Chúng ta thường chính là kẻ thù tồi tệ nhất của bản thân mình khi ngu ngốc dựng lên những trở ngại khó khăn trên con đường dẫn đến thành công và hạnh phúc.
LOUIS BINSTOCK
Giúp bạn “biết ta” thêm một chút chính là mục đích chủ yếu của học kỳ đầu tiên này. Đó luôn luôn là một điều khó truyền bá vì rủi thay, chúng ta hầu hết không thể biến khả năng thành lợi thế. Chúng ta khi thì quá đề cao, khi lại quá xem thường chúng; chúng ta trở nên tự mãn, chúng ta để chúng suy tàn. Chúng ta đôi khi còn không nhận ra là chúng có tồn tại.
Có những người mơ về những nghề nghiệp hấp dẫn đến lạ thường như diễn viên, ca sĩ, họa sĩ, nhà văn và cảm thấy chỉ cần kiên trì là đủ, họ không bao giờ có thể cam chịu nổi việc mình không phải là thiên tài – hay thậm chí chỉ là có tài thôi; họ không bao giờ chấp nhận rằng thành công đích thực dành cho họ có thể ở những lĩnh vực khác.
John Keats, nhà thơ người Anh, từng viết: “Thất bại, theo nghĩa nào đó, là con đường dẫn đến thành công, bởi vì mỗi lần khám phá ra điều gì sai thì sẽ dẫn ta đến việc nghiêm túc tìm kiếm những điều đúng, và mọi kinh nghiệm mới mẻ đều chỉ ra một hình thức lỗi lầm nào đó mà sau rồi chúng ta sẽ cẩn thận tránh được”.
Đáng tiếc là Keats không mô tả cách hầu hết chúng ta đương đầu với nghịch cảnh. Không phải ai cũng học được từ những thất bại, cũng như nhanh chóng tiếp nhận những lỗi lầm đã mắc để không lặp lại chúng nữa. Muốn thực hiện những chuyện này một cách hiệu quả, chúng ta cần chỉ dẫn.
Từ quyển sách được tôn vinh khắp nơi, Đường dẫn đến cuộc sống thành công (The Road to Successful Living), giáo sĩ Do Thái quá cố được kính trọng Louis Binstock, từ thánh đường Shalom danh tiếng ở Chicago sẽ giới thiệu cho bạn những trở ngại chính mà có thể bạn đã vô ý dựng nên trong đời mình, những lỗi lầm bạn có thể gây ra, hết lần này đến lần khác, khiến bạn đau khổ mỗi ngày. Sau khi tự kiểm khảo bản thân, bạn sẽ sẵn sàng hơn để bước vào Học kỳ hai.
Những nguyên nhân gây thất bại rất rộng và khó hiểu: nền văn hóa mà chúng ta sống trong đó, những định nghĩa của chúng ta về hai từ thành công và thất bại, sự hình thành tâm lý cá nhân của chúng ta. Nhưng thường thì thất bại và cách tiếp cận thất bại lại phổ biến hơn và có hình thái rõ ràng. Không phải ai cũng là học giả, không phải ai cũng là thánh thần; chúng ta không phải là các nhà phân tâm học: chúng ta phải đối mặt với thế giới như cách nó trình diện với chúng ta.
Xét đến những tương tác hằng ngày, có mười nguyên nhân phổ biến dẫn đến thất bại. Mười nguyên nhân này là cơ bản. Biết về chúng, chinh phục chúng – dù chỉ một số – bạn sẽ loại bỏ những trở ngại trên con đường dẫn đến thành công đích thực. Không ai có thể làm thay bạn. Bạn phải tự dọn đường cho mình. Người khác có thể giúp, nhưng sự nghiệp này thực sự là của một mình bạn.
Trở ngại thứ nhất là chiêu trò xưa cũ đổ lỗi cho người khác. Nó không giống như việc lo ngại người khác nghĩ gì (hay có gì, làm gì). Đó là việc thực sự gắn chặt trách nhiệm vào ai khác. (Một bác sĩ đã dành hai mươi năm chữa bệnh ở châu Phi cho biết điểm khác nhau giữa thầy mo và bác sĩ là khi một người bị bệnh, thầy mo khiến người đó hỏi: “Ai đã làm tôi bị thế này?”, trong khi bác sĩ thì khiến anh ta đặt câu hỏi: “Điều gì làm tôi bị thế này?”). Thật thô sơ và ấu trĩ khi cứ tìm nguyên nhân gây ra sợ hãi và thất bại ở bên ngoài bản thân. Hầu hết những đầu óc thô sơ luôn tìm kiếm một “ai”, nếu có nghi ngờ một “cái gì” thì họ cũng tin rằng nó có sự sống, có “ai” ở trong nó. Chúng ta đôi khi tin tưởng rằng thành hay bại là chuyện may rủi, như thể vận số là do thánh thần can thiệp vào chuyện của người phàm. Hiếm khi những trí óc thô sơ lại tự tìm trong chính bản thân mình và đặt câu hỏi: “Điều gì trong tôi chịu trách nhiệm cho chuyện này?”. Trí óc càng tinh vi, càng học cao và văn minh, thì sẽ biết hỏi rằng: “Điều gì trong tôi khiến tôi nghĩ (hay không nghĩ) như vậy, cảm thấy (hay không cảm thấy) như vậy, làm (hay không làm) hành động như vậy?”.
Nhưng ngay cả bây giờ cũng hiếm có người sẵn sàng thừa nhận ngay rằng: “Có thể lỗi do tôi”. Hầu hết chúng ta lúc đầu cứ phản ứng theo kiểu thô sơ hay ấu trĩ với bất kỳ tình huống nào liên quan đến sai hỏng hay thất bại. Hầu hết trẻ con đều có bản năng đổ lỗi cho anh chị em chúng: “Anh ấy bảo con làm vậy” hay thậm chí: “Anh ấy làm đó” là phản ứng phổ biến khi hình phạt đang treo lơ lửng. Một học sinh có thể đổ lỗi cho giáo viên về sự bất tài của mình trong việc học hay hạnh kiểm (“Cô ấy luôn nhắm vào con”); tay đua mô tô luôn khẳng định: “Đó là lỗi của gã kia”; một ông chồng luôn la mắng vợ: “Sao em lúc nào cũng sinh sự vậy?”; nhân viên thì một mực nói: “Công ty không tôn trọng tôi”. Lời than thở gây hoang mang nhất của nhân loại luôn là: “Ai đã gây ra cơ sự này cho tôi?”.
Thói đổ lỗi cho người khác không chỉ giải thích cho có lẽ đến một nửa thất bại của chúng ta, mà còn lý giải cho thất bại trong việc học hỏi từ những thất bại đó nữa. Chúng ta không nhận ra thất bại là gì, và do đó không xử trí được nó. Thay vì vậy chúng ta tạo ra một bù nhìn rơm, vật nó xuống đôi lần, và lãng phí ngày này tháng nọ trong một cuộc chiến không thể thắng. Cuộc chiến mà lẽ ra chúng ta phải đấu tranh là với bản thân ta; cuộc chiến đó, nếu can đảm đương đầu thì chúng ta không thể nào thua cuộc.
Trở ngại thứ hai trái hẳn với điều thứ nhất: khuynh hướng sẵn sàng đổ lỗi cho bản thân, nhận lỗi về mình bất chấp nguyên do. Sao tôi lại ngốc như vậy? Sao tôi lại ngờ nghệch thế này? Sao mình lại chen vào việc đó? Sao mà mình cứ luôn lỡ lời? Sao mình cứ nói điều sai trái? Mình đúng là một đứa lơ mơ!
Chúng ta thực sự không tin rằng chúng ta là những kẻ ngốc hay ngờ nghệch. Đây là cách dễ dàng và nhanh chóng để xua đi một thất bại mà có thể phải suy nghĩ sâu xa và đòi hỏi cân nhắc nhiều hơn những gì chúng ta sẵn lòng thừa nhận với bản thân.
Thay vì vật lộn với vấn đề đằng sau thất bại đó và cố gắng tìm cách giải quyết – để ngăn nó tái diễn – thì chúng ta lại đổ lỗi cho chính mình (như thể chúng ta sinh ra đã là những kẻ thất bại!) và cứ để nó như vậy.
Đây là cách suy nghĩ độc hại và hành xử nguy hiểm. Nó cắm rễ sâu những cảm giác tự ti và bất an, sau rồi sẽ mọc lên như cỏ dại át hẳn “khu vườn gọn ghẽ của trí óc”. Abraham Lincoln, người đã thất bại trong nhiều chuyện nhưng còn lâu mới là một kẻ thất bại, từng nói rằng: “Mối quan tâm lớn của tôi không phải là bạn có thất bại hay không, mà là bạn có hài lòng với sự thất bại của mình hay không”. Sự hài lòng này là trạng thái tê liệt. Bạn sẽ thấy bản thân mình hạnh phúc trong thất bại; và bạn sẽ luôn hướng đến thất bại.
Khi Thiếu tướng William F. Dean được thả sau thời gian bị phía địch giam giữ, một phóng viên hỏi điều gì giúp ông trụ vững được trong ba năm khốn khổ đó. “Tôi chưa bao giờ thấy buồn cho bản thân, đó chính là cách để vượt qua”, ông trả lời. Sự tự thương hại đánh gục nhiều người hơn bất cứ điều gì khác; và tôi phải nói rằng tự đổ lỗi còn tệ hại hơn nữa, vì đó là một trong những nguyên nhân chính yếu của tự thương hại. Hay chúng ta có thể đi từ tự đổ lỗi tới tự hạ mình rồi tự xem thường bản thân, thậm chí còn dẫn đến tự hủy hoại.
Tự đổ lỗi thái quá mở ra cánh cửa cho những cảm giác tội lỗi. Theo thói quen đổ lỗi cho bản thân sau những thất bại rõ ràng, sẽ đến lúc bạn tìm cách đổ lỗi cho mình vì thất bại của người khác. Trong nghiên cứu của tôi, nhiều người vợ đã than thở rằng: “Đó là lỗi của tôi!” trong khi rõ ràng là lỗi của người chồng. Nhiều người mẹ khóc lóc: “Tôi đã sai từ đâu?” khi rõ ràng thất bại của một đứa con có thể gây căng thẳng đến mức hủy hoại gia đình.
Và thói tự đổ lỗi đóng lại cánh cửa tới khả năng tự phát triển bản thân. Sau cánh cửa đóng ấy tính cách của một người có thể mãi mãi triệt thoái, nó có thể héo hon trong cơn u sầu cực độ. Như một chú hươu bị lóa mắt vì ánh đèn xe, nó có thể đứng bất động, không cảm giác hay ý chí, mất tinh thần và không thể cử động để tự đưa mình đến nơi an toàn.
Người ta nghiệm ra Vạn Lý Trường Thành, đã tồn tại nhiều thế kỷ, trải dài suốt mười tám ngàn dặm qua các bình nguyên và hoang mạc, là một trong những công trình đồ sộ nhất trong lịch sử nhân loại – và cũng là biểu tượng cho sự thất bại của Trung Quốc trong việc trở thành một quốc gia tiến bộ. Tường thành là một rào chắn; người Trung Quốc tự cô lập chính mình phía sau tường thành và hướng vào bên trong. Tự đổ lỗi có thể là Vạn Lý Trường Thành của cuộc đời chúng ta. Hết viên đá này đến viên đá khác của thói tự chỉ trích, tự coi thường, tự hạ mình, tự khinh rẻ; rồi đến một ngày chúng ta thấy mình quá hạn chế và rụt rè đến mức bị cô lập với gia đình, bạn bè và cộng đồng. Chúng ta trở thành bạn đồng hành với tử thần.
Trở ngại thứ ba là không có mục tiêu. Bác sĩ William Menninger phát biểu rằng:
Một người phải biết anh ta muốn đi về đâu nếu anh ta muốn lên đường. Rất dễ bị trôi nổi vô định. Một số người đi học như thể họ nghĩ họ đang làm ơn cho gia đình. Trong công việc, họ làm một cách buồn tẻ, chỉ hứng thú mỗi khi lĩnh lương. Họ không có một mục tiêu. Khi bất kỳ ai cản đường, họ liền dừng lại rồi bỏ đi. Người có điểm đến và có chuyện để làm sẽ tận dụng mọi hoàn cảnh. Họ luôn sẵn sàng đối mặt với những gì xuất hiện trên con đường dẫn tới mục tiêu của họ. Họ biết mình muốn gì và luôn sẵn lòng nỗ lực thêm chút nữa.
Tác giả William Saroyan cho chúng ta thấy hình ảnh một nhân vật – Willy trong Thời khắc của đời bạn (The Time of Your Life) – hiện thân của con người sống không có mục tiêu thực tế. Willy rất cuồng trò pinball. Trong suốt vở kịch, Willy chiến đấu với cái máy. Trong cảnh cuối cùng, anh ta rồi cũng thắng chiếc máy. Đèn xanh đỏ nhấp nháy, chuông vang lên sáu lần, một chiếc cờ Mỹ tung ra, Willy chào cờ và nhặt lấy sáu đồng kẽm mà người pha chế rượu đưa cho, rồi nói: “Tôi biết tôi làm được mà!”.
Thành công.
Không mục tiêu đã đủ tệ rồi, nhưng mục tiêu thấp kém thì còn tệ hơn.
Chắc chắn không có chuyện không mục tiêu. Willy có mục tiêu đấy chứ. Là đánh bại chiếc máy. Anh ta đã thành công. Nhưng với cái giá là thất bại trong mọi chuyện khác. Câu chuyện của anh ta giống như chuyện xưa kể rằng có một chú chó khoác lác rằng nó có thể chạy nhanh hơn bất kỳ con vật bốn chân nào khác. Rồi nó lập tức rượt theo một con thỏ, nhưng bị bỏ lại đằng sau. Những con chó khác cười nhạo nó. Nó chỉ cười nhạt: “Đừng quên rằng con thỏ chạy vì mạng sống. Còn tôi chỉ rượt bắt nó cho vui vậy thôi”.
Chúng ta hiếm khi thấy những người này ở dạng thuần túy như vậy, nhưng có những người mà mục tiêu cuộc đời chỉ là vui thú; những người không làm gì ngoài chuyện giải trí cho bản thân, thường trả giá bằng những người khác, và luôn trả giá bằng chính bản thân đích thực của họ nữa. Họ phí phạm tài năng thiên phú vào những trò vui không chút giá trị; họ rắc hết số muối là năng lượng của họ lên khắp miếng thịt cuộc đời, rồi nhận ra rằng muối giờ đã mất vị. Hay – chuyển sang một hình ảnh ẩn dụ khác – họ đồng thời nhắm đến nhiều mục đích, vung vãi tài năng của họ là những viên đạn chì và cường điệu hóa bất cứ gì họ tình cờ săn được. La hét và bắn là tất cả những gì họ ao ước.
Rồi có một số người mà mục tiêu là một “đột phá” mơ hồ lúc nào đó trong tương lai. Như Micawber4, họ chờ điều gì đó thay đổi, trong khi đó họ khước từ mọi thứ khác. Thứ gì ở dưới hay bên cạnh họ thì không phải là thứ phù hợp với họ, họ không thích nó. Họ chờ đợi Bạch Mã Hoàng Tử, hay Cánh Buồm Đỏ Thắm. Và bản năng sống của họ tiêu biến dần, lý trí thui chột dần và cơ thể nhũn nhão, khi Hoàng Tử hay Cánh Buồm đến, họ không còn sẵn sàng nữa. Kết cục, tất cả đều là phù hoa.
4 Một nhân vật trong tiểu thuyết David Copperfield của Charles Dickens, là một viên thư ký nghèo nhưng luôn lạc quan mong đợi vận số đổi đời trong tương lai.
Theo Richard L. Evans của tờ Detroit Times, điều mà chúng ta chờ đợi không phải lúc nào cũng rõ ràng, có lẽ họa hoằn lắm, nhưng một số người trong chúng ta cứ một mực đợi chờ mặc ngày tháng tuổi trẻ trôi qua, cơ hội vụt mất và cuộc đời trôi đi – rồi nhận ra chúng ta cứ mãi mãi chờ đợi có gì đó sắp xảy ra... Nhưng trên thế gian này khi nào chúng ta định bắt đầu sống như thể chúng ta hiểu mình phải sống gấp rút cho kịp? Đó chính là lúc này, là hôm nay, thế hệ này... chứ không phải kỷ nguyên vàng son trong quá khứ, không phải kỷ nguyên không tưởng của tương lai... Đó chính là lúc này... dù chúng ta có hồi hộp hay thất vọng, bận rộn hay chán chường. Cuộc sống là đây... và nó đang trôi qua... Ta còn chờ gì nữa?
Nhưng cẩn trọng vẫn cần thiết: trở ngại thứ tư là chọn sai mục tiêu. Người Trung Quốc có câu chuyện kể về một người đàn ông ở Bắc Kinh mê vàng, ông khao khát có thật nhiều vàng. Một ngày, ông thức dậy rồi ăn mặc nghiêm chỉnh và đi ra một khu chợ đông đúc khi mặt trời đã lên cao. Ông bước thẳng tới một tiệm vàng, giật một túi đầy những đồng tiền vàng rồi khoan thai bỏ đi. Những viên cảnh sát bắt giữ ông ta không khỏi thắc mắc: “Sao ông lại trộm vàng giữa thanh thiên bạch nhật như vậy? Mà lại còn trước sự chứng kiến của nhiều người nữa?”, họ hỏi.
“Tôi không thấy ai cả”, người đàn ông đáp. “Tôi chỉ thấy vàng thôi.”
Khi vàng hay vinh quang, quyền lực hay vị thế trở thành một ý tưởng bất di bất dịch trong đầu, chúng ta sẽ mù quáng không chỉ trước nhu cầu của người khác – ở nhà cũng như ngoài chợ – mà còn mù quáng trước cả nhu cầu của chúng ta, những nhu cầu nội tại bên trong chúng ta nữa. Tôi đã gặp và trò chuyện với hàng trăm người đàn ông và phụ nữ được xem là rất thành công, nhưng theo như nghiên cứu khó xâm phạm của tôi, những người đó tự nhận có cảm giác thất bại tràn trề. Họ chỉ chăm chăm hướng về một mục tiêu và để cho nó là hình ảnh cho sự tự thỏa nguyện; họ đã đạt được mục tiêu và rồi nhận thấy đó không phải là điều tâm hồn họ cần. Nó thường chính là thứ hủy hoại tâm hồn họ.
Đây quả là một nỗi buồn to lớn: Sau nhiều năm đấu tranh, bạn khám phá ra rằng việc đạt được mục tiêu mà bạn nỗ lực giành lấy đó không đem lại hạnh phúc. Thường thì đó là vấn đề muôn thuở về nghề nghiệp: làm nghề y, làm nghề luật hay làm nhà quản lý, mỗi nghề đều hứa hẹn thành công và hạnh phúc toàn vẹn, nhưng có thể khiến người ta mỏi mệt và vỡ mộng, mất hết hy vọng. Và khi người ta đến tuổi ngũ tuần, lục tuần, họ biết đã quá trễ để quay đầu lại, để tìm ra sự thỏa mãn trong một cuộc đời khác. (Vẫn có những tâm hồn hiếm hoi dám gom tất cả dũng khí đối diện sự thật và từ bỏ một “thành tựu” cả đời để quay đầu đi theo tiếng gọi đem lại cho họ sự bình yên. Nhưng, tôi e rằng, hầu hết chúng ta sẽ cứ canh cánh trong lòng sự bất mãn. Ngay cả Tolstoi cũng không hoàn toàn hạnh phúc khi từ bỏ cuộc đời của một bá tước và trở về quê). Hầu hết chúng ta, dù bất mãn hay không, cũng đều nhận ra rằng chúng ta phải tiếp tục đi đến cuối con đường. Chúng ta khởi đầu tồi tệ và thỏa hiệp với những lỗi lầm qua năm tháng, nhưng không còn lựa chọn khả dĩ nào khác.
Đây là một nghịch lý nguy hiểm: Hầu hết chọn lựa của chúng ta, từ nghề nghiệp đến chuyện gia đình, đều diễn ra lúc chúng ta còn trẻ; người mang trọng trách lại không dễ có được lời khuyên, anh ta phải tự tìm hiểu xem ý nghĩa cuộc đời rốt cuộc là gì. Thường anh ta đã không còn khả năng thay đổi khi nhận ra đâu mới là hạnh phúc. Nó đòi hỏi sự trung thực lớn lao và suy nghĩ nghiêm túc để có một lựa chọn tự tin và chắc chắn trước khi quá trễ. Quá nhiều người trong số chúng ta để cho lựa chọn tự diễn ra – vì gia đình hay hoàn cảnh – để rồi sau đó hối hận.
Nhà thuyết giáo vĩ đại, Phillips Brooks, đã từng luận bàn:
Có một chàng trai cứ đều đều đắm chìm trong việc mà anh ta gọi là công việc pháp luật. Nó không dẫn tới đâu. Nghề này không đòi hỏi gì ở anh hơn những gì anh muốn từ nó. Anh làm việc đó vì nó là một nghề đầy vinh dự và được tôn trọng; vì truyền thống gia đình hay một số người đặt để anh ở đó. Hãy để anh một lần có thêm dũng khí; hãy để anh một lần thoáng nghĩ lại xem mình ở đó thật ra là vì điều gì, mình có thể làm thật tốt điều gì với niềm say mê, bổn phận của mình là gì, và những câu hỏi như vậy có lẽ sẽ đưa anh ta đến với chiếc băng ghế của người thợ mộc hay đến một xưởng rèn.
Trang Tử, một hiền giả của Trung Quốc, một hôm đang câu cá bên bờ sông Bộc. Sở vương sai hai vị đại phu đến mời ông ra làm quan. Trang Tử vẫn thản nhiên cầm cần câu cá. Khi được van nài trả lời, ông bảo: “Tôi nghe đâu nước Sở có con rùa thần, chết đã ba ngàn năm rồi. Nhà vua đem mai rùa đặt vào khay vàng thờ nơi miếu đường của tổ tiên. Tôi hỏi các ngài: rùa muốn sau khi chết được sùng kính như vậy, hay là thích lúc còn sống, được ngoáy đuôi dưới ao đìa hơn?”.
Hai vị đại phu đáp rằng: “Chắc chắn là thích ngoáy đuôi dưới ao đìa hơn”.
“Vậy các ngài đi đi!”, Trang Tử tiếp lời. “Tôi cũng chỉ muốn được ngoáy đuôi dưới ao đìa thôi!”
Trở ngại thứ năm là chọn lối tắt. Cây bút kỳ cựu chuyên mục thể thao Arch Ward tường thuật: “Tuần rồi tại Forest Hills, vận động viên mười sáu tuổi Maureen Connolly vừa đánh bại Doris Hart tại vòng bán kết nội dung Đơn nữ giải Mỹ mở rộng. Đối thủ của Hart, theo như đánh giá của các chuyên gia, chưa từng chơi tốt hơn. Nhưng nhà vô địch Wimbledon và hạt giống giải này không phải là đối thủ của cô gái California và thua trắng. Mary Hardwick Hare, nhà cựu vô địch giải Anh và cúp Wightman, nhanh chóng đến phòng ăn tối để chúc mừng Connolly. Maureen nói: ’Chị Mary này, nếu chị rảnh khoảng nửa giờ thì em muốn luyện tập với chị!’. Họ tập hơn một giờ đồng hồ. Ngày hôm sau, Maureen trở thành nhà vô địch”. Ward bình luận: “Hầu hết chúng ta có thể học được qua câu chuyện tại San Diego, cô gái trong giây phút vinh quang chiến thắng lại nói: ’Tôi muốn luyện tập!’”.
Dòng điện sẽ theo tuyến nào ít điện trở nhất, nhưng bóng đèn rực sáng là nhờ điện trở. Nhiều người trong chúng ta theo bản năng thường chọn cách ngắn nhất, dễ nhất, nhanh nhất đến với thành công, để rồi chỉ thấy rằng thành công là thứ hão huyền, rằng bóng đèn không rực sáng. Có quá nhiều lời nhàm chán về việc phải làm việc chăm chỉ, chúng ta sẽ không nhắc nữa. Làm việc chăm chỉ hiếm khi thú vị. Nhưng chinh phục được sự vật, trí tuệ hay tâm hồn thì thú vị; nó đưa đến sự tốt lành, hạnh phúc. Và không có sự chinh phục nào đạt được mà không cần làm việc chăm chỉ, không có sự chinh phục nào đem lại niềm vui thực sự nếu nó không đòi hỏi phải cần cù.
Lối tắt, đường đi ít điện trở nhất quá nhiều lần phải chịu trách nhiệm cho sự thành công không viên mãn và chóng phai. Lối tắt quá nhiều lần phải chịu trách nhiệm cho việc lựa chọn mục tiêu không phù hợp mà chúng ta đã thảo luận ở trên. Tôi quen một người là biên tập viên tạp chí, một biên tập viên giỏi; nhưng mười lăm năm nay anh biết mình sinh ra là để làm giáo viên. Muốn dạy học thì trước tiên phải lấy được bằng thạc sĩ; rồi khởi đầu ở vị trí thấp tại một trường nhỏ; làm việc cật lực một thời gian dài và chấp nhận lương thấp. Anh ta tinh ý chọn ngay việc viết lách và biên tập; được trả thù lao nhanh chóng và mở ra một tương lai tốt đẹp cho anh ta với công việc ở tạp chí. Anh ta cố ý chọn lựa như vậy và không phải chịu khổ sở; anh là một người có năng lực và được kính trọng. Nhưng anh không hạnh phúc trọn vẹn; anh không cảm nhận được sự thành công. Anh dễ dãi chấp nhận điều đó và nhìn nhận thất bại một cách hoàn toàn hợp lý, nhưng nó vẫn là một thất bại.
Có những lối tắt khác. Một trong số đó là từ chối tuân theo những lề luật về sự đứng đắn và trung thực. Nhiều doanh nhân tốt thu nhập cao có thể giàu có và quyền lực, nhưng sẽ được kính trọng và hạnh phúc hơn nhiều nếu họ chọn con đường dài lâu tuyệt đối chính trực về đạo đức và đứng đắn về luân lý. Thói quen xử lý sắc bén, quyết liệt dường như là cần thiết cho thành công; chắc chắn nó nhanh hơn và có lợi hơn. Nhưng phần nào trong họ giờ đây đã bị cắt lìa với hạnh phúc. Có thể gọi đó là hạnh phúc không? Hành xử sắc bén và vô đạo đức thường “thành đạt” – chính vì phần lớn nhân loại nhận thức trực quan rằng sự đứng đắn và trọng danh dự là điều cần thiết cho thành công; do đó họ tương đối ngây thơ, và ở mức độ nào đó còn nhân từ với kẻ nói dối và lừa đảo. Barnum nói đúng chỗ này: Mỗi phút lại có một kẻ dễ bịp ra đời. Và tạ ơn Chúa vì những kẻ dễ bịp đứng đắn ấy: họ là muối của đất5. Họ là những người mà khả năng hạnh phúc chưa bị tiêu diệt.
5 Trích Kinh thánh: “Các con là muối của đất, nhưng nếu muối mất chất mặn đi, thì lấy gì làm cho mặn lại?” (Matthew 5:13).
Trở ngại thứ sáu chính xác là cái ngược lại của trở ngại thứ năm: chọn đường dài. Có một câu châm ngôn xưa nói rằng: đường dài nhất lại là đường ngắn nhất. Điều đó có thể đúng trong chuyện tình yêu nhưng không phải lúc nào cũng đúng trong cuộc đời. Người ta kể rằng có lần Einstein khi được yêu cầu giải thích thuyết tương đối, ông trả lời rằng có lẽ ví dụ đơn giản nhất mà ông có thể đưa ra là câu chuyện sau: Chàng trai ở bên cô gái mình yêu thì một giờ cứ như mới một phút, nhưng cũng chàng trai đó phải ngồi cạnh lò sưởi đỏ lửa chỉ một phút cũng thấy như đã một giờ. Tuy nhiên, chúng ta đang nói về thực tế chứ không phải thuyết tương đối.
Những nhà bình giảng Kinh thánh ngày xưa giải thích lý do vì sao Chúa không dẫn con dân Do Thái tới Đất Hứa theo con đường thẳng ngắn nhất, đi lên miền Philistines, chỉ mất mười một ngày thong dong, thay vào đó Người lại dẫn họ đi một đường vòng qua những vùng đất hoang dã mất hơn bốn mươi năm, là vì những con người nô lệ đó cần tự mình chuẩn bị dần dần để sử dụng và tận hưởng tự do một cách thông thái. Nhưng chúng ta đều biết họ (toàn bộ thế hệ người trưởng thành rời khỏi Ai Cập) đã chết nơi những miền hoang dã. Họ phải đi quá lâu để tới Đất Hứa và rồi không bao giờ đến được đó.
Hết lần này đến lần khác, tôi tiến hành nghi thức cuối cùng trong lễ tang một người tuổi tầm năm, sáu mươi đột ngột qua đời, ngay khi ông ta mới nghĩ đến việc sử dụng khối tài sản vất vả làm lụng và những năm tháng còn lại vào việc thực hiện và tận hưởng tất cả những điều ông mơ ước thuở bắt đầu xây dựng sự nghiệp. Người nhà mắt đẫm lệ nói với tôi sau chặng đường dài cực nhọc và khó khăn, đấu tranh và hy sinh, ông đã đạt tới thành tựu to lớn của đời mình, và tim họ quặn đau khi nhận ra rằng ngay khi có thể nghỉ ngơi và tận hưởng cuộc sống thì ông lại ra đi. “Thật đáng tiếc”, họ than khóc. Và tôi nghĩ thật đáng tiếc vì ông ta không dừng lại trên đường sớm hơn; không chịu thỏa mãn với ít thành công vật chất nhưng bản thân lại mãn nguyện sớm hơn. Đường dài nhất không hẳn là đưa ta về nhà nhanh nhất. Nếu bạn cứ mãi chờ đợi và du hành quá lâu, bạn sẽ không bao giờ tới nhà.
Trở ngại thứ bảy là thờ ơ với những điều nhỏ bé. Một giai thoại về Tổng thống McKinley – câu chuyện có thể chỉ là lời truyền miệng nhưng rất liên quan – minh họa cho ý này. Tổng thống đang gặp phải một vấn đề tiến thoái lưỡng nan; ông phải chọn một trong hai người đàn ông ngang tài ngang sức cho một vị trí ngoại giao cấp cao. Cả hai đều là bạn cũ. Ông hồi tưởng và nhớ lại một sự kiện có thể giúp ông quyết định. Một đêm mưa gió, McKinley lên một chiếc tàu điện công cộng và ngồi vào chiếc ghế trống duy nhất mãi cuối xe, thì một bà già làm nghề giặt ủi leo lên tàu điện với một giỏ quần áo nặng. Bà đứng ở giữa lối đi, dù tuổi tác bà đã cao và dáng vẻ thật đáng thương nhưng không ai nhường chỗ cho bà. Một trong hai ứng viên của McKinley, khi đó còn rất trẻ, ngồi gần chỗ bà; anh ta cắm cúi đọc báo và ra vẻ chăm chú vào tờ báo để có thể phớt lờ bà già ấy. McKinley bước ra lối đi, nhấc giỏ đồ của bà và dẫn bà ngồi vào chỗ của mình. Người đàn ông kia không bao giờ nhìn lên, không bao giờ biết chuyện gì đã xảy ra; cũng không hề biết rằng hành động ích kỷ nhỏ bé này về sau sẽ lấy đi của anh ta vị trí đại sứ, tột đỉnh tham vọng của anh ta.
Có hàng trăm câu chuyện nhấn mạnh tầm quan trọng của những việc nhỏ bé. Cánh cửa để mở, tài liệu không được ký, một vài hòn than cháy chưa được dập tắt trong lò sưởi; Edison mất bằng sáng chế vì nhầm lẫn một dấu thập phân. Những trận chiến sống còn bị thất bại vì “thiếu một chiếc đinh”. Chúng ta thường xúc động trước những bài hát nói rằng: “Chính những điều nhỏ bé mới làm nên chuyện”, nhưng chúng ta lại ngay lập tức phớt lờ những điều nhỏ bé.
Tại một buổi cầu nguyện ở một nhà thờ cổ miền quê, một người ngoan đạo nghe âm vang một giọng khẩn nài tha thiết: “Xin hãy dùng con, lạy Chúa, xin hãy dùng con – nhưng trong khả năng có thể”. Những ý tưởng lớn, món tiền lớn, sự kiện lớn, cú làm ăn lớn: Chúng ta cảm thấy muốn đắm chìm và vờn quanh chúng; những thứ (gọi là) nhỏ bé thì dành cho những người (gọi là) nhỏ bé. Sự thật là không có ai, không có công việc nào là nhỏ bé cả. Mỗi người, mỗi việc mỗi khác: dễ xử lý, dễ tiếp cận, hay có một kết quả ít quan trọng hơn. Nhưng mọi thứ đòi hỏi sự chú ý và cần được thực hiện đều lớn như nhau. “Nếu không có con dao sắc”, một bếp trưởng người Pháp bộc bạch, “tôi cũng chỉ là một người đầu bếp bình thường khác thôi”. Đây quả là tin tốt cho thợ học việc nào biết mài sắc những con dao của anh ta.
Nhà điều hành giỏi luôn chú trọng đến những việc nhỏ bé: anh ta biết rằng nếu quản lý tồi chúng có thể trở thành vấn đề lớn. Với một cuộc phẫu thuật, không có điều gì là nhỏ nhặt, mỗi một chi tiết vặt vãnh nhất cũng là vấn đề sinh tử. Với một luật sư, một biên bản ghi chép mơ hồ và rối rắm có thể khiến khách hàng phải trả giá bằng tự do, thậm chí là cái chết. Với một giáo sĩ, không có vấn đề nào là nhỏ: trong tâm hồn một con người không có gì là không quan trọng.
Chúng ta phải trân trọng từng chi tiết; chúng ta phải chú ý đến chúng. Oscar Hammerstein II một lần được nhìn cận cảnh tượng Nữ Thần Tự Do từ trên trực thăng. Ông nhìn rõ chi tiết phần đầu bức tượng và thấy rằng nhà điêu khắc đã chạm khắc rất tỉ mỉ kiểu tóc của nữ thần. Từng lọn tóc đều ở đúng vị trí của nó. Vào thời đó nhà điêu khắc khó mà nghĩ đến sẽ có người nào – trừ những chú chim mòng biển – có thể thấy được mái tóc. Nhưng ông ta vẫn tạo tác cẩn thận mái tóc giống như đã làm khuôn mặt, cánh tay và ngọn đuốc.
Kinh Tân Ước cũng kể câu chuyện dụ ngôn về một người đàn ông quý tộc, thấy một người đầy tớ xử trí một nhiệm vụ nhỏ mà mang lại thành công khác thường, ông nói với người đó: “Hay lắm người đầy tớ giỏi giang kia; vì ngươi đã trung thành trong việc rất nhỏ, thì ngươi hãy cầm quyền cai trị mười thành phố”.
Trở ngại thứ tám là ngừng quá sớm. Gần đây tôi có đọc một câu chuyện trên tạp chí (tác giả khẳng định có thật) tên là “Viên sỏi thành công”. Thất chí, thể xác rã rời, Rafael Solano ngồi bệt trên tảng đá bên bờ một dòng kênh cạn nước và tuyên bố với hai anh bạn: “Thế là hết”, anh than thở. “Tiếp tục cũng chẳng ích gì. Thấy viên sỏi này không? Đã là viên thứ 999.999 tôi nhặt rồi, chẳng có viên kim cương nào cả. Tôi có nhặt thêm một viên nữa thì sẽ là viên thứ một triệu – nhưng để làm gì? Tôi bỏ cuộc thôi.”
Đó là vào năm 1942; ba người đàn ông đã trải qua hàng tháng trời hy vọng tìm được kim cương tại một con kênh ở Venezuela. Họ phải khom lưng mỏi gối nhặt từng viên đá, ao ước và hy vọng tìm thấy dấu hiệu của kim cương. Quần áo họ sờn rách, những chiếc mũ rộng vành tả tơi, nhưng họ chưa hề nghĩ đến việc dừng lại cho đến khi Solano nói: “Thế là hết”. Một người trong số họ rầu rĩ nói: “Thì cứ nhặt thêm một viên nữa cho chẵn một triệu xem nào”.
“Được rồi”, Solano nói, rồi khom lưng nhặt một viên sỏi, giơ về phía trước. Nó to gần bằng một quả trứng gà. “Đây”, anh nói, “viên cuối cùng”. Nhưng viên đá này nặng, rất nặng. Anh nhìn kỹ lại. “Các cậu ơi, là kim cương!”, anh la lên. Harry Winston, một nhà kim hoàn ở New York đã trả cho Rafael Solano hai trăm ngàn đô-la cho viên sỏi thứ một triệu đó. Được đặt tên là Người Giải Phóng, đó là viên kim cương lớn nhất và thuần khiết nhất từng được tìm thấy.
Có lẽ Rafael Solano không cần phần thưởng nào khác; nhưng tôi nghĩ anh hẳn phải biết hạnh phúc là điều nằm ngoài vấn đề tiền bạc. Anh đã đặt ra con đường cho mình; trở ngại chống lại anh; anh vẫn bền chí; và anh chiến thắng. Anh không chỉ thực hiện được những gì đã đặt ra – chính bản thân việc đó là phần thưởng – mà còn thực hiện nó khi phải đối mặt với thất bại và hoàn cảnh tối tăm.
Câu cách ngôn của một người thợ săn già dạy cho chúng ta rằng một nửa số lần thất bại trong đời là do ta thả dây cương ngay khi con ngựa đang nhảy chồm lên. Elihu Root từng nói: “Người ta không thất bại; họ từ bỏ cố gắng”. Thường không phải khởi đầu sai lầm mà chính kết thúc sai lầm mới tạo ra khác biệt giữa thành công và thất bại. Từ bỏ khi ta đang tiến lên phía trước đúng là khờ khạo; nhưng từ bỏ khi chúng ta bị bỏ lại đằng sau thì còn khờ khạo hơn. Cần phải có ý chí để duy trì thêm chút nữa. Cần phải có sự khôn ngoan để biết rằng giới hạn của thành công không phải là vận may hay những lần gián đoạn giữa cuộc chơi, mà là chinh phục thất bại.
Có câu: “Rắc rối với hầu hết chúng ta là chúng ta ngừng cố gắng những khi cần cố gắng”. Câu chơi chữ cũng hàm chứa sự thông thái.
Trở ngại thứ chín là chôn vùi quá khứ. Chúng ta không bao giờ thoát khỏi ký ức; chúng ta chỉ có thể đối mặt chúng một cách thành thực. Tôi có đọc ở đâu đó và ghi lại câu nhận xét thông thái này:
Cả đời chúng ta phải sống với ký ức, và càng lớn tuổi chúng ta càng phụ thuộc vào chúng nhiều hơn, cho đến một ngày đó là tất cả những gì chúng ta còn lại. Dù chúng có thể là phiền muộn, cay đắng, tủi nhục, giày vò hay chúng có thể là cổ vũ, đồng cảm, tự trọng, an ủi. Những gì đã trải qua là những điều sẽ lộ ra, dù chúng ta cố tình hay bị buộc phải chấp nhận chúng.
Ký ức từ quá khứ có thể truyền cho chúng ta dũng khí, tự tin và sức sáng tạo; hay chúng có thể làm chúng ta mờ mắt dưới một tấm vải liệm tối tăm của buồn chán và thua cuộc. Ngay cả những niềm vui từ quá khứ cũng trói buộc chúng ta: Tôi biết nhiều người rất tự hào về tên tuổi, thành tựu, tài sản của tổ tiên đến nỗi không dám khơi mở những đường hướng mới cho bản thân mình. Tôi biết có người bị làm hư vì một thành công quá sớm đến nỗi không còn động lực nào để hoàn thiện nữa.
Nhưng ký ức làm ta nản lòng thì thường gặp hơn. Ký ức về nỗi đau, mất mát, hay thất bại trước đó có thể khiến cho cuộc sống dường như không đáng sống nữa. Đây thường chỉ là tình trạng tạm thời – chúng ta có thể thấy ở gia quyến người quá cố hay ở những người tù mới được tự do, hay ở những người tị nạn đã phải trải qua tất cả những chuyện khủng khiếp của đời sống hiện đại và chưa bao giờ biết đến những niềm vui của nó. Và những ký ức phiền muộn dường như đóng băng, chai sạn đi; chúng ta mang chúng như gánh nặng, và chúng ta mất đi khả năng chuyển hóa chúng thành năng lượng sáng tạo.
Một bác sĩ tâm thần lỗi lạc ghi nhận về một bệnh nhân bất an sau vài phiên chữa trị đã thú nhận: “Nằm trên trường kỷ mà đào sâu quá khứ thì dễ hơn là ngồi trên ghế mà đối mặt với hiện tại”. Thậm chí việc thức tỉnh và bước tới tương lai còn khó hơn. Bận tâm về quá khứ luôn là một cách trốn tránh. Một câu chuyện cười xưa của giới thợ săn kể rằng: Hai thợ săn đang đi săn thì gặp một con sư tử, nhưng nó không tấn công họ mà lại vẫy đuôi và lẩn vào bụi cây đi mất. Một người hoảng sợ quá lắp bắp nói với người kia: “Anh đi tiếp xem nó đi đâu. Tôi trở lại xem nó từ đâu tới”.
Chúng ta thường phản ứng giống người thợ săn nọ. Vấn đề của ngày mai không thể biết được; chúng có thể gây ra một nỗi đau mới. Ngày hôm qua đã kết thúc; chúng vẫn còn gây đau đớn, nhưng nỗi đau đã trở nên quen thuộc, hầu như dễ chịu. Điều dễ dàng và ít bất trắc là án binh bất động, là cố tìm ra những điều dễ chịu trong những đau khổ mà ta đã quen thuộc đó. Chẳng sớm thì muộn chúng ta sẽ nhận ra bản thân mình không thể tiến tới trước; chúng ta bị sa lầy trong bãi cát lún những điều ta hối tiếc. David Livingstone, nhà phiêu lưu vĩ đại, có lần tuyên bố: “Tôi sẽ đi bất cứ nơi nào còn ở phía trước”. Đó là một ý tưởng luôn có khả năng thực hiện. Có những khi ta buộc phải lui lại một hay hai bước để định hướng lại bản thân. Nhưng chiều hướng của chúng ta phải là tiến về trước, bản năng của chúng ta nên là vì sự tiến bộ. Hãy nhớ rằng cuộc sống luôn phát triển, và khi ngừng phát triển, khi sợ điều mới, ta cũng từ chối cuộc đời.
Trở ngại thứ mười là ảo tưởng về thành công. Thành công là một nữ thần tính khí thất thường; chúng ta nghĩ là có được nàng, nhưng chỉ nàng mới biết rõ. Một trong những bối cảnh được ưa thích trong văn chương hiện đại là bi kịch khi thành công quá dễ dàng, thành công quá nhanh, sắp thành công, bản sao lỗi của thành công. Phần lớn chúng ta bị một sự kiện, một thành tích đánh lừa; nó có mọi dấu hiệu của thành công, và những người khác hành xử như thể đó là một thành công, nhưng nó không làm ta thỏa lòng. Chúng ta nhún vai bỏ qua nghi ngờ của mình; chúng ta đồng tình rằng mình đã đến được thành công; chúng ta đeo một mặt nạ và chúng ta chấp nhận ý kiến có độ phổ biến cao của chúng ta.
Ngay lúc đó chúng ta không còn cố là chính mình nữa. Chúng ta chấp nhận những lời khen ngợi hay tiền tài, đánh đồng đó là hạnh phúc và xem như thể thành công là của chúng ta. Thành tựu cao hơn dường như không còn cần thiết. Chúng ta tự nguyện từ bỏ con đường đúng đắn tới thành công đích thực.
Napoleon nhận thức được điều này (cũng có giúp ông đôi chút); ông từng nói: “Khoảnh khắc nguy hiểm nhất là lúc chiến thắng”. Thành quả của thành công bấp bênh nhất khi nó có vẻ lâu dài. Như vậy ta sẽ tự tin thái quá; và khi một vấn đề mới nổi lên chúng ta bối rối và cay đắng: Sao tôi lại gặp rắc rối ngay lúc này, khi gần như đã thành công rồi? Câu trả lời là thành công rất khó đoán định, phải liên tục theo đuổi nàng; không thể có được nàng mãi mãi. Chiến thắng sẽ mất đi giá trị trừ phi ta dùng nó như một phương tiện dẫn đến những kết quả to lớn hơn. Bản thân nó chỉ tạm thời, và là một vinh quang cơ bản là vô ích. Talleyrand có lần nhận xét: “Một người có thể làm mọi chuyện với một thanh kiếm trừ việc ngồi lên nó”. Điều này cũng đúng với thành công.
Và khi ta mất đi thói quen tiếp tục dấn bước, thành công có thể làm hại ta nhiều hơn là có lợi khi nó một lần nữa đến với ta. Giới đua ngựa thích kể câu chuyện về con ngựa Broadway Ltd. (con trai của Man o’ War – một trong những con ngựa đua vĩ đại nhất mọi thời đại), từng được chủ nó mua với giá sáu mươi lăm ngàn đô-la năm 1928. Con Broadway Ltd. chưa từng thắng cuộc đua nào (chúng ta nên nhớ rằng có vẻ nó thích đi săn, hay thậm chí là thồ sữa hơn, nhưng dĩ nhiên nó không được hỏi ý gì); trái tim nó không để vào công việc. Cuối cùng, vào năm 1930, trong cuộc đua với giải thưởng chín trăm đô-la, nó ngoặt qua khúc quanh và trước mặt là đoạn đường thẳng. Lần đầu tiên dẫn đầu một mình, nó gục chết.
Chúng ta không thể chịu đựng được thành công hão huyền trừ phi chúng ta quá ngốc để nhìn nhận bản thân thành công chung là một kết thúc. Vấn đề là hầu hết chúng ta không học được cách thoát khỏi mớ rối rắm những quan niệm về thành công thông tục và thành công cá nhân: Chúng ta không ngừng hướng đến các mục tiêu mà chúng ta nghĩ những người khác sẽ công nhận, và chúng ta đau đớn nhận ra họ không biết chút gì về thành công đích thực.
Tolstoi để lại cho chúng ta một câu chuyện sâu sắc, một câu chuyện ngụ ngôn của thế kỷ 20 trong tác phẩm “Một người cần bao nhiêu ruộng đất?”. Người nông dân Pakhom cứ nhất mực cho rằng anh ta sẽ thành công khi có nhiều đất đai như lãnh địa bao la mà các quý tộc Nga sở hữu. Thời cơ đã đến, anh nghe nói có chỗ sẽ cấp cho anh số đất rộng bằng chu vi mà chính anh có thể vòng quanh bằng cách chạy hết mức từ bình minh đến hoàng hôn. Anh hy sinh tất cả những gì mình có để đi tới nơi xa xôi có chuyện cấp đất. Sau nhiều khó khăn, anh tới nơi và sắp xếp cho cơ hội lớn ngày hôm sau. Điểm xuất phát đã được định sẵn. Pakhom chạy như tên bắn khi bình minh ló dạng. Dưới ánh nắng ban mai, anh chẳng nhìn sang trái hay sang phải gì cả, cứ cắm cúi chạy như lên đồng về phía mặt trời chói lòa và hơi nóng như thiêu đốt. Không dám dừng lại nghỉ ngơi hay ăn uống, anh tiếp tục cuộc chạy cực nhọc và kiệt sức đó. Và khi mặt trời khuất bóng, anh loạng choạng hoàn thành vòng chạy. Thắng rồi! Thành công rồi! Giấc mơ cả đời đã thành hiện thực!
Nhưng ở bước cuối cùng, anh gục chết. Tất cả số đất anh cần giờ đây chỉ là ba tấc đất mà thôi.