cỏ là một chiếc mũ tròn, một đôi găng tay cưỡi ngựa viền mạ vàng và đính những hạt ngọc trai, chạm trổ những hình thù kì lạ. Một chiếc áo choàng ngắn màu đen ảm đạm khoác hững hờ trên vai y, và đôi bàn tay trắng muốt tao nhã đeo kín nhẫn mặt ngọc, hàng lông mi rậm phủ rợp cặp mắt.
Chàng Đánh Cá ngắm y trong một thoáng ngơ ngẩn. Cuối cùng mắt họ gặp nhau, rồi dù nhảy ở vị trí nào chàng vẫn cảm thấy ánh mắt của y gắng chặt lấy chàng. Chàng nghe thấy tiếng cười của ả Phù Thủy, bèn tóm chặt thắt lưng ả, cùng ả quay cuồng trong điệu vũ bất tận.
Đột nhiên một con chó sủa vang lên trong khu rừng, các cặp nhảy dừng lại, từng đôi một bước tới và hôn tay người đàn ông. Khi họ làm như vậy, cặp môi ngạo nghễ của y thoáng hiện lên nét cười, như cánh chim nhẹ xuống mặt nước khiến nó lăn tăn gợn sóng, nhưng đượm vẻ khinh khi. Gã vẫn dán mắt nhìn chàng Đánh Cá.
“Xin hãy lại đây! Để chúng ta được chiêm ngưỡng”, ả Phù Thủy thì thào, vừa kéo tay chàng lên, nắm tay cầu xin chàng với vẻ khao khát cháy bỏng và chàng bước theo ả. Nhưng khi tới gần bất ngờ một cách vô thức, chàng vạch một dấu thập giá lên ngực mình và gọi tên Đấng thiêng liêng.
Các mụ Phù Thủy hét lên thất thanh và bay vọt đi như những con diều hâu, khuôn mặt vàng khè đang chằm chằm dán vào chàng kia rúm lại trong cơn đau co thắt. Người đàn ông đi vào cánh rừng nhỏ và huýt sáo. Một con ngựa giống Tây Ban Nha với bộ yên cương bạc phóng tới đón y. Khi đã nhảy lên yên ngựa, y ngoái người lại, buồn rầu nhìn chàng Đánh cá. Ả Phù Thủy tóc hoe cũng cố tìm cách bay đi nhưng chàng Đánh Cá nắm được cổ tay ả và tóm chặt lấy ả.
“Buông ta ra,” ả hét lên, “để cho ta đi. Bởi người đã gọi cái không nên gọi và làm những dấu hiệu không được phép làm”.
“Không” chàng đáp, “đừng hòng ta để bà đi nếu bà chưa bảo ta điều bí mật kia”
“Bí mật nào?” Ả hỏi, giằng co với chàng như một con mèo hoang và cắn chặt cặp môi sùi bọt.
“Bà biết rồi mà,” chàng đáp.
Cặp mắt xanh màu cỏ của ả đẫm lệ, ả bảo chàng Đánh Cá “hỏi ta cái gì cũng được nhưng trừ điều ấy”.
Chàng cười và càng tóm chặt ả hơn.
Khi thấy mình không thoát được ả thì thào với chàng, “chắc chắn ta đẹp không kém gì con gái Thủy Vương, cũng duyên dáng chẳng thua gì những cô ả ngự trong làn nước xanh”, và ả xăm xoe ghé sát mặt lại gần chàng.
Nhưng chàng Đánh Cá cau mày đẩy phắt ả ra và bảo: “Nếu bà không giữ lời hứa với ta, ta sẽ giết bà vì bà là một mụ Phù Thủy gian trá”.
Ả tái mét như chàm đổ và rùng rình. “Thôi đành”, ả lẩm bẩm. “Là linh hồn của người chứ chẳng phải của ta. Muốn làm gì thì tùy ngươi”. Ả lấy từ thắt lưng ra một con dao nhỏ, cán bọc ra rắn lục và đưa nó cho chàng Đánh Cá.
“Thứ này giúp gì được ta?” Chàng Đánh Cá ngạc nhiên hỏi ả. Ả im lặng một thoáng, nét mặt đầy vẻ khiếp sợ. Rồi ả vén mớ tóc rũ xuống trán, mỉm cười kì lạ bảo chàng: “Người ta không gọi cái bóng của thân xác là cái bóng của nó, mà là thân xác của linh hồn. Hãy đứng trên bờ biển, quay lưng về phía mặt trăng rồi cắt bỏ cái bóng của người khỏi chân người, đó chính là thân xác của linh hồn người, và hãy ra lệnh cho linh hồn ngươi lìa khỏi người, nó sẽ tuân lệnh”.
Chàng Đánh Cá run lên. “Thật thế chứ?” Chàng lẩm bẩm.
“Đúng, và ta đã không nói nếu không phải nói với ngươi điều này” ả kêu lên, quỳ xuống khóc than sụt sùi.
Chàng Đánh Cá buông ả ra, đặt xuống mặt cỏ rồi đi về phía đỉnh núi. Chàng dắt con dao vào thắt lưng rồi xuống núi.
Linh Hồn chàng ở trong chàng cất lên tiếng gọi và bảo: “Lạ thật! Tôi đã ở với anh từng ấy tháng năm, đã là tôi tớ của anh. Đừng xua đuổi tôi, tôi đã làm gì ác với anh nào?
Chàng Đánh Cá cười: “Người chẳng làm gì ác với ta, nhưng ta không cần người”, chàng đáp. “Thế gian rộng bao la, có Thiên đàng, có cả Địa ngục, có ngôi nhà hoàng hôn nhập nhoạng ngăn giữa hai nơi đó. Ngươi muốn đi đâu thì đi, chỉ đừng làm phiền ta nữa, bởi tình yêu của ta đang vẫy gọi ta”.
Linh Hồn thảm thiết cầu xin chàng, nhưng chàng làm ngơ, chỉ nhảy thoăng thoắt qua các mỏm đá, thành thục như một con dê núi, cuối cùng chàng đã tới được bờ biển óng cát vàng.
Thân hình rắn chắc đỏ rực màu đồng, như một pho tượng Hi Lạp chàng đứng trên bờ cát, quay lưng về phía mặt trăng từ đám bọt sóng những cánh tay trăng muốt đang vẫy gọi chàng, từ những con sóng vươn lên những bóng dáng mờ ảo khiến chàng ngưỡng mộ. Ngả dài trước mặt chàng là cái bóng của chàng, thân xác của Linh hồn, và sau lưng chàng là mặt trăng in hình trên nền trời vàng óng mật ong.
Linh hồn chàng bảo với chàng: “Nếu quả thật anh phải rũ bỏ tôi, đừng để tôi ra đi khi không có trái tim. Thế gian này tàn nhẫn lắm, hãy để trái tim ra đi cùng với tôi”.
Chàng mỉm cười lắc đầu: “Ta sẽ yêu người yêu ta bằng gì nếu ta cho ngươi trái tim của ta?” Chàng kêu lên.
“Hãy rủ lòng thương đi mà,” Linh Hồn của chàng khẩn khoản: “Hãy ban cho tôi trái tim của anh, bởi thế gian này tàn nhẫn lắm, tôi thấy sợ”
“Trái tim của ta là của người yêu ta,” chàng đáp, “vậy nên đừng nấn ná làm gì, xéo ngay đi”.
“Thế tôi không yêu sao?” Linh Hồn chàng hỏi.
“Cút đi, bởi ta không cần ngươi”, chàng Đánh Cá quát lên và chàng nắm lấy cán bọc da rắn lục của con dao nhỏ, cắt phăng cái bóng của chàng từ chân, cái bóng nhỏm lên, đứng trước mặt chàng, nhìn chàng, trông nó thậm chí giống hệt như chàng.
Chàng lùi lại, cố ấn con dao vào thắt lưng, một cảm giác khiếp sợ ôm trùm lấy chàng. “Cút đi”. Chàng lẩm bẩm: “Và đừng bao giờ để ta thấy lại người nữa”.
“Không, chúng ta sẽ còn gặp nhau,” Linh Hồn đáp. Giọng nó trầm như tiếng sáo, môi nó cử động chật vật khi nó nói.
“Làm sao chúng ta gặp được nhau? “Chàng Đánh Cá quát: “Ngươi sẽ không bám gót được ta xuống đáy biển chứ?”
“Mỗi năm một lần tôi sẽ trở lại nơi này và sẽ gọi anh,” Linh Hồn nói. “Biết đâu anh sẽ còn cần đến tôi”.
“Ta cần gì ngươi nào?” Chàng Đánh Cá kêu lên: “Nhưng tùy ngươi đấy,” và chàng lao mình xuống làn nước, các thần ngư thổi tù và, còn nàng Tiên Ngư bé nhỏ thì ngoi lên đón chàng, nàng choàng cánh tay ôm lấy cổ chàng và hôn lên môi chàng.
Linh Hồn đứng lại trên bờ biển quạnh vắng và nhìn theo họ. Khi cả hai đã khuất sâu xuống đáy nước, nó thổn thức bỏ đi về phía các đầm lầy.
Một năm sau Linh Hồn quay về bờ biển và cất tiếng gọi chàng Đánh Cá. Chàng ngoi từ đáy nước lên và hỏi: “Ngươi gọi ta có chuyện gì?”
Linh Hồn đáp: “Hãy lại gần đây, để tôi có thể chuyện trò cùng anh, bởi tôi đã được thấy những thứ kì lạ lắm”.
Chàng Đánh cá bơi lại gần, nằm dài trong vũng nước cạn, ngả đầu trên cánh tay, chàng lắng nghe.
Và Linh Hồn kể với chàng: “Khi rời xa anh rồi tôi quay mặt về hướng Đông và đi chu du. Mọi thứ đến từ hướng Đông đều thông thái. Tôi đi trong sáu ngày, buổi sáng ngày thứ bảy tôi đến một quả đồi thuộc đất Tartary1 tôi ngồi tránh nắng dưới một bóng cây thánh liễu. Mặt trời khô rang và hầm hập nóng. Dân tình đi lại trên cánh đồng như một đàn ruồi lúc nhúc trên mặt đĩa cháo.
1 Tên gọi chung cho vùng lãnh thổ giữa Dniepơ và biển Nhật Bản
“Đến trưa, từ mặt đất bốc lên một đám bụi đỏ ngầu. Khi đám người Tartar nhìn thấy đám bụi, họ nhảy phắt lên yên ngựa quét sơn, cưỡi trên những con ngựa bé nhỏ, họ phi nước kiệu lao đón đám bụi nọ. Bọn đàn bà thì la hét thất thanh vừa bỏ chạy về phía các xe ngựa và ẩn mình sau những tấm màn rủ.
“Hoàng hôn buông, những người Tartar mới trở về, nhưng đã mất năm người, số còn lại bị thương không ít. Họ xua ngựa về phía những cỗ xe và vội vã lùa chúng đi. Ba con chó rừng rời khỏi hang ổ, chằm chằm ngó theo họ; rồi chúng hếch mũi lên, hít hít không khí, và phóng thẳng về hướng ngược lại”.
“Khi trăng lên tôi nhìn thấy ánh lửa trại trên cánh đồng bèn lần về phía đó. Một toán khách buôn đang quây quần bên trên các tấm thảm quanh đống lửa. Đàn lạc đà của họ được buộc phía sau lưng họ, còn những tên nô lệ da đen thì đang dựng lều phủ da thuộc trên bãi cát và dựng cả một bức rào chắn cao bằng cây lê gai.
“Khi tôi tiến lại gần họ, người đứng đầu toán khách buôn đứng lên, rút kiếm ra và hỏi tôi là ai.”
“Tôi đáp mình là Tộc trưởng có lãnh địa riêng, rằng tôi đang chạy chốn những người Tartar có ý đồ săn bắt tôi làm nô lệ cho họ. Viên đứng đầu mỉm cười, chỉ cho tôi năm cái đầu cắm trên những chiếc cọc tre dài.”
“Rồi họ hỏi tôi, ai là nhà tiên tri của Đức Chúa trời, tôi đáp rằng đó là Môhamet.
“Khi nghe tên của vị tiên tri rởm đó, ông ta cúi đầu cầm lấy tay tôi, dắt đứng bên cạnh ông. Một tên da đen mang đến cho tôi sữa ngựa đựng trong một cái bát gỗ và một miếng thịt cừu rán.
“Đến tảng sáng chúng tôi lên đường. Tôi ngồi bên cạnh viên đứng đầu, trên một con lạc đà lông hung. Một gia nhân vác giáo chạy ở đằng trước. Các chiến binh hộ tống hai bên và những con la chất đầy hàng hóa nối tiếp sau. Trong đoàn có cả thẩy bốn mươi con lạc đà, còn số la thì gấp đôi.
“Chúng tôi rời lãnh thổ của những người Tartar, sang lãnh thổ những kẻ báng bổ mặt trăng. Chúng tôi trông thấy các con quái vật đầu sư tử, mình cánh chim ưng đứng trên những mỏm đá trắng canh giữ kho vàng của chúng và những con rồng có vẩy nằm ngủ say trong các hang động. Khi chúng tôi vượt qua đỉnh núi, ai ai cũng nín thở để tuyết khỏi lở ụp xuống đầu, và người nào cũng che một tấm mạng sa mỏng trước mắt. Khi chúng tôi đi qua các thung lũng, những người Pigmé bắn tên rào rào vào chúng tôi từ trên các hốc cây, còn đến đêm chúng tôi nghe tiếng lũ người rừng khua trống rầm rầm. Khi qua thành lũy của lũ khỉ không đuôi, chúng tôi đặt hoa quả trước chúng nên chúng không gây sự gì. Còn khi qua hang ổ của lũ rắn, chúng tôi để sữa ấm cho chúng trong những cái bát bằng đồng, thế là chúng để chúng tôi đi qua. Có tới ba lần trong chuyến đi, chúng tôi đến gần bờ con sông Oxus1 chúng tôi vượt sông bằng bè gỗ với những quả bong bóng da thổi căng. Lũ hà mã nổi sung đuổi theo và tìm cách giết chúng tôi. Khi nhìn thấy chúng, bầy lạc đà cứ run lên cầm cập.
1 Tên cổ của con sông Amu- Đari
“Các nhà vua của những kinh thành chúng tôi đi qua đều thu thuế của chúng tôi, nhưng chả vị nào làm phiền chúng tôi phải bước qua cổng thành của họ. Họ ném qua tường thành cho chúng tôi bánh mì, bánh ngô nướng mật ong và bánh ngọt nhân chà là làm từ thứ bột hảo hạng. Cứ một trăm túi bánh chúng tôi trả họ một hạt hổ phách.
“Khi dân tình ở các làng mạc nhìn thấy chúng tôi, họ thả thuốc độc xuống các giếng nước và chạy trốn lên các đỉnh đồi. Chúng tôi giao chiến với những người Magadae, khi mới sinh ra đã già khú khụ, càng về sau càng trẻ lại, và chết khi trở về là những đứa hài nhi, chiến đấu với người Lactroi, tự cho mình là con cháu của loài hổ và phết màu vàng, màu đen lên người, đánh nhau với những người Aurant, treo người chết của họ lên các đỉnh ngọn cây, còn người sống thì trú ngụ trong các hang động tối tăm để Thượng Đế của họ là mặt trời không giết chết họ; giao chiến với người Krimnian thờ cá sấu, dâng lên nó những đôi hoa tai cỏ và nuôi nó bằng bơ và thịt gà, chiến đấu với nguời Agazonbae mặt chó và với người Siban chân ngựa chạy nhanh hơn cả ngựa phi. Một phần ba nhóm chúng tôi hi sinh khi giao chiến, còn một phần ba chết bởi các vết thương. Số còn lại rì rầm chống lại tôi, bảo rằng tôi đem đến điều giữ cho họ. Tôi bèn tóm một con rắn Vipe có sừng từ dưới một tảng đá và để cho nó cắn. Khi thấy tôi không hề hấn gì họ càng sợ chết khiếp.
“Sang tháng thứ tư chúng tôi đến được kinh thành của Illel. Chúng tôi đến một khu rừng nhỏ nằm ngoài tường thành, không khí thật oi ả vì khi đó đang kì trăng khuyết. Chúng tôi hái lựu chín từ trên cây và vắt lấy nước uống. Rồi chúng tôi ngả lưng trên các tấm thảm đợi sớm mai.
“Sáng tinh mơ chúng tôi trở dậy và gõ vào cổng thành. Cổng thành đúc bằng đồng đỏ và chạm những con rồng nước và rồng bay. Lính canh nhòm từ trên tháp canh xuống và hỏi chúng tôi là ai. Người phiên dịch của đoàn khách buôn đáp rằng chúng tôi từ đảo Syria cùng với rất nhiều hàng hóa. Họ giữ các con tin và hẹn đến trưa sẽ mở cổng thành cho chúng tôi và đề nghị chúng tôi chờ cho đến khi đó.
“Đến trưa họ mở cổng thành cho chúng tôi. Khi chúng tôi đã vào cả trong thành, dân tình từ các nhà đổ ra vây kín và quan sát chúng tôi. Một người loan tin đi khắp một lượt quanh kinh thành và truyền tin bằng một chiếc tù và ốc biển. Chúng tôi đứng ở khu chợ, các tên da đen cởi dây các kiện hàng vải hoa và mở những hòm gỗ sung dâu chạm trổ. Khi chúng hoàn tất công việc, đám khách buôn bày những hàng hóa lạ mắt của họ ra, những súc vải lanh Ai Cập hồ sáp, những súc lanh hoa Etiôpia, những tấm bọt biển xốp đỏ thắm của Tyre, những tấm rèm xanh Sidon, và những chiếc tách hổ phách lạnh, những chiếc bình thủy tinh tuyệt đẹp cùng những chiếc bình gốm kì lạ. Trên mái một ngôi nhà, đám phụ nữ hiếu kì quan sát chúng tôi, giữa bọn họ có thấy một bà già đeo mặt nạ da mạ vàng.
“Ngày đầu tiên các vị Linh Mục đến và đổi chác hàng hóa với chúng tôi, ngày thứ hai dành cho các bậc vương tôn quý tộc, còn sang ngày thứ ba mới đến lượt các thợ thủ công cùng đám nô lệ. Đây là cách họ giao tiếp với các đoàn khách buôn khi các đoàn này lưu lại ở kinh thành.
“Chúng tôi ở lại đó một tháng, cuối tháng khi trăng khuyết, tôi thấy buồn tẻ đành đi lang thang khắp các nẻo phố trong kinh thành và đi đến khu thánh đường. Các giáo sĩ mặc áo khóa vàng lặng lẽ đi lại trong những rặng cây xanh, trên một đường phố lát đá cẩm thạch đen có một ngôi nhà màu hoa hồng, là nơi Thượng Đế của họ đang ngự. Các cánh cửa ngôi nhà quét sơn bóng, trên bề mặt đắp nổi hình những con bò đực và chim công mạ vàng sáng choang. Các mái nhà vát xuống và những mái che nhô ra có trang hoàng những chuỗi quả chuông bằng sứ. Khi có đàn bồ câu trắng bay qua, cánh chúng chạm vào những quả chuông khiến chúng ngân lên leng keng.
“Phía trước thánh đường có một bể nước trong veo, miệng bể cạp những dải vân mã não. Tôi nằm xuống cạnh bể nước và chạm những ngón tay nhợt nhạt của mình vào phiến đá to bản của nó, một giáo sĩ tiến lại và đứng ở phía sau tôi. Ông ta đi đôi dép, một chiếc làm từ da rắn mềm, còn chiếc kia bện từ lông chim. Ông ta đội một chiếc mũ tế bằng nỉ đen có gắn một hình trăng lưỡi liềm bằng bạc. Bảy sắc vàng được dệt trên áo choàng của ông ta, mái tóc quăn nhuộm Antimon.
“Một thoáng sau ông ta cất tiếng hỏi tôi, xem tôi có ước nguyện gì.
“Tôi trả lời, ước nguyện của tôi là được nhìn thấy Thượng Đế.
“Thượng Đế đang săn bắn,” vị giáo sĩ trả lời, lạ lùng nhìn tôi qua cặp mắt xếch hẹp.
“Hãy chỉ cho tôi ngài ngự ở khu rừng nào, tôi sẽ đến với ngài”, tôi nói.
“Ông ta lấy móng tay nhọt hoắt gạt những dải tua mềm mại trên chiếc áo khoác ngắn tay. “Thượng Đế đang nằm nghỉ”, ông lẩm bẩm.
“Hãy bảo tôi ngài ngự ở đâu, tôi sẽ đến nâng giấc hầu ngài” tôi nói.
“Thượng Đế đang dự tiệc,” ông ta kêu lên.
“Nếu rượu ngọt tôi sẽ cùng uống với ngài, nếu rượu có đắng chát tôi vẫn sẽ uống hầu ngài,” là câu trả lời của tôi.
Ông ta cúi đầu sửng sốt và cầm tay tôi, ông ta kéo tôi dậy, dẫn vào thánh đường.
“Ở phòng đầu tiên tôi nhìn thấy một tượng thần ngự trong một ngai ngọc thạch anh viền những viên ngọc trai phương Đông to kếch sù. Bức tượng từ gỗ mun trong vóc dáng một người đàn ông. Trên trán ông ta gắn một viên hồng ngọc, những giọt giầu đặc quánh nhỏ từ tóc ông ta xuống hai bắp đùi. Hai chân bức tượng nhuốm đỏ máu một con dê non vừa bị giết, ở thắt lưng ông ta đeo một dây lưng bằng đồng có gắn bảy viên ngọc thạch.
“Tôi hỏi vị giáo sĩ, “Thượng Đế đây sao?” Ông ta trả lời tôi, “đây là Thượng Đế”.
“Hãy chỉ Thượng Đế cho ta, không nhất định ta sẽ giết chết ngươi,” tôi quát. Khi chạm vào cánh tay ông ta, tôi thấy nó quắt lại.
“Vị giáo sĩ cầu xin: “Xin chủ nhân của tôi hãy xoa dịu cho kẻ tôi tớ của Người và tôi sẽ chỉ cho anh ta Thượng Đế”.
“Tôi phả hơi thở của mình vào tay ông ta và nó lại phồng ra như cũ, rồi ông ta run rẩy dẫn tôi sang phòng thứ hai. Tôi nhìn thấy một tượng thần ngự trên một đài sen bằng ngọc bích với những viên ngọc lục bảo lớn. Bức tượng được khắc từ ngà voi và to gấp đôi bức tượng thần đàn ông, trên trán có gắn một viên Chrysolite, còn trên ngực bôi bột trầm hương và bột quế. Một tay bức tượng mang cây quyền trượng ngọc bích cong đầu, còn tay kia cầm một quả cầu pha lê, chân xỏ một đôi giầy ống bằng đồng thau và cái cần cổ nần nẫn lồng trong một chiếc vòng nguyệt thạch.
“Tôi hỏi vị giáo sĩ: “Thượng Đế đây sao?” Ông ta trả lời tôi: “Đây là Thượng Đế”.
“Hãy chỉ Thượng Đế cho ta, không nhất định ta sẽ giết chết ngươi,” tôi quát. Khi tôi chạm tay vào mắt ông ta, chúng lập tức trở nên mù lòa.
“Vị giáo sĩ van xin: “Xin chủ nhân của tôi hãy xoa dịu cho kẻ tôi tớ của Người, và tôi sẽ chỉ cho anh ta Thượng Đế”.
Thế là tôi phả hơi thở của mình vào mắt ông ta, đôi mắt lại sáng lại như cũ, rồi ông ta run rẩy dẫn tôi sang phòng thứ ba. Và lạ chưa! Không hề có thần tượng nào ở nơi đó, cũng chẳng có ảnh thánh hay thứ gì tương tự, chỉ có một tấm gương bọc kim loại đặt trên một bệ thờ bằng đá.
“Tôi mới hỏi vị giáo sĩ: “Thượng Đế ở đâu?”
“Ông ta đáp: “Không có Thượng Đế mà chỉ có tấm gương anh đang nhìn thấy đó, nhưng đây là tấm gương thông thái. Nó phản chiếu mọi thứ trên Thiên đàng và dưới trần gian, phò giúp khuôn mặt nào soi vào nó. Những ai soi vào nó đều có thể trở nên thông thái. Có rất nhiều các tấm gương ở nơi đây, nhưng đó là những tấm gương đáng giá. Chỉ có một tấm gương này là tấm gương thông thái và ai đã làm chủ được tấm gương này, sẽ hiểu biết tất cả mọi điều, không một cái gì trên đời này lọt được qua mắt anh ta. Ai là chủ tấm gương không thể không thông thái. Vì thế, chẳng lẽ tấm gương không phải là Thượng Đế, và chúng ta chẳng thờ phụng nó đấy sao”. Tôi nhìn vào tấm gương và xảy ra điều đúng như ông ta đã nói với tôi.
“Tôi đã làm một việc kì lạ, nhưng điều tôi làm chẳng quan trọng gì đâu, vì tôi đã giấu tấm gương thông thái trong một thung lũng ở cách đây một ngày đường. Hãy cho tôi trở vào người anh để lại được là tôi tớ của anh. Anh sẽ thông thái hơn mọi nhà hiền triết trên thế gian này vì tấm gương thông thái sẽ thuộc về anh. Hãy cho tôi quay về với anh đi. Sẽ không ai có thể thông thái bằng anh”.
Nhưng chàng Đánh Cá chỉ cười. “Tình yêu vẫn hơn sự thông thái”, chàng kêu lên, “và nàng Tiên Ngư bé nhỏ yêu tôi”.
“Không dù sao vẫn không gì có thể hơn được sự thông thái,” Linh Hồn nói.
“Tình yêu hơn”, chàng Đánh Cá đáp và lặn xuống đáy nước sâu, còn Linh Hồn lại sụt sùi đi về phía các đầm lầy.
Năm thứ hai trôi qua, Linh Hồn lại trở ra bờ biển và cất tiếng gọi chàng Đánh Cá. Chàng lại ngoi lên từ đáy biển sâu và hỏi: “Ngươi gọi ta có chuyện gì?”
Linh Hồn trả lời: “Hãy lại gần đây, để tôi có thể chuyện trò cùng anh, bởi tôi chứng kiến rất nhiều điều kì lạ”.
Chàng Đánh Cá bơi lại gần, nằm dài trên vũng nước cạn, gối đầu lên cánh tay mình, chàng lắng nghe.
Và Linh Hồn kể với chàng: “Khi chia tay anh, tôi quay mặt về hướng Nam và lên đường. Mọi cái đều từ hướng Nam đều quý giá. Tôi đi liền sáu ngày theo đường cái quan và đến được thành phố Ashter1 tôi đi trên con đường nhuộm đỏ bụi mà những người hành hương vẫn đi, sang buổi sáng ngày thứ bảy, tôi giương mắt lên, và kìa! Một kinh thành đã ở dưới chân tôi, vì nó nằm trong một thung lũng.
1 tên của nữ thần Mặt trăng ở Vavilon và Axiri
“Có bảy cổng dẫn vào kinh thành và trước mỗi cổng thành đều có đứng một con ngựa bằng đồng và chúng hí lên khi có người Ả Rập từ trên đỉnh núi đi xuống. Các tường thành đều bọc đồng và các tháp canh phía trên tường đều lợp đồng thau. Trong mỗi tháp có một cung thủ, tay cầm cung. Khi bình minh lên, tay cung thủ bắn một mũi tên vào một cái cồng và lúc hoàng hôn buông, hắn thổi một hồi tù và và báo hiệu.
“Khi tôi định đi vào trong kinh thành, lính gác ngăn tôi lại và hỏi tôi là ai. Tôi trả lời mình là một giáo sĩ Hồi giáo, đang trên đường tới thánh địa Mecca1 nơi có một bức tường màu xanh, trên đó kinh Coran được khắc chữ bạc bởi bàn tay của các vị thần linh. Họ rất đỗi kinh ngạc và khẩn khoản mời tôi đi qua.
1 Một thành phố ở Ả Rập Xê Út nơi sinh của giáo chủ Hồi giáo Mohanet Được coi là thánh địa của người Hồi giáo.
“Trong thành, trông gần giống như một khu chợ. Tôi chắc anh cũng muốn ở cùng tôi lúc đó. Dọc các con phố hẹp, những chiếc đèn lồng giấy rực rỡ treo mình rún rẩy như những cánh bướm khổng lồ. Khi có làn gió thổi qua, chúng dướn lên trông như những trái bong bóng vẽ. Đằng trước các quán hàng là những khách buôn ngồi trên những tấm thảm tơ. Họ để râu đen thẳng tuột, trên những chiếc mũ quả dưa họ đội có gắn những đồng Sequin1 những chuỗi hạt hổ phách chạm hình quả đào trượt trên những ngón tay mát rượi của họ. Một số bán dầu thơm, bột giặt thơm cũng những loại nước hoa lạ từ các đảo trên biển Ấn Độ Dương và tinh dàu hồng nhung đặc quánh nhựa thơm cùng những đôi găng tay da rắn sù sì. Khi có ai dừng lại trước quán hàng của họ, họ quẳng một nhúm hương tràm lên đám than hồng đựng trong chậu thau, khiến không gian thơm nức thêm ngọt ngào. Tôi thấy một gã người Siri cầm trên tay một cái que mảnh như cây sậy. Đám khói sáng bốc lên từ cái que đang cháy đó có hương thơm giống như hương quả hạnh hồng trong tiết mùa xuân. Một số khách thì bán vòng đeo tay bạc khảm đá ngọc lam mịn, vòng bọc đồng thau có tua đính những viên ngọc trai nhỏ xíu, vuốt cọp bọc vàng, vuốt mèo rừng, báo cũng bọc vàng, hoa tai ngọc lục bảo xỏ lỗ và nhẫn đeo tay ngọc bích rỗng. Từ các quán trà vang lên tiếng ghi ta và khuôn mặt tươi cười tái nhợt của những tay hút thuốc phiện ngó ra nhìn khách qua đường.
1 Đồ trang sức hình tròn, sáng lấp lánh.
“Lẽ ra anh phải ở cùng tôi. Bọn bán rượu lấy khủy tay dẹp đường lách qua đám đông, trên vai họ là những bọng da đen đựng rượu to kềnh. Phần đông họ bán rượu Schiraz1 ngọt lừ như mật ong. Họ rót rượu vào những chiếc tách kim loại nhỏ cho khách và thả lá hoa hồng vào. Ở khu chợ là những người đứng bán hoa quả, đủ các loại; vả chín cùi dày tím lịm; dưa vàng thơm nức như xạ hương, vàng ươm màu hoàng ngọc, thanh yên, doi và những chùm nho trắng; trên trời, dưới là cam vàng rực cùng chanh quả như một khối vàng xanh. Có lần tôi nhìn thấy voi đi qua. Vòi voi sơn son thiếp vàng, trên tai voi che một tấm mạng bằng lụa bọc đỏ sẫm. Nó dừng lại trước một quán hàng và bắt đầu ngốn những trái cam, dân tình chỉ cười vui vẻ. Anh không thể tượng tượng nổi dân chúng ở đó kì quặc đến mức nào. Khi có điều vui họ đến hàng bán chim, mua một con chim rồi phóng sinh cho nó, để niềm vui của họ càng lớn hơn, và khi có điều phiền não, họ tự quất mình bằng roi gai, mong nỗi buồn sẽ vợi bớt đi.
1 Tên một thành phố cổ của Iran
“Một buổi tối, tôi thấy mấy tên da đen khiêng một chiếc kiệu nặng đi qua khu chợ. Kiệu được đan bằng tre bằng ngà, tay kiệu sơn son bóng loáng có đính những con công bằng đồng thau. Che cửa sổ kiệu là một tấm rèm Muslin thêu cánh bọ dừa và đính ngọc trai nhỏ. Khi chiếc kiệu đi qua, một khuôn mặt người Tsecket nhợt nhạt ló ra mỉm cười với tôi. Tôi đi theo chiếc kiệu, bọn da đen rảo bước nhanh hơn và quắc mắt lên đe dọa. Nhưng tôi chẳng thấy ngán. Tôi thấy tò mò quá đi mất.
“Cuối cùng họ dừng lại trước một tòa nhà hình khối vuông trắng. Tòa nhà không có cửa sổ, chỉ có một cửa sổ ra vào nhỏ như cửa xuống nhà mồ. Bọn da đen đặt kiệu xuống và gõ cửa ba lần bằng chiếc búa đồng. Một người Ácmêni mặc áo Kaftan da màu xanh nhìn qua lỗ cửa con, khi nhìn thấy chúng, gã mở cửa ra, trải thảm xuống mặt đất, rồi một người đàn bà bước xuống kiệu. Khi đã vào trong nhà, bà ta còn quay lại mỉm cười một lần nữa với tôi. Tôi chưa từng thấy ai nhợt nhạt đến thế.
“Khi trăng lên, tôi quay lại chỗ đó, tìm kiếm ngôi nhà, nhưng chẳng thấy tăm hơi nó đâu nữa. Khi đó tôi chợt hiểu người đàn bà đó là ai và vì sao bà ta lại mỉm cười với tôi.
“Lẽ ra anh phải ở cùng tôi. Trong lễ mừng trăng lên, vị Quốc Vương trẻ bước ra khỏi cung điện và tiến vào giáo đường để cầu nguyện. Tóc và râu dài nhuộm lá hoa hồng còn má ngài xoa bột mảy vàng, gan bàn tay ngài bôi nghệ tây vàng khè. Bình minh lên, Quốc Vương ra khỏi cung điện, khoác long bào dệt chỉ bạc, còn khi hoàng hôn buông, ngài lại trở ra, khoác long bào dệt chỉ vàng. Các thần dân quỳ rạp xuống đất và giấu mặt đi. Tôi lại không làm như vậy. Tôi đứng sau một quầy bán quả chà là và chờ. Khi Quốc Vương thấy tôi, ngài nhướn cặp lông mày vẽ lên và dừng bước. Tôi đứng im, không cúi lạy ngài. Dân tình sửng sốt bởi sự cả gan của tôi và khuyên tôi nên trốn ra khỏi thành phố. Tôi để ngoài tai những lời của họ, đến ngồi cùng những người bán các tượng thần dị giáo, vì thế mà bị mọi người xa lánh, mỗi người bèn đưa cho tôi một tượng thần và cầu xin tôi hãy lánh xa họ ra.
“Đêm ấy, tôi vừa nằm xuống nệm trong quán trà ở phố những cây lựu, quân lính của Quốc Vương ập vào và giải tôi về cung điện. Sau khi tôi bước vào mỗi cánh cửa, lính gác liền đóng ngay nó lại và quàng thêm một dây sích sắt nữa. Bên trong là một cung điện nguy nga có đường hành lang với mái che bao xung quanh, tường thạch cao tuyết hoa trắng, ngói lợp màu lục và xanh da trời, cột đá cẩm thạch xanh và vỉa hè lát đá cẩm thạch chạm hình hoa đào. Toàn là những thứ tôi chưa từng nhìn thấy bao giờ.
“Khi tôi đi qua cung điện, có hai người đàn bà che mạng từ trên ban công nhìn xuống và cất tiếng nguyền rủa tôi. Toán lính rảo bước, cán giáo lướt phăm phăm trên mặt sàn bóng loáng. Rồi họ mở một cánh cửa chạm ngà voi, một khu vườn với bảy lầu hóng mát hiện ra trước mắt tôi. Trong vườn có đủ các loài: Uất kim cương cúc đại đóa, lô hội bạc. Một đài phun nước giống như một cây sậy pha lê mảnh mai ẩn hiện trong không gian mờ tối. Trên một cây bách, có tiếng chim họa mi thánh thót hót ca.
“Một đình tạ nhỏ nằm ở cuối vườn, khi chúng tôi tiến lại gần hai viên quan hoạn bước ra đón chúng tôi. Họ bước đi, thân hình phì nộn núng na núng nính và họ hiếu kì liếc nhìn tôi với cặp mắt có hàng mi vàng ươm. Một người kéo viên chỉ huy toán lính ra một chỗ và thì thầm với y bằng một giọng trầm. Người kia vẫn tóp tép nhai viên kẹo thơm ông ta khẽ khàng nhón ra từ một chiếc hộp men hình bồ dục màu tía nhạt.
“Một lát sau viên chỉ huy cho đám lính đi ra. Họ quay trở về cung điện, hai hoạn quan chậm rãi theo sau, vừa với tay hái những trái dâu chín trên cây khi họ đi ngang qua. Viên hoạn quan già hơn quay lại cười với tôi một nụ cười ma quái.
“Rồi viên chỉ huy tiến về phía của đình tạ. Tôi rắn rỏi tiến lên, gạt tấm màn rủ trĩu nặng, tôi bước vào bên trong.
“Quốc Vương trẻ đang nằm dài trên một chiếc sập lót da sư tử thuộc, một con chim ưng gộc đậu trên cổ tay ngài. Một lính hầu người Nubian đội mũ giáp đồng, người để trần đến thắt lưng, tai bị xẻo đeo khuyên nặng trĩu, đứng ở đằng sau ngài. Trên chiếc bàn ở cạnh sập đặt một thanh đại đao lớn bằng thép.
“Nhìn thấy tôi Quốc Vương sầm mặt lại, đoạn hỏi tôi: “Tên nhà ngươi là gì? Ngươi biết ta là Quốc Vương kinh thành này chứ?” Nhưng tôi chẳng trả lời ngài.
“Ngài trỏ tay về phía thanh đại đao, tên người Nubian nắm lấy nó, xông lại phía tôi và chém bổ xuống bằng một sức mạnh khủng khiếp. Lưỡi đao bay vèo qua người tôi mà chẳng làm tôi xước da. Tên lính ngã nhào xuống sàn nhà và khi hắn nhỏm dậy, răng hắn đánh lập cập vào nhau vì kinh hoàng và hắn chạy nấp vào sau chiếc sập.
“Quốc Vương nhảy phắt dậy, cầm lấy một cây thương đặt trên giá và lao về phía tôi. Tôi chộp lấy khi nó còn đang bay và bẻ cán nó gãy làm đôi. Ngài liền bắn một mũi tên vào tôi, nhưng tôi vừa giơ tay lên, mũi tên dừng ngay lại giữa không trung. Thế là ngài rút một con dao găm từ thắt lưng da màu trắng và đâm vào họng tên người Nubian để nó không thể kể lại được nỗi ô nhục của ngài. Tên này quằn quại như một con rắn bị xéo nát và một dòng bọt đỏ sùi lên bên khóe mép của nó.
“Khi tên người Nubian đã chết hẳn, Quốc Vương quay về phía tôi, sau khi dùng chiếc khăn lau nhỏ bằng lụa tím thấm những giọt mồ hôi lấp lánh trên đôi mày, ngài bảo tôi, “người có phải là một Thiên sứ mà ta không làm gì được ngươi, hay người là con của một Thiên sứ mà ta không thể chạm được vào da thịt của ngươi? Ta xin ngươi hãy rời kinh thành của ta ngay đêm nay, bởi một khi ngươi còn ở đây, ta không còn là chủ nhân của nó nữa.”
“Và tôi trả lời ngài, “tôi sẽ đi cùng một nửa của cải của ngài. Hãy đưa cho tôi một nửa số của cải của ngài, tôi sẽ đi”.
“Ngài cầm tay tôi, dẫn ra khu vườn. Khi tên chỉ huy toán lính nhìn thấy tôi, y ngạc nhiên lắm. Khi các hoạn quan trông thấy tôi đầu gối họ run lập cập và họ ngã lăn ra đất vì khiếp sợ.
“Có một gian phòng trong cung điện có tám bức tượng đá pocphia đỏ, trần lát đồng thau có treo những chùm đèn. Quốc Vương chạm tay vào một bức tường, nó lập tức mở ra và chúng tôi đi qua một hành lang thắp rất nhiều đuốc. Trong mỗi góc tường đều đặt những chiếc bình khổng lồ màu vàng thẫm, chứa đầy ắp những đồng tiền bạc. Khi chúng tôi vào đến giữa hành lang Quốc Vương thốt ra một câu phạm thánh và cánh cửa đá granít bật mở, để lộ một dòng chảy bí mật; ngài phải lấy tay bịt mặt để mắt khỏi bị lóa.
“Đó là một nơi tuyệt diệu đến khó tin. Ở đó, có một chiếc mai rùa khổng lồ chứa đầy ngọc trai, lam bảo ngọc rỗng cỡ lớn cùng ngọc rubi đỏ. Vàng thì được chứa trong những cái két bọc da voi, bột vàng thì đựng trong các bầu bằng da. Đá opan và xaphia khuôn theo hình những chiếc cốc pha lê, còn latter1 trong những chiếc cốc ngọc bích. Ngọc lục bảo xanh nằm xếp lớp trên những chiếc đĩa ngà mỏng manh. Trong một góc phòng xếp đống những túi lụa căng phồng ăm ắp, một số túi đựng ngọc lam, còn một số chứa berin. Những cặp ngà voi đựng đầy thạch anh tím, còn các tù và đồng thau thì ăm ắp đá canxeđoan. Các cột gỗ tuyết tùng vấn đầy các chuỗi hạt đá mắt mèo vàng óng ánh. Trên các tấm khiên phẳng hình ô van nằm những viên ngọc granít đỏ ánh lên màu vàng sẫm và màu đồng. Đấy là tôi mới kể với anh một phần rất nhỏ những gì có ở đó.
1 Hợp kim giống đồng,dùng làm chén, bình trong nhà thờ.
“Quốc Vương bỏ tay che mặt xuống và bảo tôi: “Đây là kho chứa của cải của ta một nửa những gì ở đây là của ngươi, như ta đã hứa. Ta sẽ cấp cho người lạc đà cùng người đánh lạc đà. Chúng sẽ theo lệnh ngươi, chở phần của cải của ngươi đến bất cứ xó xỉnh nào trên thế gian theo ý nguyện nhà ngươi. Mọi cái sẽ phải hoàn tất trong đêm nay, bởi ta không muốn mặt trời, người anh em của ta phải nhìn thấy trong kinh thành của ta cái con người ta không thể giết nổi”.
“Nhưng tôi trả lời ngài rằng: “Vàng ở đây là của ngài, bạc cũng là của ngài và của ngài cả những đồ châu báu quý giá cùng những vật đắt tiền. Còn tôi, tôi không cần những thứ này. Tôi chẳng lấy gì của ngài ngoài chiếc nhẫn bé nhỏ ngài đang đeo nơi ngón tay kia.”
“Quốc Vương sầm mặt lại.” Đó chỉ là một cái nhẫn bằng chì. Ngài kêu lên: “Nó chẳng có giá trị gì đâu. Vì vậy hãy nhận lấy một nửa của cải phần của người và rời khỏi kinh thành của ta đi”.
“Không” tôi đáp, “tôi chẳng lấy gì ngoài chiếc nhẫn chì bởi tôi biết điều gì được viết trên đó và dành cho mục đích gì”.
“Quốc Vương run lên, ngài van nài.” Hãy lấy tất cả của cải đi và rời khỏi kinh thành của ta. Nửa phần của ta cũng sẽ là của người đấy.”
“Tôi đã làm một việc kì quặc, nhưng chẳng quan trọng, vì trong một cái hang cách đây một ngày đường, tôi đã giấu chiếc nhẫn giàu có. Nó chỉ nằm cách đây có đúng một ngày đường và đang đón chờ anh. Anh, người sở hữu chiếc nhẫn này, sẽ giàu có hơn mọi bậc vua chúa trên thế gian này. Vì vậy hãy tới và lấy nó đi, và mọi của cải trên đời này sẽ là của anh”.
Nhưng chàng Đánh Cá chỉ cười. “Tình yêu còn hơn sự giàu có,” chàng kêu lên, “và nàng Tiên Ngư bé nhỏ yêu tôi”.
“Không đâu, không có gì hơn được sự giàu có,” Linh Hồn nói.
“Tình yêu vẫn hơn,” chàng Đánh Cá trả lời rồi lao mình xuống đáy nước sâu thẳm, còn Linh hồn than khóc đi về phía các đầm lầy.
Năm thứ ba trôi qua, Linh Hồn quay trở lại bờ biển và cất tiếng gọi chàng Đánh Cá. Chàng ngoi lên từ lòng biển và hỏi: “Ngươi gọi ta có chuyện gì”
Linh Hồn trả lời, “hãy lại gần đây, để tôi có thể chuyện trò cùng anh, bởi tôi thấy nhiều điều kì diệu lắm”.
Chàng Đánh Cá bơi lại gần, nằm dài trong vũng nước cạn, gối đầu trên cánh tay mình, chàng lắng nghe.
Và Linh Hồn kể với chàng: “Trong thành phố tôi đã thấy, ở đó có một quán trọ nằm bên một dòng sông. Tôi ngồi cạnh những gã thủy thủ đang uống thứ rượu có hai màu khác nhau và gặm bánh bột lúa mạch, thứ cá muối con để trên lá nguyệt quế trộn với dấm. Chúng tôi ngồi và đang ăn uống vui vẻ, thì một lão già cắp một tấm thảm da với một cây đàn luyt có hai cái tai hổ phách đi vào. Trải tấm nệm ra nền đất rồi, lão gảy ống lông ngỗng lên sợi dây bọc sắt của cây đàn luyt, khi đó, một cô gái che mạng chạy ra và nhảy múa trước chúng tôi, che mặt cô là một tấm voan sa, nhưng chân cô lại để trần. Cặp chân cô để trần và chuyển động trên tấm thảm như cặp bồ câu trắng xinh xinh. Tôi chưa thừng thấy một vật gì xinh đẹp hơn, và thành phố, nơi cô gái nhảy múa chỉ cách đây có đúng một ngày đường”.
Lúc này, khi nghe những lời ấy của Linh Hồn, chàng Đánh Cá chợt nhớ ra rằng nàng Tiên ngư bé bỏng không có chân, và nàng không thể nhảy múa.
Một nỗi khát khao cháy bỏng trỗi dậy và chàng tự nhủ: “Chỉ một ngày đường, rồi ta lại có thể quay về với người yêu dấu của ta,” chàng bật cười, nhổm dậy khỏi vũng nước nông và bước lên bờ.
Khi lên đến bờ khô ráo chàng lại cười và chìa tay ra cho Linh hồn của chàng. Nó thét vang vì vui sướng, chạy vội lại đón chàng và nhập luôn vào người chàng. Chàng Đánh Cá lại nhìn thấy, trải dài trên cát trước mặt chàng là cái bóng của thân xác và cũng là thân xác của Linh Hồn.
Linh Hồn bảo với chàng: “Chúng ta đừng chần trừ, hãy rời khỏi đây ngay, bởi các thần biển là chúa hay ghen, và lại có lũ quỷ biển thi hành mệnh lệnh của họ đấy”.
Hối hả lên đường, đi suốt đêm dưới ánh trăng, đi suốt cả ngày hôm sau dưới nắng mặt trời, đến tối thì họ tới thành phố.
Chàng Đánh Cá hỏi Linh Hồn của mình: “Đây có phải là thành phố có nàng vũ nữ người kể với ta không?”
Và Linh Hồn trả lời chàng: “Không phải thành phố này, mà là thành phố khác. Nhưng chúng ta cứ vào đây cái đã”.
Thế là họ đi vào thành phố, băng qua cá dãy phố, khi họ đi qua phố Thợ kim hoàn, chàng Đánh Cá nhìn thấy một chiếc cốc bạc rất đẹp bày trên một quầy hàng. Linh Hồn bảo chàng: “Cầm lấy chiếc cốc bạc và giấu nó đi”.
Thế là chàng cầm ngay lấy chiếc cốc và giấu nó và túi áo khoác, rồi họ vội vã rời khỏi thành phố.
Đi được một dặm khỏi thành phố, chàng Đánh Cá cau có quẳng chiếc cốc đi và bảo với Linh Hồn của mình, “tại sao ngươi lại xui ta lấy giấu chiếc cốc này đi, vì đó là một việc làm xấu xa”.
Linh Hồn trả lời chàng, “an tâm đi, hãy an tâm đi nào”.
Đến tối ngày thứ hai họ đến một thành phố. Chàng Đánh Cá hỏi Linh Hồn của mình: “Đây có phải là thành phố có nàng vũ nữ ngươi kể với ta không?”
Và Linh Hồn trả lời chàng: “Không phải thành phố này, mà là thành phố khác. Nhưng chúng ta cứ vào đây cái đã”.
Thế là họ vào trong thành, băng qua các dãy phố, khi họ đi quá phố Hàng giày, chàng Đánh Cá nhìn thấy một đứa trẻ đứng bên một bình nước. Linh Hồn bảo chàng: “Hãy tát cho đứa bé này một cái”. Thế là chàng tát đứa bé cho đến khi nó bật khóc thút thít. Rồi họ vội vã rời khỏi thành phố.
Đi được một dặm khỏi thành phố, chàng Đánh Cá nổi giận bảo với Linh Hồn của mình: “Tại sao ngươi lại xui ta tát đứa bé, vì đó là một việc làm xấu xa?”
Nhưng Linh Hồn đáp lại chàng: “an tâm đi, hãy an tâm đi nào”.
Tối ngày thứ ba họ đến một thành phố. Chàng Đánh Cá hỏi Linh Hồn của mình: “Đây có phải là thành phố có nàng vũ nữ ngươi kể với ta không?”
Linh Hồn đáp: “Cũng có thể là ở trong thành phố này, vậy chúng ta cứ vào xem sao”.
Thế là họ đi vào thành, băng qua các dãy phố, nhưng chàng Đánh Cá chẳng tìm thấy ở đây dòng sông hay quán trọ nằm bên dòng sông ấy. Dân tình trong thành tò mò nhìn chàng khiến chàng thấy sợ. Chàng bèn bảo với Linh Hồn của mình. “Chúng ta rời khỏi đây thôi, vì nàng vũ nữ nhảy múa trên cặp chân trắng ngần không có ở đây”.
Nhưng Linh Hồn chàng đáp: “Không được chúng ta nán lại cái đã, vì trời tối rồi, nhất định có kẻ cắp ở dọc đường”.
Thế rồi nó đặt chàng ngồi xuống nghỉ chân ở khu chợ. Một lát sau có hai khách buôn đội mũ trùm đi tới, họ mặc đồ của người Tartar, cầm một chiếc đèn lồng làm từ sững rỗng, và treo trên đầu một cây sậy. Một khách buôn bảo với chàng, “tại sao ngài lại ngồi ở khu chợ mà ngắm mấy cái quầy hàng đã đóng cùng với những kiện hàng đã chằng kĩ này làm gì?”
Chàng Đánh Cá trả lời ông ta: “Tôi chả tìm thấy một quán trà nào ở đây, cũng chẳng có một người bà con có thể cho tôi tá túc”.
“Chẳng phải chúng ta đều là bà con sao? Người khách buôn bảo. “Chẳng phải chúng ta cùng một Thượng Đế sinh ra hay sao?” Vì vậy hãy đi với tôi, tôi có một phòng dành cho khách”.
Thế là chàng Đánh Cá đứng lên đi theo người khách buôn về nhà ông ta. Đi qua một vườn lựu, chàng vào đến trong nhà. Ông khách buôn bưng một chậu đồng nước hoa hồng mời chàng rửa tay, bổ dưa hấu mời chàng ăn cho dịu cơn khát rồi bê một bát gỗ đựng cơm với một miếng thịt dê non rán ra mời chàng ăn.
Chàng ăn uống xong, ông khách buôn dẫn chàng vào phòng ngủ dành cho khách và mời chàng đi nghỉ cho lại sức chàng Đánh Cá nói lời cảm ơn, hôn lên chiếc nhẫn đeo ở ngón tay của ông, rồi quăng mình xuống tấm thảm bện lông dê. Đắp chiếc chăn đen lông cừu lên mình, chàng ngủ thiếp đi.
Ba giờ trước rạng đông, khi trời còn tối om, Linh Hồn đánh thức chàng dậy bảo: “Dậy mau và vào phòng người khách buôn, vào đúng phòng ông ta đang ngủ ấy, hãy giết ông ta và lấy hết vàng bạc của ông ta, vì chúng ta sẽ cần đến chúng”.
Chàng Đánh Cá nhỏm dậy, rón rén tiến vào phòng người khách buôn, bên trên chân ông ta treo một thanh kiếm cong vút và ở ngăn hòm bên cạnh ông ta để chín túi vàng. Chàng thò tay chạm vào thanh kiếm, vừa lúc ông khách buôn giật mình, choàng tỉnh giấc. Ông nhảy phắt dậy, chộp lấy thanh kiếm và quát hỏi chàng Đánh Cá: “Ngươi định lấy oán trả ân, lấy máu trả nghĩa đối với ngươi sao?”
Linh Hồn chàng giục chàng, “đánh hắn đi”, và chàng đập ông khách buôn một cái khiến ông này ngã lăn ra ngất đi. Thế là chàng vơ hết chín túi vàng và chuồn qua vườn lựu. Lúc ngẩng mặt lên chàng bắt gặp một ngôi sao, đó là ngôi sao mai.
Đi được một dặm khỏi thành phố, chàng Đánh Cá đấm ngực, bảo với Linh Hồn của mình. “Tại sao ngươi lại xui giết ông khách buôn và cướp vàng của ông ấy? Ngươi rõ là đồ ác quỷ rồi”.
Nhưng Linh Hồn bảo chàng, “an tâm đi, hãy an tâm đi nào”
“Không” chàng Đánh Cá quát lên: “Ta không thể an tâm bởi ta căm thù cả ngươi nữa, và xin ngươi hãy nói cho ta hay, vì sao ngươi nỡ đối xử với ta như vậy?”
Linh Hồn bèn trả lời chàng: “Khi anh tống tôi ra dương gian anh đã không đưa trái tim cho tôi. Vậy nên tôi học cách làm tất cả những chuyện này, và tôi thấy thích lắm”.
“Ngươi nói gì vậy?” “Chàng Đánh cá lẩm bẩm”.
“Anh biết mà,” Linh Hồn chàng trả lời: “Anh hiểu rất rõ mà. Anh quên đã không trao trái tim cho tôi rồi sao? Tôi không tin. Chẳng có gì quấy rầy nổi bản thân anh và tôi, ngoài sự yên thân, bởi chẳng có nỗi đau nào khiến anh phải rũ bỏ, cũng chẳng có vui thú nào khiến anh phải đón nhận”.
Nghe những lời này, chàng Đánh Cá run lên và bảo với Linh Hồn của mình, “không đâu, ngươi chính là quỷ dữ, đã khiến ta quên cả người yêu của ta, đã nhử ta đến mỗi lạc thú và đã xui chân ta đi tìm tội lỗi”.
Linh Hồn mới đáp rằng: “Anh chớ quên là đã đuổi tôi ra ngoài đời mà không trao trái tim cho tôi đấy nhé. Nào đi thôi, chúng ta sẽ đến một thành phố khác và vui chơi cho thỏa thích, vì chúng ta đã có chín túi vàng đây.”
Nhưng chàng Đánh cá cầm cả chín túi vàng quẳng xuống đất và giẫm chân lên.
“Không đâu”, chàng quát to: “Ta sẽ chẳng làm gì với ngươi, sẽ chẳng đi đâu cùng ngươi hết. Trước kia đã từ bỏ ngươi thì giờ đây ta cũng sẽ tống khứ ngươi đi, bởi người đã xúi bẩy ta làm những việc xấu xa”.
Chàng quay lưng về phía mặt trăng và với con dao găm cán bọc da rắn lục chàng tìm cách cắt khỏi chân mình cái bóng của thân thế, cũng là thân thể của Linh Hồn.
Nhưng Linh Hồn chẳng nhúc nhích, chẳng đếm xỉa đến mệnh lệnh của chàng mà lại bảo với chàng, “lời của ả Phù Thủy đã nói với anh không còn giúp gì được cho anh nữa đâu, anh cũng chẳng thể rũ bỏ được tôi nữa. Nếu một lần trên đời con người đã rũ bỏ Linh Hồn của mình, rồi lại thu nạp nó trở lại, thì nó sẽ ở lại cùng anh ta vĩnh viễn; đó là hình phạt, cũng là phần thưởng cho anh ta”.
Chàng Đánh Cá tái mét, nắm chặt tay lại, chàng quát lên: “Ả ta là một Phù Thủy dối trá vì điều ả nói với ta không hề đúng”.
“Không phải vậy, Linh hồn bảo: “Mà là bà ta đã nói thật với kẻ bà ta tôn thờ, và bà ta sẽ vĩnh viễn là tôi tớ cho kẻ đó”.
Khi chàng Đánh Cá hiểu rằng chàng chẳng bao giờ rũ bỏ được Linh Hồn của mình, một Linh hồn ác quỷ, và sẽ phải chung sống cùng với nó, chàng lăn ra đất, khóc than cay đắng.
Ngày hôm sau chàng Đánh Cá đứng dậy, bảo với Linh Hồn của mình: “Ta sẽ trói tay mình lại để không phải làm theo lời xúi bẩy của ngươi, sẽ ngậm chặt mồm để khỏi phải nói lời nói của ngươi. Ta sẽ quay về với biển cả, về với con vịnh, nơi nàng vẫn ca hát. Ta sẽ cất tiếng gọi nàng và kể cho nàng nghe những điều ác ta đã làm và thứ ác quỷ mà ngươi đã đóng sống cho ta.”
Linh Hồn liền rủ rê chàng, ai là người yêu anh để anh quay về với cô ta? Trên thế gian này còn ối cô nàng đẹp hơn cô ta? Còn có các vũ nữ Sanaris1 biết nhảy múa như các loài cầm thú trên đời. Những cặp chân của họ nhuộm lá móng, tay họ đeo những quả chuông đồng xinh xinh. Họ tươi cười nhảy múa, tiếng cười trong như tiếng nước reo. Đi với tôi đi, tôi sẽ tìm họ cho anh.
1 Đất ixraen cổ
Những điều tội lỗi có quan hệ gì với anh nào? Chẳng phải những món ăn khoái khẩu là để dành cho các thực khách hay sao? Chẳng phải chất độc vẫn nằm trong các đồ uống ngọt ngào sao? Đừng có tự hành hạ mình nữa mà hãy cùng tôi đến thành phố ấy đi. Có một thành phố nhỏ ở gần đây thôi. Nơi có một vườn hoa uất kim cương. Trong khu vườn xinh đẹp ấy có loài công trắng cùng công ức xanh màu thanh thiên. Khi chúng xòe đuôi dưới nắng trời, quầng đuôi chúng trông giống như những chiếc đĩa bằng ngà và bằng vàng vậy, còn người nuôi nấng chúng thì cứ là nhảy múa tha hồ cho thỏa thích, lúc nàng nâng đôi tay, khi nàng lượn trên cặp chân. Cặp mắt nàng tô antimoan và cánh mũi nàng giống như đôi cánh én, một bên cánh mũi có gắn một bông hoa chạm từ ngọc trai. Nàng nhảy múa trong tiếng cười, và những chiếc vòng bạc đeo nơi cổ chân leng keng như tiếng chuông bạc. Vậy nên đừng tự làm khổ mình làm chi nữa, hãy cùng tôi đi tới thành phố ấy đi.
Nhưng chàng Đánh Cá chẳng trả lời, chỉ một mực ngậm chặt môi dán kín, và với đôi tay trói chặt chàng quay trở về nơi chàng đã ra đi, quay về con vịnh nhỏ, nơi người yêu chàng vẫn thường ca hát. Mặc cho Linh Hồn dụ dỗ thế nào, chàng cũng chỉ lặng im, không làm bất cứ việc ác nào nó mưu toan xúi bẩy. Tình yêu lớn mạnh nhường nào đã ngự trị trong chàng.
Đến gần bờ biển chàng mới nới lỏng sợi dây trói tay mình, rút bỏ tấm băng dán miệng mình, và cất tiếng gọi nàng Tiên Ngư bé nhỏ. Nhưng chẳng thấy nàng hiện lên đáp lại chàng, dù chàng van vỉ, nài gọi suốt một ngày.
Linh Hồn liền chế giễu chàng: “Anh hẳn sẽ chỉ nhận được một chút xíu niềm vui từ người yêu của anh mà thôi. Anh cứ sống chết cố đổ cho đầy một cái bát đã vỡ làm gì. Những gì anh đã từ bỏ rồi, có bao giờ trở lại với anh nữa chứ. Tốt nhất là anh hãy đi với tôi, bởi tôi biết rõ thung lũng khoái lạc nằm ở nơi nào, những trò hấp dẫn là ở những nơi đó đấy.”
“Chàng Đánh Cá không đáp lại Linh Hồn, chỉ một mực dựng cho mình một túp lều tranh dưới một mỏm đá, nương náu ở đó suốt một năm trời. Mỗi sớm mai chàng lại cất tiếng gọi nàng Tiên Ngư, buổi trưa chàng lại gọi nàng một lần nữa và đêm về chàng lại kêu gọi nàng. Nhưng vẫn chẳng thấy nàng ngoi lên từ đáy biển gặp chàng. Dù tìm kiếm khắp các hang động, khắp đáy nước thẳm xanh, khắp các vũng thủy triều, khắp mọi giếng ngòi nơi đáy nước chàng vẫn không gặp được nàng.
Dù Linh Hồn ra sức thì thầm vào tai chàng bao điều khủng khiếp, rủ rê chàng làm bao điều xấu xa, nó vẫn không sao lôi kéo nổi chàng, sức mạnh tình yêu của chàng mới to lớn làm sao.
Một năm trôi qua, Linh Hồn tự nhủ thầm: “Ta đã dụ dỗ hắn hằng hà sa số những điều ác, mà tình yêu của hắn vẫn mạnh hơn ta. Giờ đây ta sẽ dụ hắn bằng những điều tốt, có lẽ hắn sẽ theo ta”.
Thế là nó bảo với chàng Đánh Cá: “Tôi đã kể anh nghe những vui thú ở đời, nhưng anh giả điếc không nghe tôi. Vậy tôi thử nói với anh về những nỗi đau trên thế gian này, có thể anh sẽ lắng nghe chăng. Sự thật là nỗi đau đang bao trùm lên trái đất này, chẳng có một ai thoát khỏi móng vuốt của nó. Người không có quần áo mà mặc, kẻ chẳng có cơm mà ăn. Có những bà góa ngồi trên nhung lụa, cũng lại có những quả phụ rách rưới nghèo đói. Lũ hủi lang thang khắp các vùng đầm lầy và luôn cắn xé lẫn nhau, bao kẻ hành khất vật vờ trên các nẻo đường với cái bị rỗng không. Trên các con phố ở khắp các thành thị, đói kém, bệnh dịch luôn nhòm ngó. Chúng ta hãy cùng tới đó để cứu giúp, để ngăn cản cho chúng đừng xảy ra. Sao anh cứ nấn ná ở nơi đây kêu gọi người yêu khi anh biết thừa cô ta chẳng đáp lời? Tình yêu là cái thứ gì mà anh phải hao tâm tổn lực cho nó đến thế?”
Nhưng chàng Đánh Cá chẳng trả lời, tình yêu của chàng mới lớn lao làm sao. Mỗi sớm mai chàng vẫn cất tiếng gọi nàng Tiên Ngư, đến chưa chàng lại gọi và đêm đêm chàng lại kêu tên nàng. Nhưng cũng chẳng thấy chàng ngoi lên từ biển sâu gặp chàng, chàng chẳng tìm thấy nàng ở nơi nào dưới đáy biển, dù chàng tìm kiếm nàng trong mọi con sông đổ ra bể, trong các khe sâu ẩn mình dưới lớp sông, trong lòng biển tím ngát lúc đêm khuya và ngả màu ghi xám khi bình mình đi qua.
Năm thứ hai trôi qua, một đêm, khi chàng Đánh Cá ngồi một mình trong túp lều tranh, Linh Hồn lại tỉ tê với chàng, “nghe này! Giờ đây tôi đã hết lời dụ dỗ anh, cả việc tốt lẫn điều xấu, nhưng tình yêu của anh vẫn mạnh hơn tôi. Vì vậy tôi sẽ không rủ rê thêm nữa, nhưng tôi cầu xin anh hãy cho tôi vào trong trái tim anh, để tôi được ở bên anh, hệt như ngày xưa”.
“Ngươi cứ việc mà vào”, chàng Đánh Các đáp: “Bởi những ngày lang thang khắp thế gian không mang theo trái tim, ngươi đã phải chịu nhiều đau khổ rồi”.
“Ôi trời! Linh Hồn của chàng kêu lên: “Tôi chẳng thể tìm được lối vào, trái tim của anh bị vây kín vởi tình yêu của anh rồi”.
“Nếu có thể, ta đã giúp ngươi rồi,” chàng Đánh Cá nói.
Chàng vừa dứt lời, một tiếng than buồn bã vọng lên từ đáy biển, giống hệt như tiếng kêu con người đã từng nghe khi một nhân ngư lìa đời. Chàng Đánh Cá nhảy phắt dậy, lao ra khỏi lều tranh, chàng chạy dọc theo bờ biển. Những con sóng đen hối hả lao vào bờ, mang theo một khối nặng trắng hơn cả bạc. Vật đó trắng phau như bọt sóng và bến bờ đón lấy nó vào trong vòng tay mình, và ngay dưới chân mình, chàng Đánh Cá nhìn thấy thi thể của nàng Tiên Ngư bé nhỏ. Nàng nằm chết dưới chân chàng.
Nức nở, mụ mẫm vì đau đớn, chàng nhào xuống bên tấm thi thể, hôn lên cặp môi đỏ lạnh ngắt và gỡ vuốt mái tóc ướt màu hổ phách. Chàng nằm lăn xuống mặt cát, bên tấm thi thể, run rẩy thổn thức như người đang vui, chàng ôm nó lên vòng tay nâu rám, ghì chặt bên ngực mình. Đôi môi đã giá lạnh nhưng chàng vẫn hôn lên. Muối mặn là mật ngọt nơi mái tóc, nhưng chàng vẫn day rứt với niềm vui cay đắng. Chàng hôn lên cặp mi khép chặt vào nhánh cỏ đại vương trên mí mắt ấy không mặn bằng nước mắt của chàng.
Chàng sám hối với tấm thi thể đã chết. Chàng rót vào tai nó thứ rượu chát từ các câu chuyện của chàng. Chàng đặt đôi tay nhỏ nhắn ấy quanh cổ chàng, chạm những ngón tay và cái cổ mảnh dẻ. Niềm vui của chàng mới cay đắng làm sao, nỗi đau của chàng ngập đầy sự sung sướng kì lạ.
Biển đen tiến lại gần hơn, những đám bọt sóng trắng ngần rền rĩ như tiếng than người bệnh. Biển vờn những vuốt bọt trắng vào bến bờ. Từ dưới cung điện của Thủy Vương lại vẳng lên một tiếng thét rền rĩ, và ở rất xa ngoài khơi kia, các thần biển khổng lồ thổi tù và rền rền như ngựa hí.
“Chuồn mau thôi,” Linh Hồn chàng Đánh Cá giục, “biển mỗi ngày một tiến lại gần, nếu anh còn chần chừ nó sẽ giết tươi anh đó. Chuồn ngay thôi, tôi thấy sợ khi biết rằng trái tim anh đóng chặt trước tôi bởi tình yêu của anh quá lớn. Hãy trốn đi tìm nơi ẩn náu. Anh hẳn sẽ không tống tôi ra một thế gian khác mà không có trái tim chứ”.
Nhưng chàng Đánh Cá không nghe Linh Hồn nói, vẫn ngồi bên nàng Tiên Ngư, nói với nàng, “tình yêu quý giá hơn sự thông thái, hơn châu báu, sang giàu, đẹp hơn mọi cặp chân thiếu nữ.”
Lửa không thiêu được, nước không dập nổi. Ta sẽ, gọi nàng khi bình minh lên và nàng nhất định sẽ đến với ta. Mặt trăng kia còn nghe thấy tên nàng, mà nàng vẫn không để mắt đến ta sao. Quỷ ám ta, khi ta bỏ nàng ra đi là để tìm đến nỗi đau của chính mình. Tình yêu của nàng sẽ mãi mãi ở bên ta, nó sẽ mạnh mẽ mãi mãi để không gì chiến thắng nổi, dù ta làm điều hay hay điều giở. Giờ đây nàng đã chết, ta nhất quyết sẽ ra đi cùng nàng”.
Linh Hồn van nài chàng ra đi nhưng chàng không chịu, bởi tình yêu của chàng quá đỗi lớn lao. Biển ngày một tiến lại gần và tìm cách ập sóng xuống đầu chàng. Biết kết cục đã kề gần, chàng Đánh Cá điên cuồng hôn lên cặp môi giá lạnh của nàng Tiên Ngư, trái tim của chàng vỡ tan ra. Bởi tình yêu quá tràn đầy nên trái tim chàng đã vỡ, Linh Hồn tìm được lối vào, nó nhập vào và ở lại đó cùng chàng như những ngày xưa. Vừa lúc biển cả ập sóng cuốn chàng đi.
Sáng hôm sau, ngài Linh Mục bước ra cầu xin biển cả đang nổi sóng vì biển động. Các giáo sĩ, nhạc công, người bê nến, lắc bình hương, cùng một đoàn giáo dân theo sau tháp tùng ngài.
Ra đến bờ biển, ngài Linh Mục nhìn thấy chàng Đánh Cá nằm chết trên đám bọt sóng, trong vòng tay chàng là thi thể của nàng Tiên Ngư bé nhỏ. Ngài lật xác kẻ chết đuối, làm dấu thánh giá, rồi kêu to lên, “ta sẽ không cầu xin biển cả cùng với những thứ gì chứa trong lòng nó. Đáng nguyền rủa thay, đám nhân ngư của biển, đáng nguyền rủa thay, tất cả những kẻ liên quan đến chúng. Với kẻ đã vì tình mà chối bỏ Chúa Trời, và đã nằm chết ở đây cùng với ả tình nhân của hắn, do sự chừng phạt công bằng của Đức Chúa trời kia, hãy xem xác hắn cùng ả tình nhân của hắn mà vùi xuống góc khu nghĩa địa kia và không đặt bia mộ gì hết, để không ai biết đến nơi vùi thây của chúng. Chúng đã bị nguyền rủa khi còn sống, thì cũng sẽ bị nguyền rủa khi đã chết đi rồi”.
Giáo dân làm theo mệnh lệnh của ngài, họ đào trong khu góc nghĩa địa, nơi chẳng mọc nổi lấy một cây cỏ ngọt, một cái hố sâu, rồi vùi hai cái xác xuống đó.
Hết năm thứ ba, vào một ngày lễ thánh, ngài Linh Mục tới một nhà thờ nhỏ. Ngài cần chỉ rõ cho giáo dân thấy những vết đau của Đức Chúa trời và giao giảng cho họ nghe về cơn thịnh nộ của người.
Khoác áo lễ vào, ngài bước lên, quỳ xuống trước ban thờ phủ đầy một loài hoa lạ, chưa từng thấy bao giờ. Chúng đẹp một cách lạ thường. Vẻ đẹp của chúng khiến ngài bứt rứt, hương thơm của chúng ngọt ngào xộc vào mũi ngài khiến ngài cảm thấy ngây ngất một niềm vui mà không hiểu nổi vì đâu mình lại vui.
Ngài mở tủ bánh thánh, vảy hương trầm lên và giơ ổ bánh thánh đẹp đẽ về phía các giáo dân, rồi lại phủ tấm khăn lễ lên. Ngài bắt đầu giao giảng, cố gắng kể với giáo dân về cơn thịnh nộ của Chúa. Nhưng vẻ đẹp của loài hoa trắng nọ không để cho ngài yên, hương thơm của chúng ngọt ngào bay nức mũi ngài và những lời lẽ hoàn toàn khác đã tuôn khỏi miệng ngài. Ngài đã kể không phải về cơn thịnh nộ của Chúa mà về một Đức Chúa có tên là tình yêu. Ngài cũng chẳng biết tại sao mình lại nói như thế.
Khi ngài dứt lời mọi người đều thổn thức. Ngài Linh Mục quay vào làm lễ và mắt ngài đẫm lệ. Các thày trợ tế bước ra, bắt tay vào thay đồ cho ngài. Họ cởi áo dài trắng, tháo thắt lưng, băng hành lễ và khăn choàng cho ngài. Còn ngài cứ đứng như người trong mộng vậy.
Họ thay đồ xong, ngài nhìn họ và bảo, “những bông hoa đặt trên ban thờ kia, chúng ở đâu ra vậy?”
Họ trả lời ngài, “chúng con không biết đó là loài hoa gì, nhưng chúng được hái từ khu góc nghĩa địa đấy ạ”. Ngài Linh Mục run lẩy bẩy, ngài trở về nhà và bắt đầu cầu nguyện.
Sớm hôm sau, khi trời còn chạng vạng, ngài Linh Mục cùng các giáo sĩ, nhạc công, người cầm nến, kẻ lắc bình hương, với đông đảo giáo dân đi ra bờ biển. Ngài cầu Chúa chúc phúc cho biển cả, cho muôn loài cư trú trong lòng biển. Cả loài nhân dương cũng được ngài cầu xin chúc phúc, từ những loài nhỏ bé li ti nhảy nhót trên rừng đến những con bọ mắt sáng lóng lánh thoáng qua những đám lá. Ngài cầu chúc cho mọi sinh linh sống trong bầu trời của Chúa. Ai ai cũng lấy làm kinh ngạc và tràn trề niềm vui. Từ đó, chẳng có loài hoa nào nở trong khu góc nghĩa trang nữa, nơi đó lại trở lại cằn cỗi như xưa. Cũng không còn thấy các nhân ngư bơi vào trong con vịnh, bởi họ đã chuyển đến ở một vùng biển khác mất rồi.