Có lần, từ một thủa xa xưa, hai bác Tiều Phu nghèo đi xuyên qua một cánh rừng thông bạt ngàn trở về nhà. Lúc đó đang là mùa đông và là một đêm giá rét căm căm. Tuyết phủ đầy mặt đất, phủ dày trên các cành cây: Những nhánh cành đóng băng lóe sáng suốt hai bên đường đi. Khi họ đi ngang qua thác nước Mountain, nó đứng im lìm đóng băng trong không trung bởi được phủ những nụ hôn của thần băng giá.
Trời rét thấu xương kiến lũ cầm thú trong rừng không biết lẩn trốn đi đâu.
“U!” Con Sói gầm gừ, quặc đuôi vào giữa hai chân sau nó tập tễnh lê bước qua đám cành cây gãy. “Thời tiết quái quỷ thật. Sao chính phủ không quan tâm đến vấn đề này nhỉ?”
“Tuýt! Tuýt! Tuýt!” Một chú Sẻ Lanh Xanh đùa, “bà đất già vừa từ trần và được liệm trong một tấm vải liệm trắng toát”.
“Bà đất sắp lấy chồng thì có, và đây chính là bộ áo cưới của bà ấy”, một cặp Cu gáy thủ thỉ với nhau, đôi chân son tí xíu của chúng tê cóng, nhưng chúng vẫn thấy bổn phận mình phải có một cách nhìn lãng mạn đối với hoàn cảnh.
“Vớ vẩn!” Con Sói lẩm bẩm: “Ta bảo các ngươi đây hoàn toàn là lỗi tại Chính phủ. Nếu các ngươi không tin, ta sẽ làm thịt các ngươi”.
Đầu óc con Sói lúc nào mà chẳng thực dụng, nó không bao giờ bị rối trí khi cần phải tìm ra một lí lẽ thích đáng.
“Về phần tôi ấy à”, chim Gõ kiến, bẩm sinh đã là một nhà triết học góp lời: “Tôi không quan tâm đến một thuyết nguyên tử cho những lời giải thích. Nếu sự vật là như thế, tức là nó thế, và hiện thời, trời đang rét kinh người lên được.”
Thì đúng là trời đang rét kinh người lên rồi! Những chú Sóc nhỏ trú trong lòng một cây thông cao nhất đang cọ mũi vào nhau cho ấm người lên, còn các chú thỏ thì nằm co quắp trong hang, không giám cả hé mắt nhìn qua kẽ cửa ra ngoài trời. Chỉ có mấy gã cú mèo to đùng là thấy vui thích được thôi. Lông của chúng cứng đơ lại vì sương muối chúng cũng chẳng bận tâm, chỉ mải lúng liếng những con mắt vàng khè và gọi nhau oang oác vang động cả cánh rừng, “Tu- uyt! Tu-hu! Tu-uyt! Tu-hu! Chúng ta được hưởng thời tiết đẹp quá!
Hai bác Tiều Phu vẫn mải miết bước đi, vừa thổi phù phù lên các đầu ngón tay, vừa nện đôi ủng to sù đế đóng cá sắt xuống mặt băng lạnh cứng. Có lúc họ bị thụt xuống một hố tuyết, khi ngoi lên được thì toàn thân trắng xóa như những tay thợ đứng bên cối xay bột; lúc lại bị trượt chân gã nhào trên mặt trơn cứng của nước đầm lầy đóng băng, những bó củi bung ra, họ lại phải thu nhặt rồi bó lại. Có lúc họ cứ ngỡ mình đã đi lạc đường và thấy sợ hãi rụng rời vì họ biết bà Chúa Tuyết tàn ác vô cùng với những ai ngủ lịm đi trong vòng tay của bà. Nhưng họ một lòng tin vào vị phúc thánh Martin, luôn che chở cho các lữ khách, thế là họ liền quay về lối cũ và thận trọng dò từng bước. Cuối cùng họ cũng ra được ngoài bìa rừng và nhìn thấy ở xa xa nơi thung lũng bên dưới họ, ánh sáng của ngôi làng thân quen.
Xiết bao vui mừng vì đã thoát được nạn, họ cười vang và trái đất hiện ra như một đóa hoa bạc, còn mặt trăng tựa như một đóa hoa bằng vàng trong mắt họ.
Cười chán, họ lại thấy buồn, bởi trạnh nhớ tới cảnh nghèo túng ở nhà. Rồi người nọ bảo người kia: “Làm sao bọn mình lại vui vẻ được nhỉ, bởi cuộc sống kia là dành cho những kẻ giàu sang chứ đâu phải cho cánh nghèo chúng mình! Thà mình cứ chết cóng trong rừng, hay lũ thú dữ cứ ăn thịt quách mình đi lại còn hơn.”
“Đúng vậy”, người kia đồng tình, “kẻ thì mâm cao cỗ đầy, người lại chỉ rặt cơm hẩm cháo hoa. Bất công đã cắt vụn cả trái đất này, nhưng có cái gì được phân chia đồng đều đâu, kể cả nỗi đau khổ.”
Trong lúc họ đang than khổ với nhau, một sự kì lạ xảy ra. Một ngôi sao xinh đẹp sáng long lanh sa xuống bên trời. Nó lướt qua các ngôi sao khác trượt xuống chân trời. Họ sững sờ nhìn theo và thấy ngôi sao nọ dường như lặn mất tăm sau một bụi liễu mọc bên bãi nhốt cừu cách chỗ họ chừng một tầm ném đá.
“Này! Ai tìm thấy nó khéo được cả một hũ vàng đấy nhé”, họ reo lên và vùng chạy, những mong kiếm được hũ vàng.
Một người chạy nhanh hơn, vượt lên trước người kia, rồi xông qua bên kia bụi liễu, và kia, đúng là có một vật vàng vàng nằm trên mặt tuyết trắng phau. Bác lao vội đến bên vật nọ, cúi xuống và ấp cả hai tay lên nó, đó là một chiếc áo choàng dệt bằng chỉ vàng, có thêu những ngôi sao rất lạ, được quấn lại thành nhiều lớp. Bác gọi báo với người bạn kia, rằng mình đã tìm thấy vật báu từ trên trời rơi xuống. Khi người bạn chạy đến nơi cả hai ngồi phệt xuống mặt tuyết, lần lượt giở từng lớp quấn của chiếc áo choàng ra, tìm lấy vàng chia nhau. Nhưng than ôi! Vàng bạc chẳng thấy đâu, vật báu cũng không có, chỉ thấy một đứa hài nhi đang nằm ngủ say sưa.
Người nọ bảo người kia: “Một kết cục quá cay đắng cho niềm hi vọng của chúng ta. Làm gì có của báu nào cho chúng ta. Một hài nhi thì đem lại được lợi lộc gì? Thôi thì cứ mặc nó ở đây, đường ta ta về. Cánh nghèo ta cũng đầy con cái ra kia kìa, làm sao nỡ bớt phần cơm của chúng mà nuôi con nhà người”.
Nhưng người kia trả lời: “Ấy chớ, để mặc đứa bé chết trong tuyết lạnh thì nhẫn tâm quá. Tôi cũng cực như bác, cũng có ối miệng ăn phải nuôi, thức ăn cũng chẳng còn là bao, nhưng thôi, tôi cứ mang nó về. Vợ tôi sẽ chăm sóc cho nó”.
Rồi bác nhẹ nhàng bế đứa bé lên, quấn kĩ nó trong chiếc áo choàng để nó khỏi bị cóng, rồi bác đi xuống chân đồi, về phía ngôi làng để mặc người bạn đang sững sờ vì mủi lòng dại dột của bác.
Về đến làng, người bạn bảo với bác: “Bác có đứa trẻ rồi thì phần tôi chiếc áo choàng này nhé, phải chia nhau thế mới hợp lí chứ”.
Nhưng bác trả lời ông bạn kia: “Không được, bởi chiếc áo choàng không phải của tôi, cũng chẳng phải của bác nó là của đứa bé này”. Chúc người bạn may mắn rồi bác đi về phía nhà mình và gõ cửa.
Người vợ mở cửa, thấy bác trở về nguyên lành, bèn ôm choàng lấy bác, hôn bác, gỡ bó củi trên lưng rũ tuyết khỏi ủng bác rồi chúc mừng bác đã trở về.
Bác Tiều Phu mới bảo người vợ: “Tôi tìm thấy cái này trong rừng, đành đem về cho mình lo liệu đây”. Và bác vẫn không rời ngưỡng cửa.
“Cái gì vậy? Người vợ reo lên: “Đưa tôi xem nào, nhà cửa còn rỗng tuềnh rỗng toàng, chúng ta còn cần nhiều đồ lắm”. Bác Tiều Phu lật tấm áo choàng ra cho bác gái thấy đứa bé đang ngủ.
“Ôi trời, ông này tốt ghê!” Bác gái lẩm bẩm: “Chúng mình còn chưa có đủ con hay sao mà mình còn ôm thêm đứa bé tội nợ này về. Ai biết nó có đem tai vạ cho mình không? Với lại, mình làm sao nuôi nổi nó đây?” Bác thấy giận chồng mình quá.
“Nhưng đây là một đứa bé Sao băng”, bác trai nói, và bác kể lại cho vợ nghe chuyện mình đã tìm thấy đứa bé một cách lạ lùng như thế nào.
Nhưng vợ bác vẫn không nguôi giận, vẫn cạnh khóe, tức tối trách móc, thậm chí còn hét om lên: “Con cái mình còn đang không có gì mà cho vào bụng kia, mình lại còn muốn nuôi con nhà người?
Có ai ngó ngàng đến chúng ta không? Có ai cho chúng ta cái ăn không?”
“Đến lũ chim sẻ cũng còn được Chúa để mắt, cho cái ăn đó thôi”. Bác trai biện bạch.
“Lũ sẻ chẳng đói chết lăn vào mùa đông sao?” Vợ bác căn vặn: “Có phải bây giờ đang là mùa đông hay không?” Bác trai chẳng biết ăn nói ra sao, đành cứ đứng trơ ra bên bậu cửa.
Một luồng gió buốt cóng từ cánh rừng thốc qua cánh cửa mở khiến bác gái run lên, bác rùng mình, bảo với chồng: “Sao mình không đóng cửa lại? Gió thổi vào nhà làm tôi chết cóng rồi đây này”.
“Gió bấc vẫn thổi vào những ngôi nhà có trái tim lạnh lùng, phải không nhỉ?” Bác Tiều phu hỏi. Vợ bác chẳng biết đối đáp ra sao, chỉ bẽn lẽn lại gần lò sưởi hơn.
Một lát sau bác gái ngoảnh lại nhìn chồng cặp mắt ướt đẫm. Bác Tiều Phu bước nhanh lại gần vợ, đặt đứa trẻ vào tay bác, bác hôn lên nó rồi đặt nó lên một chiếc giường nhỏ, nơi đứa con út của họ đang nằm. Sáng hôm sau, bác Tiều Phu cầm lấy chiếc áo choàng kì lạ dệt chỉ vàng, cất nó vào chiếc rương lớn, chuỗi hạt hổ phách đeo ở cổ đứa bé, bác gái cũng tháo ra để vào trong rương.
Đứa trẻ Sao băng lớn lên cùng bày con nhà bác Tiều Phu, ăn cùng mâm chơi đùa nghịch ngợm cùng với chúng. Càng ngày nó càng trở nên xinh đẹp, khiến dân làng ai ai cũng ngạc nhiên, bởi lẽ trong khi họ đều da ngăm đen, tóc đen thì một mình nó trắng trẻo, duyên dáng, như tạc bằng ngà voi với những món tóc xoăn giống hệt những tràng hoa thủy tiên. Cặp môi nó tựa đôi cánh hồng nhung, còn cặp mắt thì như hai đóa Violet soi mình bên dòng nước trong veo. Thân hình nó như một cây thủy tiên trên đồng cỏ chưa từng biết đến máy cắt cỏ là gì.
Tuy xinh đẹp nhưng nó lại đến là xấu tính. Càng lớn nó càng kiêu ngạo, tàn nhẫn và ích kỉ. Nó khinh bỉ lũ con nhà bác Tiều Phu cùng tất cả bọn trẻ con trong làng, bảo rằng chúng thân phận thấp hèn, còn nó mới thuộc về một giòng dõi cao sang, bay xuống từ một ngôi sao. Nó tự cho mình là ông chủ, còn gọi tất cả lũ kia là nô lệ. Nó không mảy may thương xót những người nghèo khổ, những kẻ mù lòa, những người tàn tật hay những ai đau yếu; nó chuyên ném đá vào họ, tống họ ra đường, xua họ đến nơi khác mà ăn xin, khiến cho chẳng một kẻ ăn mày nào, ngoài lũ trộm cướp giám mò vào làng lần thứ hai để xin bố thí. Nó quả là một đứa trẻ chỉ biết tôn sùng có mỗi sắc đẹp, nó chế giễu tất cả những ai xấu xí, yếu ớt và thường cười nhạo họ; nó chỉ yêu có bản thân, mùa hè, khi trời lặng gió, nó thường nằm dài bên giếng nước trong vườn nhà ông mục sư, rồi soi mình lên giếng ngắm nghía khuôn mặt mình và ngồi mãn nguyện bởi vẻ xinh đẹp của mình.
Vợ chồng bác Tiều Phu thường trách mắng nó, họ bảo: “Chúng ta chẳng bao giờ đối xử với con như con đã đối xử với những kẻ cầu bơ, chẳng có ai giúp đỡ. Vậy sao con lại nỡ nhẫn tâm với những kẻ cần đến lòng xót thương như vậy?” Vị mục sư già cũng thường gọi nó đến, cố dạy cho nó biết yêu thương các vật sống, bằng cách bảo với nó rằng: “Con ruồi kia cũng là anh em của con. Đừng làm hại nó. Bầy chim rừng bay lượn qua cánh rừng kia cũng có tự do riêng của chúng. Đừng bẫy bắt chúng vì ý thích của con. Chúa tạo ra loài giun mù lòa, rồi loài chuột chũi, mỗi loài đều có một chốn riêng để nương thân. Con là ai mà giám đem đau khổ đến nước của Chúa? Ngay đến gia súc trên đồng cũng còn biết ngợi ca Người”.
Nhưng chú bé Sao Băng để ngoài tai những lời của họ, nó thường phớt lờ, nhăn nhó quay về chỗ lũ bạn bè để tiếp tục làm đầu trò cho chúng. Lũ bạn nghe theo nó bởi nó xinh đẹp, lanh chân, biết nhảy múa, thổi tiêu và chơi nhạc. Chú bé Sao Băng bảo chúng đi đâu thì chúng cũng theo lệnh, cho chúng làm gì chúng làm nấy. Khi nó chọc kim nhọn vào con mắt lờ đờ của con chuột chuỗi, chúng cười; khi nó ném đá vào người hủi, chúng cũng cười nó điều khiển chúng trong mọi thứ và chúng cũng trở nên nhẫn tâm như nó vậy.
Một hôm có một bà ăn mày nghèo khổ đi qua làng. Quần áo bà sờn cũ rách nát, bàn chân bà tươm máu vì những con đường đá lởm chởm bà đã đi qua, trông bà thật là tang thương. Sức đã kiệt, bà liền ngồi xuống một gốc cây để nghỉ lấy hơi.
Khi chú bé Sao Băng nhìn thấy bà, nó bảo với đám bạn bè: “Nhìn kìa, một mụ ăn mày bẩn thỉu mà lại ngồi dưới một cây xanh tươi đẹp. Chúng ta hãy lại đó đuổi cổ mụ đi, bởi mụ thật là xấu xí gớm ghiếc.”
Rồi nó lại gần, ném đá vào bà ăn mày. Bà ta khiếp sợ, nhưng không nhúc nhích, mà vẫn cứ nhìn nó chăm chăm. Bác Tiều Phu, đang xẻ gỗ đến mệt lử, trông thấy hành động của thằng bé, bác liền chạy lại mắng nó: “Mày thật nhẫn tâm, chẳng biết thương xót là gì. Người đàn bà khốn khổ này làm gì mày mà mãy nỡ đối xử với bà ấy như thế hả?”
Thằng bé nổi cáu đỏ mặt tía tai, giậm chân thình thịch và bảo: “Ông là ai mà giám đòi tôi phải làm gì? Tôi không phải là con ông mà phải làm theo lệnh của ông”.
“Mày nói đúng đấy”, bác Tiều Phu nói: “Nhưng tao vẫn thương hại mày khi tìm thấy mày ở trong rừng”.
Nghe thấy những lời ấy người đàn bà thét lên một tiếng và ngất xỉu đi. Bác Tiều Phu liền đưa bà về nhà mình để vợ chăm sóc cho bà. Khi bà tỉnh lại, họ mang thịt và đồ uống ra, bắt bà phải ăn cho lại sức.
Nhưng bà không ăn không uống, chỉ hỏi bác Tiều Phu: “Có phải bác bảo rằng bác tìm thấy đứa bé ở trong rừng đấy không? Và vào cái ngày cách đây mười năm rồi không?”
Bác Tiều Phu trả lời bà: “Đúng đấy, chính là ở trong rừng tôi đã tìm thấy nó?” Bà kêu lên: “Có phải trên cổ nó đeo một chuỗi hạt hổ phách hay không? Một chiếc áo choàng dệt chỉ vàng thêu hình những ngôi sao bọc nó có phải không?”
“Đúng rồi”, bác Tiều Phu khẳng định “đúng y như lời bà nói”. Và bác lấy chiếc áo cùng chuỗi hạt từ trong chiếc rương ra và đưa chúng cho bà.
Nhìn thấy những vật ấy, người đàn bà bật khóc vì sung sướng, bà nói: “Nó chính là đứa con trai bé bỏng tôi đã để lạc trong rừng. Bác hãy mau mau gọi nó giùm tôi với, tôi đã lang thang khắp thế gian này để tìm nó đấy”.
Thế là hai vợ chồng bác Tiều Phu vội ra ngoài gọi chú bé Sao Băng về, họ bảo: “Vào nhà đi con, mẹ đẻ con đang đợi con trong ấy”.
Chú bé chạy vào vô cùng ngạc nhiên và hoan hỉ. Nhưng khi nhìn thấy người ngồi đó, nó cười khẩy và nói: “Sao, mẹ tôi đâu nào? Tôi có thấy ai ngoài mụ ăn mày ghê tởm kia”.
Người đàn bà đáp: “Ta chính là mẹ của con”.
“Mụ điên hay sao mà nói thế”, thằng bé quát lên giận giữ. “Tôi không là con cái gì của mụ, bởi mụ là một mụ ăn mày, lại còn xấu xí, lại còn rách rưới. Hãy cút khỏi đây ngay, đừng bao giờ để tôi còn phải trông lại bộ mặt bẩn thỉu của mụ nữa nhé.”
“Không, con đúng là đứa con trai bé bỏng ta đã mang qua rừng”, bà ăn mày kêu lên, bà quỳ xuống, chìa hai tay về phía nó, “bọn cướp đã bắt con và muốn bỏ chết con”, bà lẩm bẩm, “nhưng ta đã nhận ngay ra con khi vừa thấy con, và ta nhận ra cả những đồ vật, chiếc áo chỉ vàng với chuỗi hạt hổ phách. Con ơi, xin con hãy lại đây với ta. Ta đã đi khắp thế gian này tìm con, ta cần đến tình yêu thương của con biết nhường nào”.
Nhưng thằng bé chẳng nhúc nhích, nó đã đóng sập cửa lòng trước mặt người mẹ, chẳng nghe thấy gì trong tiếng nức nở đau đớn của bà.
Cuối cùng nó bảo với bà, giọng lạnh lùng và cay đắng: “Nếu quả bà là mẹ tôi đi chẳng nữa, thì tốt hơn hết lẽ ra bà đừng đến đây làm tôi phải xấu hổ, bởi tôi cứ nghĩ mình là con của một vì tinh tú, chứ không phải là con của một mụ ăn mày như bà vừa bảo với tôi. Vậy nên bà hãy đi ngay khỏi đây đi, đừng để tôi phải nhìn thấy bà lần nữa”.
“Chao ôi! Con trai của ta”, bà kêu lên: “Con không hôn mẹ trước khi mẹ ra đi sao? Mẹ đã phải chịu bao cay đắng trên đường tìm con”.
“Không”, thằng bé nói: “Nhìn bà đến là gớm ghiếc, thà tôi hôn con rắn lục hay là con cóc còn hơn là hôn bà”.
Thế là người đàn bà đứng lên, nức nở cay đắng, bà đi về phía cánh rừng. Thấy bà đi rồi thằng bé Sao Băng mừng rơn, chạy ngay trở lại chơi tiếp với lũ bạn bè.
Nhưng vừa thấy nó lại gần lũ bạn đã cười giễu nó: “Nhìn kìa, trông mày gớm ghiếc như một con cóc, đáng tởm như một con rắn. Hãy cút khỏi đây ngay, chúng tao không thèm chơi với loại mày”, và chúng đuổi thằng bé khỏi khu vườn.
Thằng bé ỉu xìu tự nhủ: “Chúng nói gì với ta vậy? Thôi ta ra giếng nước soi mình nó sẽ cho ta hay ta đẹp đến nhường nào”.
Rồi nó đi đến giếng nước, soi mình xuống đó, và kìa! Mặt nó giống hệt mặt cóc, còn người nó mọc đầy vẩy như một con rắn lục. Nó gieo mình xuống cỏ và khóc nức nở, lòng tự nhủ: “Điều này xảy đến với ta hẳn là do tội lỗi của ta đây, bởi ta đã chối bỏ mẹ, đuổi mẹ đi, đã kiêu căng tàn nhẫn với mẹ đấy mà. Ta sẽ đi tìm mẹ, dù phải lang thang khắp thế gian này, sẽ không dừng chân nếu chưa tìm thấy mẹ ta”.
Đứa con gái nhỏ của bác Tiều Phu đến bên chú bé, đặt tay lên vai chú bảo: “Anh không còn đẹp nữa cũng chẳng sao. Hãy ở lại đây với cả nhà, em sẽ không cười anh đâu.”
Nhưng chú bé nói với cô bé: “Không được đâu, anh đã nhẫn tâm với mẹ đẻ ra mình, vẻ gớm ghiếc này chính là sự trừng phạt giáng xuống anh đấy. Anh phải đi đây, đi khắp thế gian tìm mẹ, xin mẹ tha thứ cho anh”.
Rồi chú chạy vội vào rừng, kêu gọi mẹ đến với chú, nhưng không hề có tiếng đáp lại. Chú gọi mẹ suốt một ngày, đến khi mặt trời lặn, chú nằm ngủ ngay trên lớp lá rừng. Lũ chim chóc cùng thú rừng chạy chốn trú bởi chúng nhớ đến tính hung tợn của chú. Chú nằm trơ một mình, chỉ có lũ cóc trố mắt nhìn chú với lũ rắn lục bò ngang qua.
Sáng sớm chú thức dậy và hái dăm trái dâu rừng đắng chát cầm hơi, rồi chú đi xuyên qua một cánh rừng rộng mênh mông, vừa khóc sụt sùi. Gặp vật gì chú cũng hỏi xem tình cờ có gặp mẹ chú hay không.
Chú bảo với con Chuột Chũi: “Mi chui được xuống lòng đất. Hãy cho ta biết mẹ ta có ở đó không?”
Chuột chũi đáp lời chú: “Cậu chọc mù mắt tôi rồi, làm sao tôi nhìn thấy được gì?”
Chú lại hỏi Sẻ Lanh: “Mi có thể bay tít ở trên ngọn cây cao kia và nhìn thấy cả thế gian. Hãy nói ta hay, mi có nhìn thấy mẹ ta không?”
Con sẻ lanh trả lời chú: “Cậu đã xén cụt cánh tôi cho bõ thích. Làm sao tôi còn bay được nữa?”
Chú hỏi cả con Sóc nhỏ xíu sống côi cút ở trên cây thông: “Mẹ của ta đâu?”
Con Sóc bảo: “Cậu đã giết mẹ tôi rồi. Có phải cậu cũng muốn giết cả mẹ mình nữa không?”
Chú bé Sao Băng khóc nức nở, cúi gục đầu, chú cầu xin các sinh linh của Chúa tha thứ cho chú, rồi chú lại đi tiếp, xuyên qua cánh rừng tìm kiếm người đàn bà ăn xin đó. Đến ngày thứ ba chú đã qua được bìa rừng bên kia, đi xuống một vùng đồng bằng.
Khi chú đi qua các làng, lũ trẻ con cười nhạo chú, ném đá vào chú, những chủ nhà thô thiển thậm chí còn không muốn cho chú ngủ nhờ trong chuồng bò vì sợ chú làm mốc số ngũ cốc dữ trữ của họ. Nhìn chú mới xấu xí làm sao, đến những người làm mướn của họ cũng đuổi chú quầy quậy, chẳng có lấy một ai tỏ ý xót thương chú. Chú chẳng biết được gì về bà ăn mày mẹ chú, mặc dù suốt ba năm trời đằng đẵng lăng thang khắp thiên hạ, chú tưởng như luôn nhìn thấy bà trên đường, ngay trước mặt mình, rồi chú gọi bà, chạy đuổi theo bà cho đến khi những viên đá lởm chởm nóng rẫy đâm chân chú đến tứa máu. Nhưng chú không sao đuổi kịp bà. Dân sống hai bên đường một mực rằng chẳng nhìn thấy bà hoặc gặp ai đó giông giống bà, họ lại cười cợt nỗi đau của chú.
Suốt ba năm trời chú lang thang trong dương gian, nhưng chẳng ở đâu có một chút tình thương hay một cái gì na ná như thế, chẳng hề có một nhân gian đối xử với chú giống như ngày xưa chú đã kiêu căng, hợm hĩnh đối xử với mọi người.
Một chiều, chú đến chân cổng một kinh thành có tường bao vững chắc, nằm bên một con sông. Dù đã kiệt, chân đau rát, chú vẫn gắng lê vào trong thành. Nhưng những gã lính gác hạ thương chắn lối, cộc cằn cất tiếng hỏi chú: “Ngươi vào thành làm gì?”
“Tôi đi tìm mẹ tôi”, chú trả lời,:“Cầu xin các ông cho tôi đi qua, có khi mẹ tôi đang ở trong thành đó”.
Nhưng họ chế nạo chú. Một gã trong bọn chúng vuốt bộ râu đen sì, hạ tấm khiên xuống và quát: “Nói thật chứ mẹ mi chả sướng gì nếu thấy mi, vì mi còn xấu xí hơn một con cóc, gớm ghiếc hơn cả một con rắn bò trong khu đầm lầy. Cút đi, cút đi. Mẹ mi không có ở trong thành này”.
Một gã lính khác, tay cầm một cây cờ vàng, bảo với chú, “mẹ mi là ai? Làm sao mi lại đi tìm bà ta?”
Chú đáp: “Mẹ tôi cũng là ăn mày như tôi, tôi đã rất hỗn với bà, cầu xin các ông cho tôi qua, vì nếu bà đang ở đây, may ra bà sẽ rủ lòng mà sá tội cho tôi chăng.”
Nhưng họ không chịu, lại còn chọc mũi giáo vào người chú.
Khi chú sụt sùi khóc và bỏ đi thì một người tiến lại. Người này mặc áo giáp có dát những bông hoa bằng vàng, trên mũ sắt có gắn một hình sư tử có cánh. Ông ta hỏi những gã lính, ai vừa xin qua cổng thành. Họ thưa lại với ông, “đó là một thằng nhóc ăn xin, con của một mụ ăn xin. Chúng tôi đã đuổi cổ nó đi rồi.”
“Ấy đừng”, ông ta cười và quát lên: “Chúng ta sẽ bán đồ xấu xí ấy làm nô lệ, với giá một cốc rượu vang ngọt”.
Vừa lúc có một lão già mặt mũi gớm ghiếc đi ngang qua. Lão nói: “Tôi sẽ mua thằng nhóc với giá ấy”, trả tiền xong, lão nắm tay lấy chú bé Sao Băng và dẫn chú vào kinh thành.
Sau khi đi qua rất nhiều dãy phố, họ đến trước một cánh cửa nhỏ trổ vào bức tường nằm dưới tán một cây lựu. Lão già chạm chiếc nhẫn ngọc thạch vào cánh cửa, nó lập tức mở ra, họ bước năm bậc thang đồng xuống một khu vườn mọc đầy những cây thuốc phiện đen và có những chiếc hũ sành màu xanh. Lão già rút một chiếc khăn lụa thêu hoa văn giắt trong vành khăn xếp của lão ra, bịt mắt chú bé và đẩy chú bé về phía trước lão. Khi chiếc khăn bịt mắt được tháo ra, chú thấy mình đang đứng trong một hầm ngục được chiếu sáng bởi một chiếc đèn lồng bằng sừng.
Lão ta đặt trước mặt chú bé Sao Băng một ít bánh đã mốc, đựng trong một chiếc bát gỗ và bảo: “Ăn đi”, và một cốc nước mằn mặn và bảo: “Uống đi”. Khi chú bé ăn uống xong, lão già đi ra và đóng cửa lại còn khoác thêm một sợi xích sắt cho chắc. Lão già chính hiệu là một Thày pháp cao tay của xứ Libi, đã từng theo học pháp thuật của các Thày pháp trú ngụ trong các khu hầm ở vùng sông Nin. Ngày hôm sau, lão vào chỗ chú bé Sao Băng, cau cau nhìn chú và bảo: “Trong khu rừng mé bên trái cổng thành của cái kinh thành dị giáo này có ba đồng tiền vàng. Một đồng trắng, một đồng vàng, một đồng đỏ. Hôm nay ngươi hãy lấy về cho ta đồng trắng, nếu ngươi không đem được nó về, ta sẽ quất cho ngươi một trăm roi. Biến nhanh đi, đúng lúc mặt trời lặn ta sẽ chờ ngươi bên cửa vườn. Nhớ mà đem đồng vàng trắng về, không ngươi sẽ ốm đòn đấy, vì ngươi là nộ lệ của ta, ta đã mua ngươi với giá một cốc vang ngọt”. Lão bịt mắt chú bé bằng chiếc khăn lụa có hoa văn và dẫn chú đi xuyên qua ngôi nhà, qua vườn thuốc phiện, leo lên năm bậc thang bằng đồng, dùng chiếc nhẫn mở cánh cửa nhỏ rồi đẩy chú bé ra ngoài đường.
Thế là chú bé Sao Băng đi ra cổng thành, đến khu rừng lão thày pháp đã dặn chú.
Lúc này, nhìn từ ngoài khu rừng có vẻ rất đẹp, tràn ngập tiếng chim với các loài hoa tỏa hương ngào ngạt khiến chú bé Sao Băng vui vẻ mà bước vào. Nhưng hóa ra, khu vườn không hề có một chút thiện nào, vì bước chân vào đâu chú cũng bị đám hồng dại lởm chởm cùng những bụi gai chĩa lên tua tủa từ mặt đất vây bọc, lũ tầm ma độc ác thì châm chích, ả kế gai thì đâm nhoi nhỏ khiến chú vô cùng đau đớn và buồn tủi. Chú chẳng tìm đâu cho ra đồng vàng trắng mà lão thầy pháp đã dặn, dù chúng lùng kiếm nó suốt từ trưa đến chiều tối. Hoàng hôn buông, chú đành sụt sùi quay trở về, vì chú biết điều gì đang chờ chú ở nơi đó.
Nhưng khi vừa ra tới bìa rừng, chú bỗng nghe thấy tiếng kêu đau đớn của ai đó phát ra, từ một bụi cây nhỏ rậm rạp. Tạm quên nỗi khốn đốn của mình, chú chạy lại chỗ bụi cây và nhìn thấy một chú Thỏ non đang bị sập trong bẫy của thợ săn.
Chú bé Sao Băng mủi lòng, gỡ Thỏ con ra khỏi bẫy, và bảo với nó: “Ta chỉ là một tên nô lệ nhưng ta vẫn có thể trả lại được tự do cho em.”
Thỏ con đáp rằng: “Đúng là anh đã trả tự do cho em, để đền đáp, em sẽ làm gì được cho anh đây?”
Chú bé Sao Băng bảo nó: “Ta đang tìm một đồng vàng trắng mà không thấy. Nếu ta không tìm được nó, ông chủ của ta sẽ đánh ta”.
“Hãy đi theo em” Thỏ con bảo: “Em sẽ dẫn anh đến chỗ đồng tiền vì em biết nó được giấu ở chỗ nào và vì mục đích gì”.
Thế là chú bé Sao Băng đi theo Thỏ con và kìa! Trong kẽ nứt của cây sồi đại thụ, chú nhìn thấy đồng vàng trắng chú đang tìm. Mừng quá, chú chộp lấy đồng vàng và bảo với Thỏ con, “một việc ta làm cho em, em đã đền đáp lại hơn rất nhiều nhiều lần, tấm lòng tốt của ta đối với em, em cũng đã đền đáp lại gấp trăm lần.”
“Không đâu”, Thỏ con trả lời: “Anh đối với em thế nào, em cũng đối lại như thế ấy mà thôi”, rồi nó phóng vụt đi, còn chú bé Sao Băng thì đi vào trong thành.
Lúc này ngồi bên cổng thành là một người hủi. Mặt y đeo một chiếc mũ trùm vải lanh xám, qua lỗ khoét ở mũ, hai con mắt y lóe rực như hai hòn than hồng. Trông thấy chú bé Sao Băng đi tới, y đạp chân lên chiếc bát gỗ, rung chuông leng keng gọi chú và bảo: “Hãy bố thí cho tôi một xu, không tôi đến chết đói mất. Người ta xua đuổi tôi khỏi kinh thành, chả ai đoái thương tôi cả.”
“Hỡi ơi! Chú bé Sao Băng kêu lên: “Tôi chỉ có một đồng tiền trong túi. Nếu tôi không đem được nó về cho ông chủ tôi, ông ấy sẽ đánh đập tôi, vì tôi là nô lệ của ông ấy”.
Nhưng người hủi cứ nằn nì cầu xin, khiến chú mủi lòng mà đem cho y đồng vàng trắng nọ.
Khi chú bé về tới chỗ lão Thày pháp, lão mở cửa, lôi chú vào trong nhà và hỏi: “Ngươi có lấy được đồng vàng trắng không đấy?” Chú bé Sao Băng liền trả lời: “Cháu không tìm thấy thế là lão lao đến đánh đập chú, rồi đặt trước mặt chú một chiếc mâm gỗ trống trơn và bảo “ăn đi”, đặt một chiếc cốc rỗng và bảo “uống đi” xong rồi lão quẳng chú vào lại hầm ngục.
Ngày hôm sau, lão Thày pháp vào chỗ chú bé Sao Băng và bảo: “Nếu hôm nay ngươi không mang được về cho ta đồng tiền vàng, ta nhất định sẽ giữ ngươi lại làm nô lệ và nện cho ngươi ba trăm roi”.
Thế là chú bé Sao Băng đi vào trong rừng. Suốt ngày chú tìm kiếm đồng tiền vàng mà chẳng thấy nó ở đâu hết. Mặt trời lặn, chú ngồi xuống và cất tiếng than khóc. Vừa lúc ấy, Thỏ con được chú gỡ khỏi bẫy chạy lại chỗ chú.
Thỏ con hỏi: “Tại sao anh khóc? Anh tìm gì ở trong rừng này?”
Chú bé Sao Băng bèn đáp: “Ta tìm đồng tiền vàng giấu ở quanh đây, nếu ta không tìm được nó, ông chủ sẽ đánh đập và giữ ta làm nô lệ”.
“Đi theo em”, Thỏ con kêu to, nó phóng qua khu rừng đến bên một vũng nước.
Và dưới đáy vũng, đồng vàng nọ đang nằm.
“Ta biết cảm ơn em thế nào đây?” Chú bé Sao băng nói, “vì đây là lần thứ hai em đã giúp đỡ ta”.
“Không đâu, anh mới là người tỏ lòng thương em trước nhất”, Thỏ con đáp rồi nhanh nhẹn phóng đi.
Chú bé Sao Băng nhặt lấy đồng vàng, cất vào túi rồi vội vã trở về hướng kinh thành. Nhưng người hủi đã nhìn thấy chú đi tới. Y chạy lại đón gặp chú, quỳ xuống và kêu to: “Hãy cho tôi một đồng, không tôi đến chết đói mất”.
Chú bé Sao Băng bảo y: “Tôi chỉ có một đồng vàng trong túi, nếu tôi không đem nó về cho ông chủ tôi, ông ta sẽ đánh tôi và giữ tôi làm nô lệ”.
Nhưng người hủi cứ một mực cầu xin lòng xót thương khiến chú bé động lòng mà đem cho y đồng vàng.
Khi chú bé về tới chỗ lão Thầy pháp, lão mở cửa, kéo chú vào trong và hỏi: “Ngươi có lấy được đồng vàng không đấy?” Chú bé liền đáp: “Cháu không lấy được”. Thế là lão ta lao vào chú đánh đập, rồi lão xích lại, tống chú trở xuống hầm ngục.
Ngày hôm sau, lão đến chỗ chú bé và bảo: “Nếu hôm nay ngươi mang được đồng vàng đỏ về cho ta, ta sẽ cho ngươi được tự do, còn nếu không, nhất định ta sẽ giết ngươi.”
Chú bé Sao Băng lại đi vào rừng. Suốt cả ngày chú tìm kiếm đồng vàng đỏ nhưng chẳng thấy tăm hơi nó ở đâu. Đến chiều tối, chú ngồi phệt xuống đất mà than khóc, chú đang sụt sùi thì Thỏ con chạy tới.
Và Thỏ con bảo với chú, “đồng vàng đỏ anh đang tìm nằm trong cái hang ở ngay sau anh ấy. Đừng khóc lóc nữa mà hãy vui lên đi nhé”.
“Ta phải đền ơn em sao cho xứng đây?” Chú bé Sao Băng kêu lên: “Bởi đây là lần thứ ba em đã cứu giúp ta”.
“Không đâu, anh mới là người tỏ lòng thương em trước nhất”. Thỏ con nói rồi nhanh nhẹn lao đi.
Chú bé Sao băng đi vào trong hang và ở góc xa nhất chú tìm thấy đồng vàng đỏ. Chú cất nó vào túi rồi vội vã trở vào thành. Người hủi nhìn thấy chú đi tới liền đứng ra giữa đường, kêu to lên với chú: “Hãy cho tôi đồng tiền đỏ đi, không có tôi đến chết mất”, và chú bé Sao Băng lại rủ lòng thương mà đem cho y đồng vàng đỏ, chú nói: “Ông cần nó hơn tôi nhiều”, dù lòng chú đang trĩu nặng bởi chú biết một số phận ác nghiệt đang chờ đợi mình.
Nhưng kìa! Khi chú qua cổng thành, toán lính cúi rạp người tuân phục, tâu với chú: “Chúa thượng của chúng ta mới anh tuấn làm sao!” Một đám đông dân chúng trong thành đi theo chú, reo vang, “trên khắp thế gian thật không ai anh tuấn cho bằng!” Thấy vậy chú bé Sao Băng khóc nức lên tự nhủ thầm, “họ đang giễu mình, đang khơi lại điều bất hạnh của mình đấy thôi”. Dân tình chen chúc đông quá, chú bé bị lạc đường. Cuối cùng chú thấy mình đang đứng trên một quảng trường lớn, nơi ngự trị cung điện của nhà Vua.
Cánh cổng cung điện bật mở, các giáo sĩ cùng võ quan trong triều chạy tới nghênh đón chú. Họ cúi rạp xuống và tâu: “Ngài chính là đức Chúa thượng chúng thần đang chờ đón, và là con trai của đức Vua chúng thần”.
Chú bé Sao băng trả lời họ: “Tôi không phải là con trai đức Vua tôi là con một bà ăn mày nghèo khổ”. Tại sao các ông lại bảo tôi là xinh đẹp vì tôi biết mình xấu xí đến thế nào?”
Khi ấy, người đàn ông mặc áo giáp sắt giát những bông hoa bằng vàng, đội mũ sắt gắn hình sư tử có cánh, giơ cao chiếc khiên, kêu to: “Cớ sao Chúa Thượng của chúng ta có thể nói ngài đẹp vậy nhỉ?”
Chú bé Sao Băng nhìn vào chiếc khiên, và lạ chưa kìa! Gương mặt chú đã trở lại như xưa, vẻ đẹp dễ thương đã trở về với chú và chú thấy trong mắt mình một ánh nhìn chú chưa từng có bao giờ.
Các giáo sĩ cùng võ quan quỳ xuống tâu trình: “Có lời tiên tri rằng đúng ngày hôm nay, người trị vì chúng thần tới. Vì vậy, cúi mong đức Chúa thượng của chúng thần hãy nhận lấy vương miện này, quyền trượng này và hãy là vị vua nhân từ và anh minh của chúng thần.”
Nhưng chú bé bảo với họ, “tôi không xứng đáng, bởi tôi đã chối bỏ người mẹ trông cậy ở nơi tôi. Tôi không thể dừng chân nếu chưa tìm thấy mẹ để được mẹ tha thứ. Vậy hãy để tôi đi, vì tôi còn phải đi khắp thiên hạ. Tôi không thể nấn ná ở lại chốn này dù các ông có trao cho tôi vương miện vùng quyền trượng.” Vừa nói chú vừa quay đi, hướng tới con đường dẫn ra cổng thành, và kìa. Giữa đám đông đang vây lấy toán binh lính, chú nhìn thấy bà ăn mày, mẹ của chú và đứng cạnh bà là người hủi đã từng ngồi bên vệ đường.
Chú bật kêu lên vui sướng và chạy ào tới, quỳ xuống và hôn lên những vết thương trên bàn chân của mẹ chú, tưới đẫm lên đôi bàn chân ấy nước mắt của mình. Chú gục đầu xuống đất bụi, khóc nức nở, trái tim như muốn vỡ tung. Chú nói với người mẹ: “Mẹ ơi, con chối bỏ mẹ trong lúc kiêu căng, hợm hĩnh. Mẹ hãy nhận con khi con đã học được cách khiêm nhường. Mẹ ơi, con đã hận ghét mẹ. Xin mẹ hãy ban tình yêu thương cho con. Mẹ ơi, con đã từ chối mẹ. Giờ xin mẹ hãy đưa con của mẹ đi, mẹ nhé”. Nhưng bà ăn mày không đáp lại một lời.
Chú liền vươn tay ôm lấy đôi chân trắng bệch của người hủi, nói với ông ta. “Ba lần cháu đã tỏ lòng thương bác, giờ đây xin bác bảo mẹ cháu hãy nói với cháu chỉ một lần đi”. Nhưng người hủi chẳng đáp lại một lời.
Chú lại khóc nức nở và bảo: “Mẹ ơi, nỗi giày vò lớn vượt sức chịu đựng của con. Hãy ban cho con lòng tha thứ rồi cho con quay trở vào rừng”. Bà ăn mày lúc này mới đặt tay lên đầu chú và bảo, “hãy đứng lên”.
Chú liền đứng dậy và ngước mắt nhìn họ, và nhìn kìa! Họ chính là Đức Vua và Hoàng Hậu.
Hoàng Hậu bảo với chú: “Đây là cha con, người được nước mắt con rửa sạch đôi chân”.
Và họ ôm choàng lấy chú, hôn chú rồi đưa chú về cung. Rồi họ khoác long bào uy nghi cho chú, đội lên đầu chú vương miện và đặt quyền trượng vào tay chú. Chú trở thành Đức Vua và bắt đầu trị vị thành phố bên sông này. Chú tỏ ra rất mực nhân từ và anh minh đối với các thần dân. Chú đuổi lão Thày pháp độc ác khỏi kinh thành, gửi rất nhiều quà tặng quý giá biếu vợ chồng bác Tiều Phu, phong quyền tước cao sang cho con cái họ. Chú không cho phép bất cứ ai đối xử tàn nhẫn với các loài muông thú, lại còn dạy họ sống yêu thương, nhân hậu và từ tâm. Chú ban cơm ăn cho người nghèo, áo mặc cho kẻ rách rưới và giữ cho bờ cõi luôn được thái bình, thịnh vượng.
Những năm tháng trị vì của chú không được dài lâu. Bởi nỗi dày vò của chú quá đỗi lớn lao, ngọn lửa thử thách sức chịu đựng của chú quá ư mãnh liệt, ba năm sau thì chú qua đời. Người nối ngôi chú trị vì là một kẻ ác độc.