Trong tất cả chúng ta có những hạt giống tự hủy hoại mà nếu để chúng sinh trưởng sẽ chỉ đem lại bất hạnh.
DOROTHEA BRANDE
Bài học này có thể đau đớn với bạn. Thậm chí bạn có thể thấy đôi chút chột dạ, nhất là khi bạn nhận ra đôi nét tính cách tưởng chừng vô hại nhưng đột nhiên lại khiến bạn thấy rằng chúng đang hủy hoại bất kỳ cơ hội thành công nào – để đạt đến khả năng tiềm ẩn đích thực của bạn.
Khi chiếc xe hơi của bạn hỏng hóc, thợ máy phải xác định được nguyên nhân gây hỏng rồi mới sửa. Khi bạn bệnh, bác sĩ cũng phải chẩn đoán căn bệnh qua những biểu hiện và triệu chứng rồi mới tiến hành chữa trị. Tuy nhiên, bạn có thể toàn gặp thất bại suốt cuộc đời và không ai có thể giúp bạn, đơn giản vì bạn trong tiềm thức luôn cứ cố ngụy trang cho những nguyên nhân thất bại của mình thậm chí với cả bản thân!
Quyển sách của Dorothea Brande Tỉnh lại và Sống đi! (Wake Up and Live!) được xuất bản vào năm 1936, ở tận đáy của thời kỳ Đại suy thoái. Nó là chiếc phao cứu sinh cho một quốc gia đang đắm chìm trong cơn tuyệt vọng của chính mình và những thông điệp của quyển sách ngày nay vẫn còn nguyên ý nghĩa như trong những năm tháng đen tối đó.
Hãy hết sức chú ý người phụ nữ tuyệt vời sau, cô đã học được cách làm sao thay đổi cuộc sống sau khi phát hiện một số sự thật chấn động về bản thân và về tất cả chúng ta. Và nếu sự thật mất lòng, hãy nên tôn trọng. Đó là lý do vì sao bạn lại ở đây, phải không nào? Để biết về bản thân. Để chữa cho bạn khỏi thất bại.
Từ những nguyên tắc của Schopenhauer và Freud, của Nietzsche và Adler, tất cả chúng ta trở nên rành rẽ những thuật ngữ như Ý chí sống (Will to live) và Ý chí quyền lực (Will to power). Những thuật ngữ này – đôi khi gần như cường điệu – thể hiện những cách dẫn dắt sinh vật hướng tới sự hoàn thiện và phát triển, tương ứng với những sự thật của trải nghiệm mà mỗi chúng ta đều quen thuộc. Chúng ta đã thấy trẻ em đấu tranh để thể hiện bản thân và cá tính; cũng như thời còn trẻ, chúng ta luôn hài lòng khi có một cơ hội để thử những sức mạnh đang trỗi dậy trong bản thân; sau cơn bệnh dài chúng ta cảm thấy một sự sung sức trở lại dâng tràn trong huyết quản. Chúng ta biết rằng bất cứ người bình thường nào trong những hoàn cảnh không may cũng sẽ có vẻ nghèo nàn, đau buồn, tủi hổ, với những điều kiện mà đôi khi người ta sẽ thấy còn tệ hơn là chết; và chỉ có sự hiện diện của một ý chí phải tiếp tục sống mới có thể lý giải cho sự bám víu bền bỉ vào quyền được thở và tồn tại đơn thuần của một người ở trong những tình cảnh như vậy.
Hơn nữa, trước tiên chúng ta phải trải nghiệm rồi sau đó mới chuyển sang nhận biết quá trình trưởng thành trong chính chúng ta. Cá nhân chuyển từ tuổi ấu thơ sang thanh niên, từ tuổi thanh niên sang trưởng thành; và ở mỗi cuộc khủng hoảng như vậy, chúng ta nhận thấy những hoạt động và những sở thích của thời kỳ trước được thay thế bằng những cái mới, rằng Tự nhiên đang chuẩn bị cho sinh vật đảm nhiệm vai trò mới của nó trong đời, thực sự giúp chúng ta hòa hợp với những yêu cầu dành cho chúng ta bằng cách cho ta thấy những hạnh phúc và phần thưởng trong giai đoạn sắp đến sẽ thay thế những gì chúng ta bỏ lại.
Nhưng ý tưởng về một ý chí khác, một ý chí đối nghịch, Ý chí thất bại, Ý chí chết không dễ dàng được chấp nhận. Suốt một thời gian, đó là một trong những nguyên lý của các nhà phân tâm học, chẳng hạn như không cá nhân nào có thể thực sự tiêu hóa nổi trong trí tưởng tượng cái ý niệm anh ta có thể chấm hết. Ngay cả những ước mơ được chết và nguy cơ tự sát của những bệnh nhân trầm kha cũng chỉ dựa trên ý nghĩ báo thù: Cách lý giải là bệnh nhân đó nghĩ rằng mình sẽ tiếp tục sống, tuy vô hình nhưng có thể thấy được sự ăn năn và hối hận của những kẻ khiến anh ta cảm thấy bị bạc đãi vì cái chết của anh ta.
Thực ra Freud đã phân tích các bệnh nhân bị kiệt quệ vì chiến đấu lâu ngày sau Thế chiến thứ nhất và công bố một chuyên khảo mà trong đó ông phát biểu rằng thỉnh thoảng ông tìm được những giấc mơ thật sự cho thấy ước ao được chết. Chuyên khảo này có đủ một số suy đoán và đề xuất tuyệt vời nhất của Freud; nhưng với sự xuất hiện trong những nghiên cứu tâm lý phổ thông ý niệm rằng có thể có một dòng ý nghĩ hướng đến cái chết chảy qua cuộc đời chúng ta, thì dường như luận án này chưa từng được đề cập.
Vậy nhưng chết đi cũng là một trải nghiệm giống như sinh ra và lớn lên; và nếu Tự nhiên chuẩn bị cho chúng ta trước mỗi giai đoạn mới của cuộc đời bằng cách triệt đường những ham muốn cũ và mở ra những viễn cảnh mới, thì có vẻ không quá khó để nghĩ rằng chúng ta luôn từ từ nhẹ nhàng hòa hợp với sự buông bỏ sau cùng những gì chúng ta giữ gìn yêu quý như những sinh vật đang sống. Và việc ngừng đấu tranh, từ bỏ mọi nỗ lực, giải phóng ham muốn và tham vọng sẽ là những động thái bình thường trong một cơ thể đang nhẹ nhàng được khuyến dụ rời khỏi cuộc sống mà nó đang chiếm giữ.
Vì lý do này chúng ta được quyền nhìn vào Ý chí thất bại như một thực tế.
Bây giờ, nếu mãi đến cuối đời ta mới thấy mình trì trệ, sợ sệt, muốn tìm hoạt động thay thế, nỗ lực không hết mình, thụ động và cam chịu, hay đắm đuối trong bệnh tật và mệt mỏi, nếu những thứ đó chưa hề cản trở ta trong khi chúng ta nên ở trong tình trạng hoàn toàn sung sức, thì chẳng có lý do gì để công kích Ý chí thất bại này như thể nó là kẻ tử thù của tất cả những gì tốt đẹp và hiệu quả của chúng ta – mà quả thật là vậy. Nhưng nếu xuất hiện khi còn trẻ hay hoàn toàn trưởng thành thì nó là triệu chứng của thứ gì đó sai lầm – một sự sai lầm sâu thẳm bên trong – của cuộc đời một người, giống như ngủ gà gật không đúng lúc là triệu chứng của một cơ thể không khỏe mạnh.
Và nếu dễ thấy tên ác nhân hiểm độc như nó là, khi nó xuất hiện không đúng lúc thì sẽ dễ chiến đấu hơn. Nhưng hầu như ta luôn thấy ổn với quyền năng của nó trước khi ta họa hoằn có chút nghi ngại ngờ ngợ rằng tất cả những điều đó lẽ ra không nên xảy đến với ta. Chúng ta cũng đã quen nói về thất bại, thất vọng, sợ hãi như những thứ tiêu cực, khi bị thôi thúc phải tranh đấu với dấu hiệu của thất bại thì cũng giống như việc phải chiến đấu với cối xay gió.
Khi còn trẻ, chúng ta hiếm khi tự mình nhận ra những triệu chứng. Chúng ta lý giải sự chần chừ không muốn bắt đầu là tính rụt rè tự nhiên của lính mới tò te, nhưng sự chần chừ đó cứ tồn tại, năm tháng qua đi, rồi chúng ta chợt tỉnh khi đã mất hết tinh thần để thấy được rằng cái từng là sự khiêm cung ý nhị tuổi trẻ trong chúng ta giờ là thứ gì đó hoàn toàn khác lạ, ủy mị và thật đáng tởm. Hay chúng ta thấy tự nhiên như ở nhà khi phải gánh trách nhiệm bào chữa cho việc chúng ta sao chưa bao giờ làm việc một cách sốt sắng. Chúng ta không thể bỏ mặc thứ này thứ nọ tương đối đơn độc và không phòng vệ. Rồi gia đình lớn lên, ly tán, và chúng ta bị bỏ một mình, hoạt động thay thế khiến chúng ta bận rộn đã rời bỏ chúng ta không thương xót, và chúng ta phát ốm, kinh hoàng với ý tưởng phải quay lại thực hiện những dự định đã bỏ dở từ lâu.
Hoặc chúng ta sẽ viện mọi lý do hay ho nhất để không làm. Hầu hết chúng ta ở trong tình thế cần phải chọn giữa làm việc và chết đói, công việc chúng ta có thể tìm được khi tình thế buộc ta phải bắt đầu kiếm sống không phải là công việc lý tưởng phù hợp cho chúng ta. Khi kết hôn và gánh vác trách nhiệm nuôi sống gia đình, những nhu cầu thiết yếu tất thảy đều trở nên cấp bách hơn. Chúng ta có thể sẵn lòng chờ trong đôi ba năm nếu không ai ngoài ta phải chịu đựng, nhưng yêu cầu người khác làm vậy sẽ cần viện đến nhiều sự ích kỷ và nhiều can đảm hơn chúng ta có thể.
Đặc biệt là ở Mỹ, khi kết hôn vì tình yêu là luật, hầu hết người trẻ bắt đầu đời sống hôn nhân mà vốn liếng chẳng có gì nhiều ngoài sức khỏe, tuổi trẻ và trí tuệ. Chúng ta quen với suy nghĩ kiểu châu Âu, rằng đòi hỏi tiền hồi môn, tiền cưới từ nhà gái thì có phần hèn mọn và vụ lợi quá. Vậy nhưng cứ chăm chăm dựa vào số tiền dự phòng ít ỏi, mà để xây dựng một gia đình mới thì đòi hỏi nhiều hơn mới đáp ứng được nhu cầu, và việc chúng ta không có những phong tục như tiền hồi môn có thể là một lý do khiến nước Mỹ, vốn được tán dương là Miền Đất Cơ Hội, lại đầy những người đàn ông và đàn bà ở tuổi trung niên phí phạm bản thân vào kiếp lao dịch, những vị trí lấp vào cho có không đem lại niềm vui cho họ, lúc nào họ cũng trông đợi một tương lai mà hứa hẹn hạnh phúc nhất cũng là những năm tháng sống đơn điệu, còn ác mộng tệ hại nhất là thất nghiệp kéo theo nghèo đói.
Nhu cầu vớ lấy công việc đầu tiên tìm được là đủ để lý giải vì sao quá ít người trong chúng ta từng cố tìm cách để các kế hoạch của mình được thành tựu. Trước nhất, chúng ta thường có một ý hướng chắc chắn không để đi chệch khỏi mục tiêu thực sự, mặc cho thực tế là chúng ta phải kiếm sống với một công việc không phù hợp. Chúng ta dự định sẽ luôn để mắt đến những hoài bão của mình và thực hiện nó bằng mọi cách – ngày đêm, sớm tối, kể cả ngày nghỉ. Nhưng công việc chín giờ mỗi ngày, năm ngày mỗi tuần quá mệt và đòi hỏi nhiều; phải có sức mạnh như siêu nhân để đi làm việc một mình trong khi cả thế giới đang đi chơi, và dù sao thì chúng ta cũng chưa bao giờ thấy bất kỳ bằng chứng nào rằng chúng ta sẽ thành công nếu cứ tiếp tục. Thế là ta không hề nhận ra mình đã bị cuốn vào dòng chảy Ý chí thất bại. Chúng ta cứ di chuyển mà không thấy rằng mình đang xuôi theo dòng.
Hầu hết chúng ta đều che giấu thất bại của mình; chúng ta che giấu tốt nhất là với chính bản thân mình. Không khó để lờ đi thực tế chúng ta làm ít hơn nhiều so với khả năng có thể, rất ít những thứ chúng ta đã lên kế hoạch dù là khiêm tốn được thực hiện trước một độ tuổi nào đó, và chắc hẳn tất cả không bao giờ như ta hy vọng. Một lý do khiến ta dễ lừa dối bản thân là trên đường đời chúng ta dường như ngầm đi đến một sự đồng thuận giữa những người đàn ông kiểu như bạn bè và người quen. “Đừng nhắc đến thất bại của tôi”, chúng ta ngầm cầu xin, “và tôi sẽ không bao giờ thốt ra tí gì về việc anh không làm hết tất cả những điều mà tôi nên kỳ vọng ở anh”.
Và chúng ta lướt qua thế giới mà không đóng góp gì, không khám phá tất cả những gì chính chúng ta phải làm, không tận dụng từng giây từng khắc khả năng của chúng ta, dù là bẩm sinh hay học được. Nếu chúng ta xoay xở để trở nên tương đối thoải mái, để nhận được sự tôn trọng và ngưỡng mộ nào đó, mùi vị của “có uy quyền chút đỉnh” và yêu thương chút đỉnh, thì chúng ta cho rằng mình đã kiếm được một món hời, chúng ta ưng bụng với Ý chí thất bại. Chúng ta thậm chí còn tự thấy kiêu hãnh với sự khôn ngoan của mình, mà chẳng mảy may nghi ngờ là chúng ta đã bị lừa một vố đau đến thế nào, rằng chúng ta chịu yên ổn là vì khoản đền bù cho cái chết chứ không phải phần thưởng cho cuộc sống.
Nếu trò chơi tinh vi mà tất cả chúng ta đang chơi với bản thân mình và chơi với nhau không bao giờ đi đến kết thúc – không dừng lại đôi chút để chúng ta chợt nhận ra chúng rốt cuộc cũng chỉ là trò chơi – Ý chí thất bại sẽ thôi thúc ta xuống dốc từ từ cho đến khi ta quỵ lụy dưới chân nó và không ai mong phản kháng lại. Nhưng trò chơi đôi khi có cách giải tán của nó, ngay khi cao trào nhất; và chúng ta đột ngột tự hỏi sao chúng ta lại làm vậy, sao chúng ta có thể chơi trốn tìm như thể cuộc sống của ta phụ thuộc vào nó, ta muốn hướng đến một cuộc sống thực sự nào trong khi chẳng làm gì hết, hoặc chỉ bận rộn với công việc không đem lại gì hơn ngoài miếng ăn.
Đôi khi khoảnh khắc ấy trôi qua và bị quên lãng mãi cho đến một thời gian dài sau đó, nếu có nhớ lại chút nào. Nhưng một số người chúng ta không bao giờ quên nó. Nếu chúng ta tiếp tục trò chơi, thì nó sẽ hóa thành một cơn ác mộng, và tâm trí ta chỉ nghĩ đến việc làm sao để thoát ra khỏi nó và trở về thực tại. Rồi đôi lúc ác mộng càng đắm chìm hơn; chúng ta hết thử rồi lại thử những con đường trông như thể sẽ đưa ta đến tự do, nhưng rồi chỉ thấy ta trở về giữa Khu vườn Gương của Alice, lại tiếp tục thử tìm rồi lại tìm lối.
Nhưng ta có thể thoát ra, lại khá giống Alice, bằng cách dường như trước hết là quay ngược lại: chấp nhận rằng có thể có một Ý chí thất bại, mà chúng ta có lẽ là nạn nhân.
NHỮNG NẠN NHÂN CỦA Ý CHÍ THẤT BẠI
Nếu Ý chí thất bại báo hiệu sự hiện diện của nó với những triệu chứng đồng nhất và không thể nhầm lẫn như những triệu chứng của bệnh sởi hay cảm lạnh, nó hầu như có thể được chữa tận gốc, hay từ lâu đã có một kỹ thuật để chiến đấu với nó hiệu quả.
Nhưng không may triệu chứng của nó rất khác nhau và nhiều vô kể. Nếu bạn muốn kéo một chàng thị dân trung niên ăn chơi ưa tiệc tùng, khiêu vũ, rạp hát ra khỏi cuộc vui không dứt và giới thiệu anh ta với một triết gia râu ria bụi bặm, quần áo tuềnh toàng, nhà cửa lụp xụp đang nằm mơ mộng dưới ánh nắng, rồi nói: “Tôi muốn hai người quen nhau; hai người có nhiều điểm chung” thì bạn sẽ bị cho là đồ tâm thần, nhưng bạn đã đúng. Anh chàng ăn không ngồi rồi hay mơ mộng, hướng nội, với anh chàng thích nhảy nhót hướng ngoại – theo quan điểm trần tục là những cực đối lập nhau – được thúc đẩy bởi cùng một kiểu động lực; họ không nhận thức rằng cả hai đều cố hướng tới thất bại.
Cuộc sống của họ có một mẫu số chung. “Đừng hành xử như thể ta sẽ sống cả ngàn năm”, Marcus Aurelius tự cảnh tỉnh trong câu cách ngôn của mình. Tất cả những ai đang mắc vào vòng kiềm tỏa của Ý chí Thất bại sẽ hành động như thể họ còn cả hàng ngàn năm để sống. Dù mơ mộng hay khiêu vũ, họ cũng đang tiêu tốn thời giờ quý báu như thể nó vô tận.
Nhưng vì có rất nhiều cách để thất bại, cũng giống như có rất nhiều khoa và phân khoa của những kiểu tâm lý học, nên chúng ta thường không nhận ra sự hiện hữu của Ý chí thất bại ở người khác hay của chính chúng ta. Sau đây là một vài trong vô số cách “hành xử như thể bạn có ngàn năm để sống”:
Chẳng hạn như, có những người ngủ nhiều hơn mức cần thiết để có sức khỏe hoàn hảo từ hai đến sáu tiếng mỗi ngày. Trong bất kỳ trường hợp cá nhân nào, trừ phi thời gian ngủ vượt xa mức bình thường, không thì rất khó để nói chắc rằng người ta không có gì để làm nếu chỉ dựa vào một giấc ngủ dài bất thường. Nhưng khi tính đến sự ép buộc được đưa vào, có thể chắc chắn ai đó là nạn nhân đích thực của thất bại. Những người cảm thấy cáu gắt hay vật vờ nếu không được ngủ sớm, những người mỗi sáng vẫn lo âu tính từng giờ đồng hồ ngủ được đêm hôm trước, than thở không ngừng về bất kỳ cơn gián đoạn nào, về từng giờ mất ngủ, từng tiếng cửa phòng đóng mở không đúng lúc, sẽ muốn ngủ nhiều hơn khả năng phục hồi thông thường. Khi một người trưởng thành mở rộng điều này, biến việc chợp mắt thêm một, hai giấc mỗi ngày trở thành thói quen, thì việc chẩn đoán lại càng dễ dàng.
Kế tiếp, nằm trong số những kẻ thất bại khó nhận thấy, người “hướng nội” là những người sống mê đắm trong cõi mộng: Họ để một số hoạt động trôi qua trước mắt mà hầu như chẳng tham gia, hay chiều theo những hoạt động nhằm giết thời gian chỉ cho được những thứ không có tính xây dựng và thứ yếu nhất: những kẻ bài bạc, những kẻ mọt sách đến bệnh hoạn, những người chơi giải ô chữ suốt ngày, những người chơi xếp hình liên tu bất tận. Lằn ranh giữa thú tiêu khiển và sự ám ảnh không khó nhận ra một khi ta biết nó ở đó.
Những kẻ yêu thất bại dễ nhận diện nhất là những kẻ rượu chè say sưa. Có thể viết cả quyển sách về họ, nhưng đã có quá nhiều rồi. Khi nhậu nhẹt thường xuyên đến độ xuất hiện một kẻ suốt ngày lơ mơ, hay nói sâu hơn là một kiểu sống như chết rồi, thì ai cũng có thể thấy rõ sự hiện diện của Ý chí thất bại. Nhưng có hàng ngàn người thể hiện những triệu chứng bạc nhược kiểu vậy mà họ hầu như không chú ý: Tất cả những ai uống say đều biết sáng hôm sau sẽ rất tồi tệ, gặp vấn đề gì cũng mơ mơ màng màng mãi cho đến khi cơn say chấm dứt; những người mà với họ lần say nào cũng có nghĩa là cảm thấy khó ở, dù nặng hay nhẹ. Bất kỳ ai đã biết sẽ có hậu quả như vậy rồi nhưng vẫn tiếp tục cho bản thân tiếp xúc với chúng thì tức là đã bị kết án phải khao khát gây bất lợi cho chính mình, tối thiểu là vậy. Mà dù uống gì cũng vậy thôi. Nếu cà phê làm bạn khó chịu, nếu bạn không hấp thu được sữa, nhưng bạn vẫn uống, thì bạn có thể thoát khỏi sự chê trách dành cho những kẻ hay uống rượu mạnh, nhưng bạn cũng cùng loại. Và rõ ràng ăn uống thiếu khôn ngoan cũng được xếp vào chung một kiểu.
Chuyển sang kiểu người năng động, có thể nói rằng người hướng ngoại đeo đuổi thất bại như là sự nghiệp căn bản của họ sẽ tìm được quá nhiều cách để thực hiện đến mức không thể kể xiết. Nhưng, như ví dụ đã dẫn, đó là những người đi xem phim hay đi nhà hát không ngơi nghỉ, khiêu vũ suốt đêm, tất cả những người thật buồn chán nếu khi không có một tiệc trà, tiệc tối hay tiệc cocktail,... Không, dĩ nhiên không gì có thể cưỡng lại sự thư giãn và thú tiêu khiển khi chúng đang sẵn sàng mời gọi, sau một quãng thời gian làm việc đóng góp. Nhưng những người phản đối cách phân loại này quá sớm và quá tức giận, kêu rằng người ta phải có sự giải trí, đã tự đưa mình vào con đường chết khi bày ra một giá trị bất thường.
Rồi có những người nửa thất bại nửa không, khó mà xếp loại, như thợ thêu hay đan len, dù công bằng mà nói đôi khi một nhiệm vụ nhẹ nhàng chỉ đòi hỏi sự khéo léo tay chân thì có thể làm trong khi trí óc luôn bận tâm giải quyết một vấn đề thực sự cũng được. Hoàn toàn thành thực với bản thân là tất cả những gì cần thiết để khám phá xem liệu những hoạt động nhịp nhàng có thể tận dụng theo cách này hay cách khác không. Nếu hoạt động đều đều uể oải được hình thành, hay nói theo một cách khác, nếu công việc chỉ cần có chút tỉ mỉ, yêu cầu chú ý nhận thức vừa phải để không hình thành nhịp điệu tự động nào, thì thực sự rất hiếm khi được xếp vào hoạt động sáng tạo đích thực, hay cùng loại với công việc sáng tạo.
Về những người trò chuyện vô thưởng vô phạt, chúng ta dễ nhận thấy những người khác sa vào kiểu trò chuyện như vậy hơn là tự thấy mình trong đó. Thảng hoặc, chúng ta giật mình nhận ra chúng ta đang kể đi kể lại một câu chuyện vặt với cùng một người bạn và chú ý chuyện đó được ít ngày. Đó là một vết trượt nho nhỏ. Chẳng có hồi tưởng, chẳng có nụ cười gượng nào trên môi những người phải nghe ngăn chúng ta lại khi chúng ta cứ thao thao bất tuyệt theo thói quen – những chủ đề lòng vòng không hồi kết, những ý kiến giống nhau cứ máy móc lặp đi lặp lại, những tranh luận nhạt nhẽo để ủng hộ những điều có thời là quan điểm nhưng giờ không khác gì định kiến.
Đôi khi chúng ta nói ra lời cầu kỳ đến nỗi làm người nghe thấy khó chịu. Hẳn phải may mắn lắm mới thức tỉnh được bạn bè ở phương diện này. Bạn có biết một điều gây sốc là bạn cứ mãi mãi nói những lời như: “Ý tôi là”, “Tất nhiên”, “Tôi hình dung rằng”, “Bạn có biết?”, “Bạn biết đó”, “Thực tế là”. Cứ lắng nghe cách mình nói chuyện một lúc xem, bạn sẽ phát hiện ra những từ đệm này sẽ xuất hiện hết lần này đến lần khác trong khi bạn nói chuyện, mà chẳng làm tăng thêm phần mới mẻ hay giá trị gì cho quan điểm. Ở đây, cũng giống như các thể loại khác, rất dễ để thấy có gì đó sai khi một người gặp quá nhiều ví dụ về cái khó. Một người nói chuyện quá kích động thì rõ ràng là có vấn đề tâm thần. Nhưng có những hình thức rất tế vi của cùng một rắc rối đó, thường ẩn kín nhiều năm vì chúng ta cứ lặp đi lặp lại nhưng khán giả thay đổi liên tục, nên hiếm khi hé lộ cho chúng ta.
Vẫn còn có những cách để rơi vào Ý chí thất bại rất mơ hồ và không thể nhận thấy, dù là người hướng nội hay hướng ngoại thì hầu như cũng đều dễ mắc như nhau. Chẳng hạn, hãy xem vô số người cứ thong thả làm những công việc chỉ đòi hỏi một phần nhỏ khả năng và học vấn của họ, và những người cứ tự cuốn mình đi không ngơi nghỉ, vắt kiệt sức vì những chi tiết vô dụng. Đó là những người tham gia những khóa đào tạo sau đại học, trở lại học xá hết năm này qua năm khác như một đám “Người Hà Lan bay”2. Có những người con trai, con gái, mẹ, vợ “đầy hy sinh” (cha hiếm khi được kể ra, vì một số lý do, dù thỉnh thoảng cũng có một người chồng như vậy), họ dành hết cuộc đời mình cho những người trưởng thành khác, nhưng vì họ chưa bao giờ thực sự phát triển được điều gì giá trị nhất với chính họ, nên sự dâng hiến của họ không tạo thêm sự phong phú mà chỉ là một chút dễ chịu không mấy quan trọng ở những đối tượng mà họ “hy sinh” cho. Có những người đảm nhận những nhiệm vụ mà với họ là vượt xa khả năng, hay có dính tới một vấn đề “nghiên cứu” bề ngoài: Chẳng hạn, ở New York có một người đàn ông tập hợp những chi tiết về tiểu sử một chính khách người Ý mơ hồ từ năm thứ hai đại học. Nhà tiểu sử giả tạo ấy giờ đã gần năm mươi mà vẫn chưa viết được một từ nào về Cuộc Đời cuối cùng ấy.
2 Flying Dutchman – Người Hà Lan bay: Là tên con tàu ma mà theo truyền thuyết phải chịu số phận đi luẩn quẩn trong một vùng biển mà không bao giờ có thể cập bờ.
Có lẽ loại vĩ đại nhất trong số những người lấy thất bại làm mục tiêu là những người Duyên Dáng Vô Cùng.
Khi bạn thấy mình có vẻ duyên dáng hơn mức tình huống đòi hỏi, bạn có thể tự cam đoan với bản thân: “A, một kẻ thất bại!”. Ở đây tôi không chỉ trích sự nhiệt tình chân thật, sự thân thiện, hay tính cách dễ thương thật tình. Chúng ta đang nói về những Harold Skimpoles đời thực3, những kẻ ưa tán tỉnh nhưng vô trách nhiệm, có lẽ thiếu suy nghĩ nhưng lại tỏ ra đáng yêu quá mức, kể cả với người lạ! Chỉ khi nghĩ lại người ta mới nhận ra rằng chẳng có lý do đúng đắn nào cho cảm xúc nhất thời cả. Một người trưởng thành lành mạnh không cần tình cảm trìu mến hay ham mê với mọi người ngẫu nhiên quen biết. Trừ phi có ý định phạm tội, không ai kể cả trong mơ muốn trêu đùa với kiểu phản ứng như vậy. Những nạn nhân này chịu áp lực từ nhu cầu khó khăn phải thể hiện sự quyến rũ cũng như không bị quy kết là sắt đá; họ phải tiếp tục càng ngày càng quyến rũ hơn để bù đắp cho vẻ hấp dẫn uể oải của mình, hay phải đối diện với sự thật – chấp nhận rằng họ đã không hoàn thành trách nhiệm tương xứng. Chừng nào còn chưa nhìn ra sự không tương xứng này thì họ có thể tiếp diễn mà không chấp nhận thực tế là họ đang thất bại.
3 Một nhân vật ác có vẻ quyến rũ lạ lùng trong tác phẩm Bleak House của Charles Dickens.
Vậy nên tất cả những kiểu này và vô vàn những cách khác hòng lấp đầy thời gian với những hành động dường như chẳng hề có mục đích gì, hay những thói quen có mục đích sai lầm, tất cả những điều như vậy là kết quả của việc quy phục Ý chí thất bại.
Vậy nên, hãy nhớ rằng những hoạt động này tuy rõ ràng không có mục đích, nhưng trong mỗi trường hợp đều có một ý định sâu xa, có thể phát biểu theo nhiều cách.
Chúng ta có thể nói rằng ý định hiển nhiên nhất là lừa thế giới tin rằng chúng ta đang chứng tỏ hết khả năng của mình. Điều này đặc biệt đúng với các trường hợp mà cuộc sống bên ngoài có hàng ngàn vấn đề nhỏ nhặt, hay một công việc nhọc nhằn được thực hiện tận tâm. Chắc chắn không ai có thể đòi hỏi chúng ta làm nhiều hơn những gì chúng ta đang làm! Có phải chúng ta quá bận rộn đến nỗi không còn một tí thời gian hay sức lực nào để làm thứ gì khác nữa? Một nhiệm vụ vô vị, không ý nghĩa và không làm vừa lòng mà ta phải thực hiện một cách tỉ mỉ không phải là nghĩa vụ của ta chăng? Đó là những câu hỏi mà chỉ cá nhân mới có thể trả lời thành thực với bản thân, thường là trong những khi mất ngủ hay đang khi dưỡng bệnh, khi trí óc thường quá mê mải với những việc vặt vãnh tìm thời gian ngừng lại và xem xét. Về lâu về dài ta thấy chỉ khác đôi chút cách người khác bị dối lừa khéo léo ra sao, nếu chúng ta không làm việc mà chúng ta được trời phú cho giỏi nhất, hay làm tốt việc mà chúng ta gánh vác như là đóng góp của cá nhân ta với thế giới.
Những kẻ lãng phí thời giờ, những tay chơi và cả những người làm việc cật lực phần lớn đều hướng đến việc lừa dối bản thân, hướng đến việc lấp đầy từng xó xỉnh và từng giây phút còn thức để không còn chỗ cho một nỗi nghi ngờ sự vô dụng nào lọt qua. Và ban đêm, dĩ nhiên họ đã quá kiệt sức, không thể nhìn nhận thực tế. Vậy nên những nạn nhân này cho thấy một cảnh tượng đáng sợ một khi họ được nhìn – như là những người mất trí khổ sở, bị nhồi nhét một tập hợp vô nghĩa những thứ rác rưởi, kỳ quặc và những cảm giác, trải nghiệm, thú vui và nhiệt huyết vặt vãnh, tủn mủn, những cảm xúc giả tạo, trong một cỗ quan tài lố bịch là một cuộc đời không thể thay đổi được của họ.
Dù có làm ra vẻ mục đích cao sang gì đi nữa thì động cơ ở đây đã rất rõ ràng cho mọi trường hợp nói trên: ý định, thường là không cố ý, ở đây là lấp đầy cuộc sống với hàng mớ hoạt động hạng hai hay hoạt động thứ yếu đến nỗi không còn thời gian để làm công việc mà mình có khả năng tốt nhất.
Ý định đó nói tóm lại là muốn thất bại.