Nhiều người trong số chúng ta mất cả đời kiếm tìm thành công trong khi nó thường ở gần đến nỗi ta có thể chạm tới và cảm nhận.
RUSSELL H. CONWELL
Bài giảng bạn sắp được “nghe” là một trong những bài kinh điển của mọi thời đại trong số bài nói chuyện về thành công. Được trình bày lần đầu tiên tại cuộc gặp mặt với các đồng đội cũ thời Nội chiến Hoa Kỳ, cuối cùng Russell H. Conwell đã trình bày bài diễn thuyết Những cánh đồng kim cương (Acres of Diamonds) tới hơn năm ngàn lần, mê hoặc khán giả khắp cả nước, với nỗ lực của mình ông đã kiếm được hàng triệu đô-la để thành lập Đại học Temple.
Không ai có khả năng giới thiệu những điều sắp đến tốt hơn là chính bản thân ông.
Bài giảng này được thể hiện trong những hoàn cảnh sau đây: tôi đến thăm một thành phố hay thị trấn, và tôi cố đến sớm để có thể gặp ông giám đốc bưu điện, người thợ hớt tóc, người quản lý khách sạn, hiệu trưởng các trường học, mục sư ở các nhà thờ, và sau đó tôi đến các công xưởng và cửa hiệu, trò chuyện với mọi người, thấu cảm tình hình ở địa phương và tìm hiểu xem lịch sử nơi đó thế nào, họ có những cơ hội gì, và họ đã không làm được gì – mỗi nơi đều từng thất bại trong chuyện gì đó – và rồi tôi đến chỗ diễn thuyết và trao đổi với mọi người ở đó về những chủ đề có thể áp dụng vào địa phương.
Ý tưởng này – Những cánh đồng kim cương – luôn luôn đúng. Ý tưởng đó là ở đất nước của chúng ta, mọi người đều có cơ hội để làm giàu bản thân trong chính môi trường của mình, với kỹ năng, nhiệt huyết và bạn bè của chính mình!
Như bạn thấy đấy, ban cán bộ giảng dạy ở Học viện Thành công của chúng ta không có tuổi nghỉ hưu bắt buộc. Thành công mà bạn sắp được biết là từ một huyền thoại bất tử, hầu như ở ngay trước mắt bạn.
Nhiều năm trước, khi xuôi dòng sông Euphrates và Tigris cùng hội lữ hành Anh, tôi được một ông lão người Ả Rập dẫn đường, ông lão đó chúng tôi thuê từ Baghdad, và tôi thường nghĩ sao mà người dẫn đường ấy lại có những đặc tính giống những người thợ hớt tóc của chúng ta đến vậy. Ông ấy nghĩ nhiệm vụ của mình không chỉ là dẫn đường cho chúng tôi đi theo hai dòng sông, và làm những việc được trả công, mà còn phải giải khuây cho chúng tôi với những câu chuyện kỳ dị lạ thường, từ cổ chí kim, không quen hay đã thuộc lòng. Nhiều chuyện tôi đã quên, tôi mừng vì điều đó, nhưng có một chuyện tôi không bao giờ quên.
Ông lão dẫn đường nắm dây cương dắt con lạc đà của tôi đi dọc theo bờ hai con sông cổ xưa, và ông kể cho tôi nghe hết chuyện này đến chuyện khác cho đến khi tôi phát mệt với các câu chuyện và chỉ vờ lắng nghe. Tôi chưa bao giờ phát cáu với người dẫn đường đó khi ông mất bình tĩnh lúc tôi giả vờ như đang nghe chuyện. Nhưng tôi nhớ ông đã cởi chiếc mũ kiểu Thổ Nhĩ Kỳ ra và huơ huơ thành vòng tròn để tôi chú ý. Tôi có thể nhìn thấy điều đó qua khóe mắt, nhưng tôi quyết định tránh nhìn thẳng vào mắt ông vì sợ ông lại kể một câu chuyện khác. Nhưng rồi cuối cùng tôi cũng nhìn, và ngay lúc đó ông lại bắt đầu một câu chuyện khác.
Ông bảo: “Giờ tôi sẽ kể anh nghe một câu chuyện mà tôi chỉ dành cho những người bạn đặc biệt”. Khi ông nhấn mạnh “người bạn đặc biệt”, tôi đã lắng nghe, và tôi luôn mừng vì lúc đó tôi đã lắng nghe. Tôi chân thành cảm kích, và 1.674 bạn trẻ đang tập trung ở trường đại học này để nghe tôi giảng cũng sẽ vui vì tôi đã lắng nghe. Ông lão dẫn đường kể cho tôi rằng đã lâu lắm rồi ở một nơi không xa sông Indus, có một người Ba Tư tên là Ali Hafed. Ông kể Ali Hafed có một nông trại rất rộng lớn, có vườn cây ăn trái, những cánh đồng, những khu vườn; ông ta có tiền sinh lời, ông là một người giàu có và mãn nguyện. Ông ta mãn nguyện vì giàu có, và giàu có vì ông mãn nguyện. Một ngày nọ có một nhà sư Phật giáo đến nông trại của ông ta, một trong những nhà hiền triết của phương Đông. Ông đến ngồi bên đống lửa và kể cho ông điền chủ già đó về chuyện thế giới của chúng ta được tạo ra như thế nào. Nhà sư kể rằng thế giới này trước kia chỉ là một dải sương mù, và Đấng Toàn Năng nhúng ngón tay của Người vào dải sương mù đó, chầm chậm khuấy đều, rồi dần dần khuấy nhanh hơn và cuối cùng xoáy cuộn dải sương mù đó thành một quả cầu lửa đặc. Quả cầu lửa đó lăn qua khắp vũ trụ này, trên đường đi đốt cháy những dải sương mù khác, và cô đọng hơi ẩm bên ngoài cho đến khi nó rơi xuống thành những trận mưa như thác lũ đổ lên bề mặt nóng bỏng, làm nguội lớp vỏ ngoài. Rồi ngọn lửa còn bên trong bùng ra ngoài xuyên qua màn bụi trồi lên thành núi đồi, thung lũng, đồng bằng và thảo nguyên như thế giới tuyệt trần ngày nay của chúng ta. Nếu khối nóng chảy bên trong này sôi trào ra ngoài và nguội đi nhanh chóng, nó sẽ thành đá hoa cương, nguội chậm hơn thì thành đồng, chậm hơn nữa là bạc, chậm hơn nữa là vàng, sau vàng thì kim cương hình thành.
Nhà sư già nói: “Một viên kim cương là một giọt nắng đông đặc lại”. Giờ thì chuyện này về mặt khoa học là đúng, kim cương thực tế là khoáng chất của nguyên tố carbon từ Mặt trời. Nhà sư già nói với Ali Hafed rằng nếu ông có một viên kim cương to bằng ngón tay cái, ông có thể mua cả tỉnh, và nếu ông có một mỏ kim cương thì ông có thể đưa con cháu lên ngai vàng nhờ ảnh hưởng của khối của cải đồ sộ.
Ali Hafed nghe câu chuyện về kim cương, rằng chúng quý giá thế nào, và đi ngủ với một cảm giác như một người nghèo túng. Ông không mất gì cả, nhưng ông nghèo vì ông không thỏa mãn, vì ông không thỏa mãn là vì sợ mình nghèo. Ông tự nhủ: “Ta muốn có một mỏ kim cương”, rồi ông thức trắng cả đêm.
Sáng sớm hôm sau ông đi tìm nhà sư già. Theo kinh nghiệm tôi biết, một nhà sư sẽ rất cáu gắt khi bị đánh thức lúc sáng sớm, và khi lay nhà sư già tỉnh giấc nồng, Ali Hafed nói:
“Ông có thể chỉ cho tôi nơi tìm thấy kim cương được không?”
“Kim cương! Ông muốn làm gì với kim cương?” “Lý do à, tôi muốn trở nên vô cùng giàu có.” “Vậy thì cứ đi mà tìm chúng. Đó là tất cả những gì cần làm; đi mà tìm, rồi ông sẽ có chúng.” “Nhưng tôi không biết tìm ở đâu.” “À, nếu ông tìm thấy một con sông chảy qua bờ cát trắng, giữa những ngọn núi cao, ở bãi cát trắng đó ông sẽ luôn tìm thấy kim cương.” “Tôi không tin có con sông nào lại như vậy.” “Ồ có chứ, có nhiều là đằng khác. Tất cả những gì ông cần làm là đi mà tìm, rồi ông sẽ có chúng.” Ali Hafed nói: “Vậy tôi sẽ đi”.
Thế là ông ta bán đi nông trại, gom góp tiền bạc, nhờ một người hàng xóm chăm lo cho gia đình và ra đi tìm kiếm kim cương. Ông bắt đầu tìm kiếm, theo tôi là rất đúng đắn, từ dãy núi Mặt trăng. Sau đó ông đổi ý, đi tới Palestine, rồi rong ruổi khắp châu Âu, cuối cùng khi tiền nong đã cạn, ông trở nên rách rưới, nghèo đói khốn cùng, ông đứng trên một bờ vịnh ở Barcelona, Tây Ban Nha, khi một cơn sóng lớn cuộn trào giữa những cột đá. Và người đàn ông nghèo khó, đau đớn, ưu phiền, đang chết dần không thể cưỡng lại cám dỗ gieo mình xuống cơn sóng sắp ập đến, ông chìm dần dưới những bọt sóng, không bao giờ nổi lên trong cuộc đời này nữa.
Khi người dẫn đường già kể xong câu chuyện buồn thảm đó, ông dừng con lạc đà tôi đang cưỡi và đi sắp lại hành lý đang tuột ra khỏi một con lạc đà khác, tôi có dịp suy tưởng về câu chuyện vừa nghe khi ông đi. Tôi nhớ đã tự nói với mình: “Tại sao ông ấy lại dành câu chuyện này cho ’những người bạn đặc biệt’?”. Dường như không mở đầu, không có đoạn giữa, không có kết thúc, không có gì cả. Đó là câu chuyện lần đầu tiên tôi được nghe, là câu chuyện đầu tiên theo kiểu như vậy tôi từng đọc trước giờ, trong đó nhân vật anh hùng chết ngay chương đầu. Chẳng có gì ngoài một chương của câu chuyện mà nhân vật chính đã chết.
Khi người dẫn đường trở về nắm lấy dây cương con lạc đà của tôi, ông quay lại ngay với câu chuyện, kể tiếp phần hai như chưa ngừng nghỉ vậy. Nói về người đàn ông đã mua lại nông trại của Ali Hafed, một ngày nọ ông dắt lạc đà vào vườn uống nước, và khi con lạc đà vục mặt xuống dòng nước cạn của con suối trong vườn, người kế tục Ali Hafed để ý thấy một tia sáng kỳ lạ lóe lên từ bãi cát trắng bên bờ suối. Ông nhặt một hòn đá đen lên, nó phản chiếu vào mắt mọi sắc màu của cầu vồng. Ông đem viên đá đó về nhà và đặt nó bên cạnh tấm ván che lò sưởi lớn rồi quên bẵng đi mất.
Vài ngày sau, cũng chính nhà sư già lại đến thăm người kế tục Ali Hafed, lúc mở cửa bước vào phòng khách, ông đã thấy ánh sáng lóe lên từ phía lò sưởi, ông chạy nhanh lại phía đó và la lên: “Kim cương đây rồi! Ali Hafed đã trở về sao?”. “Không, Ali Hafed chưa trở về, mà đây có phải kim cương đâu. Nó chỉ là viên đá cuội chúng tôi tìm thấy ngay ở trong vườn nhà đây”. “Nhưng ta cam đoan là ta biết đâu là kim cương khi gặp nó. Ta biết chắc chắn đây là một viên kim cương”, nhà sư nói.
Rồi họ hối hả cùng nhau đến khu vườn xưa và đào xới cát trắng bằng tay, thật bất ngờ! Có những viên khác còn đẹp và giá trị hơn cả viên đầu tiên. “Thế rồi”, người dẫn đường kể cho tôi và các bạn đồng hành một sự thật lịch sử, “mỏ kim cương Golconda, mỏ kim cương vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, được phát hiện ra, vượt trội so với ngay cả mỏ Kimberly. Viên kim cương Kohinoor được khảm lên vương miện của Hoàng gia Anh và viên Orloff của hoàng gia Nga chính là từ mỏ này”.
Khi ông lão dẫn đường người Ả Rập kể cho tôi nghe xong phần hai của câu chuyện, ông lại cởi chiếc mũ kiểu người Thổ ra và huơ huơ lên không trung để tôi chú ý vào đạo lý câu chuyện. Những người dẫn đường Ả Rập luôn đưa bài học đạo lý vào câu chuyện của họ, dù họ không phải lúc nào cũng là người đạo đức. Sau khi huơ chiếc mũ, ông ta nói với tôi: “Chính ra Ali Hafed nên ở nhà và đào xới khu vườn, hay bên dưới những cánh đồng lúa mì, thay vì lâm vào cảnh khốn cùng, đói khát và phải quyên sinh ở xứ lạ, ông ta lẽ ra đã có ’những cánh đồng kim cương’. Ở từng tấc đất trên cánh đồng cũ, vâng, chính xác là từng nhát xẻng, đã phát lộ ra những viên đá quý mà sau được trang hoàng cho những chiếc vương miện hoàng gia”.
Khi ông thêm phần bài học đạo lý vào câu chuyện, tôi đã nhận ra vì sao ông dành nó cho “những người bạn đặc biệt”. Nhưng tôi đã không nói với ông về điều đó. Đó là ông lão người Ả Rập có cách nói xa gần như một luật sư, không nói trực tiếp những gì ông không dám nói, điều ông muốn nói là: “theo ý ông, chàng trai nào đó đang du hành dọc theo sông Tigris lẽ ra tốt hơn là nên ở quê nhà nước Mỹ thì hơn”. Tôi đã không nói với ông là tôi có thể hiểu ra điều đó, nhưng tôi đã kể cho ông nghe một câu chuyện mà tôi chợt nhớ ra, tôi nghĩ tôi cũng nên kể ra đây cho các bạn.
Tôi kể cho ông lão nghe chuyện về một người đàn ông sở hữu một trại gia súc ở California năm 1847. Ông nghe tin người ta đã phát hiện ra vàng ở phía nam California, và với cơn mê vàng ông ta đã bán trại gia súc cho đại tá Sutter rồi ra đi không bao giờ trở lại. Đại tá Sutter dựng một cối xay trên một dòng suối chảy qua trại, một ngày nọ cô con gái nhỏ của ông vốc một nắm cát ở khe suối, mang về nhà và rây cát qua kẽ tay trước ngọn lửa, một người khách lúc đó đã nhìn thấy trong cát lóe lên ánh sáng của vàng ròng như thứ vàng đã được phát hiện ở California. Người đàn ông sở hữu trại gia súc muốn vàng, và ông ta lẽ ra chỉ cần vớt nó lên. Thực tế, ba mươi tám triệu đô-la đã được khai thác từ chỉ vài mẫu đất đó từ lúc ấy tới giờ. Khoảng tám năm trước, tôi giảng bài này ở một thành phố được dựng trên trang trại ngày xưa đó, người ta kể cho tôi rằng một phần ba những chủ sở hữu mỏ vàng đã kiếm được một trăm hai mươi đô-la mỗi mười lăm phút từ năm này qua năm khác, dù thức hay ngủ, mà không bị đánh thuế. Bạn và tôi chắc sẽ thích thú với thu nhập như vậy – nếu chúng ta không phải đóng thuế thu nhập.
Nhưng một chuyện minh họa tốt hơn là chuyện xảy ra ở ngay chính Pennsylvania của chúng ta đây. Nếu có điều gì khiến tôi cảm thấy thích thú hơn bất kỳ chuyện nào khác trên bục diễn thuyết, đó là mời một khán giả người Đức ở Pennsylvania lên với tôi và đốt thứ này trước mặt họ, đêm nay tôi cũng thích làm vậy. Có một người sống ở Pennsylvania, không giống như những người Pennsylvania khác, ông có một trang trại, và ông làm giống như những gì tôi sẽ làm nếu có một trang trại, đó là bán nó đi. Nhưng trước khi bán, ông quyết định phải đảm bảo công việc khai thác dầu mỏ chỗ người họ hàng của mình đã, ông này đang khai thác dầu ở Canada, nơi đầu tiên phát hiện dầu ở lục địa Bắc Mỹ. Họ là những người tham gia vào ngành này ngay từ đầu. Nên ông nông dân Pennsylvania viết thư cho người họ hàng đó xin một công việc. Các bạn thấy đó, người nông dân ấy nói chung không phải là một kẻ ngốc. Không, ông ta không ngốc chút nào. Ông ta không bỏ trang trại cho đến khi có việc làm khác. Trong số những kẻ ngốc trên thế gian tôi không thấy kẻ nào tệ hơn kẻ bỏ việc trước khi có việc khác. Chuyện này có sự dính líu đặc biệt đến nghề nghiệp của tôi, và không liên quan gì đến ông nào đang tìm cách ly dị vợ đâu nhé. Khi người nông dân viết thư cho họ hàng, người ấy đã hồi âm: “Tôi không thể cho chú tham gia vì chú chẳng biết gì về ngành khai thác dầu này hết”.
Thế là người nông dân trả lời: “Em sẽ biết”, và với lòng nhiệt thành đáng tuyên dương nhất (tính tốt của sinh viên Đại học Temple) ông tự đặt mục tiêu tìm hiểu về toàn bộ ngành này. Ông bắt đầu trở lại ngày thứ hai Chúa sáng thế, thời kỳ những lớp thực vật dồi dào bao phủ thế giới, sau này biến thành những lớp than đá nguyên thủy. Ông nghiên cứu về chủ đề này cho đến khi phát hiện ra rằng đường dẫn của những lớp than đá đó thật sự cho thứ dầu than đá rất đáng để bơm lên khai thác, rồi ông hiểu được vì sao thứ dầu đó phun lên thành những dòng suối tuôn chảy. Ông tìm hiểu cho đến khi biết nó trông như thế nào, có mùi gì và vị thế nào, làm sao để lọc nó. Bấy giờ ông viết thư gửi người họ hàng: “Em đã hiểu ngành dầu hỏa rồi”. Người họ hàng trả lời: “Vậy được rồi, hãy đến đây”.
Rồi ông bán trang trại của mình lấy 833 đô-la (chẵn, “không một xu lẻ”, theo hồ sơ của hạt). Ông vừa dọn đi thì người chủ mới đến sắp xếp việc lấy nước cho gia súc uống. Ông ta phát hiện ra rằng nhiều năm trước người chủ cũ đã đặt một tấm ván bắt ngang con suối phía sau chuồng ngựa, chặn vào mặt nước chỉ sâu có vài phân. Mục đích của tấm ván ở góc nhọn băng qua con suối đó là để đẩy sang bờ bên kia thứ váng bọt nhìn phát tởm mà gia súc sẽ không đời nào nhúng mũi chúng vào. Nhưng tấm ván đó đã đẩy hết tất cả bọt váng sang một bên, thế là gia súc có thể uống nước bên dưới. Và do đó, chính người đàn ông đã sang Canada ấy suốt hai mươi ba năm trời đã tự chặn một trận phun trào dầu mỏ mà mười năm sau các nhà địa chất bang Pennsylvania đã tuyên bố với chúng ta nó đáng giá một trăm triệu đô-la cho tiểu bang chúng ta, và bốn năm trước, các nhà địa chất của chúng ta lại tuyên bố khám phá này đáng giá cho tiểu bang của chúng ta một tỷ đô-la. Người đàn ông sở hữu khu đất, mà nay là thành phố Titusville, đã nghiên cứu chủ đề này từ ngày thứ hai Chúa sáng thế cho đến thời hiện đại. Ông ta nghiên cứu cho đến khi tường tận mọi điều về nó, nhưng ông ta bán toàn bộ với giá 833 đô-la, và tôi nhắc lại, “không một xu lẻ”.
Khi tôi đứng đây tối nay và nhìn quanh cử tọa, tôi lại nhìn thấy cái mà suốt năm mươi năm nay tôi liên tục thấy – những người đang lặp lại sai lầm đó một cách chính xác. Tôi thường ước gì mình có thể nhìn thấy những người trẻ, và rằng Học viện này đêm nay đầy ắp những thầy cô giáo, rằng tôi có thể để họ nói chuyện với nhau. Tôi thích một cử tọa như vậy hơn là vì họ dễ chịu ảnh hưởng nhất, vì họ không trưởng thành trong những định kiến như chúng ta, họ không bị mắc vào một thói thường nào mà họ không thể phá vỡ, họ chưa gặp thất bại nào như chúng ta; và dù có lẽ tôi sẽ làm việc với cử tọa trẻ như vậy tốt hơn là với người lớn, nhưng tôi vẫn sẽ cố hết sức mình. Tôi xin khẳng định rằng các bạn có “những cánh đồng kim cương” ở ngay Philadelphia này, nơi các bạn đang sống, nhưng tôi sẽ nói: “Các bạn không thể biết gì nhiều về thành phố của mình nếu bạn nghĩ có ’cánh đồng kim cương’ nào ở đây thật sao”.
Tôi cực kỳ thích thú khi đọc trên báo về chàng trai đã tìm ra kim cương ở North Carolina. Đó là một trong những viên kim cương tinh khiết nhất từng được phát hiện, và nó còn có nhiều người tiền nhiệm ở gần khu vực phát hiện nữa. Tôi đã đến gặp một giáo sư lỗi lạc ngành khoáng vật học và hỏi ông rằng ông nghĩ những viên kim cương đó có nguồn gốc từ đâu. Vị giáo sư trải tấm bản đồ địa chất lục địa Bắc Mỹ ra và truy dấu nó. Ông bảo rằng nó xuất phát từ một địa tầng thuộc kỷ carbon nằm sâu bên dưới được thích nghi để tạo ra kim cương như vậy, về phía tây quãng Ohio và Mississippi, hoặc có thể nó đến từ phía đông, quãng Virginia và lên đến bờ Đại Tây Dương. Sự thật là có kim cương ở ngay đó, chờ được phát hiện ra và bán; chúng được đưa đến đó qua thời kỳ trôi dạt lục địa, từ một vùng đất phương bắc nào đó. Giờ thì ai có thể nói người nào xuống Philadelphia này để tìm dấu vết một mỏ kim cương không thể tìm được gì chứ? Bạn tôi ơi, bạn không thể nói chắc rằng bạn không phải là một trong những chủ mỏ kim cương lớn nhất thế giới.
Nhưng điều đó chỉ đơn giản là minh họa cho ý của tôi, mà tôi sẽ nhấn mạnh bằng cách nói rằng nếu bạn không có một mỏ kim cương thật sự nào theo nghĩa đen, thì bạn cũng có tất cả những điều tốt đẹp dành cho mình. Bởi vì giờ đây Nữ hoàng Anh đã ban lời khen nồng nhiệt nhất cho một người phụ nữ Mỹ vì không phục sức bất kỳ món nữ trang nào trong bữa tiệc chiêu đãi mới đây ở Anh, dù sao thì mốt dùng kim cương cũng đã qua rồi. Điều mà bạn nên chăm chút là đeo càng ít trang sức càng tốt nếu bạn muốn khiêm tốn, phần còn lại bạn nên bán đi.
Vậy bây giờ, tôi xin nói một lần nữa rằng cơ hội để làm giàu, để đạt được khối tài sản kếch xù, chính là ở Philadelphia ngay lúc này, trong tầm tay của tất cả những người đến đây nghe tôi nói tối nay, đó là điều tôi muốn nói. Tôi đến để nói với bạn những dấu hiệu của Chúa mà tôi tin là sự thật; rằng những người đàn ông và phụ nữ ngồi ở đây, dù có thể cảm thấy khó mà mua được một tấm vé đến nghe bài giảng tối nay, đều có trong tay những “cánh đồng kim cương”, cơ hội để có tài sản lớn hơn. Không nơi nào trên thế giới thích hợp hơn Philadelphia ngày hôm nay, và chưa có lúc nào trong lịch sử một người nghèo không chút vốn trong tay lại có cơ hội để làm giàu nhanh chóng và trung thực như lúc này ở thành phố chúng ta. Tôi tuyên bố rằng đó là sự thực, và tôi muốn bạn chấp nhận những cơ hội như vậy; còn nếu bạn nghĩ tôi đến đây chỉ để kể đôi ba câu chuyện thì tôi lẽ ra không nên ở đây.
Bạn sẽ nói: “Ông không thể khởi nghiệp mà không có vốn”. Bạn trẻ ơi, hãy để tôi minh họa một chút. Tôi phải làm vậy thôi. Đó là nghĩa vụ của tôi với mọi bạn trẻ, vì tất cả chúng ta đều đi làm ăn từ rất sớm theo cùng một cách. Bạn trẻ này, nếu bạn biết con người ta cần gì thì bạn đã có được tri thức đáng giá một kho tàng, hơn bất kỳ số vốn nào bạn được cấp.
Có một người đàn ông nghèo khó không nghề nghiệp sống tại Hingham, Massachusetts. Anh ta cứ đi lông bông cho đến khi vợ anh ta bảo rằng anh hãy ra ngoài kiếm việc mà làm đi, và vì anh sống ở Massachusetts nên anh ta đã nghe lời vợ. Anh ra ngoài đến ngồi bên bờ vịnh, đẽo một tấm ván ướt thành một xâu chuỗi bằng gỗ. Các con anh tối đó tranh nhau chuỗi vòng, và anh lại đẽo một cái thứ hai để chúng chịu yên. Trong khi anh đang đẽo cái thứ hai thì một người hàng xóm đến và nói: “Sao anh không thử đẽo đồ chơi và bán xem? Anh có thể kiếm tiền đấy”. “À”, anh đáp lời, “nhưng tôi không biết làm thế nào”. “Sao anh không hỏi bọn trẻ nhà anh xem làm thế nào?” “Có ích gì đâu chứ?”, anh chàng đẽo gỗ đáp. “Con tôi khác con người khác mà.” (Tôi thường gặp những người kiểu này khi dạy ở trường.) Nhưng anh ta vẫn làm theo lời gợi ý, sáng hôm sau khi con gái Mary của anh xuống dưới nhà, anh hỏi: “Con muốn đồ chơi gì nào?”. Bé bắt đầu tả cho anh rằng bé thích làm một cái giường, một bồn rửa soi gương, một cỗ xe, một chiếc ô cho búp bê và tiếp tục một lô một lốc các thứ mà anh hẳn phải mất cả đời mới làm được hết. Và, theo lời gợi ý của các con, trong ngôi nhà của mình, anh lấy củi đốt – vì không có tiền để mua gỗ xẻ – và đẽo cật lực, tạo nên những món đồ chơi gỗ mộc hiệu Hingham đã nổi tiếng nhiều năm nay trên khắp thế giới. Người đàn ông đó ban đầu làm đồ chơi cho con, sau đó làm thêm những bản sao và bán chúng tại cửa hiệu giày dép bên cạnh nhà. Anh bắt đầu kiếm được ít tiền, rồi thêm một chút nữa, và tác giả Lawson trong cuốn Tài chính điên cuồng (Frenzied Finance) cho rằng đó là người đàn ông giàu nhất Massachusetts, và tôi nghĩ đúng như vậy. Ngày nay ông ta đáng giá hàng trăm triệu đô-la, đã làm việc suốt ba mươi bốn năm nay chỉ theo một nguyên tắc: Người ta phải biết rằng con mình ở nhà thích gì, thì con cái của những người khác cũng thích như vậy; phải am hiểu tâm hồn con người từ bản thân mình, từ vợ con mình. Đó là con đường huy hoàng dẫn đến thành công trong ngành sản xuất. “Ồ”, nhưng bạn sẽ nói rằng “ông ấy không có một đồng vốn nào sao?”. Có chứ, một con dao nhỏ, nhưng tôi không nghe nói ông ta phải trả tiền cho nó.
Tôi đã kể câu chuyện này cho khán giả ở New Britain, Connecticut, một người phụ nữ ngồi ở băng bốn ghế phía sau khi về nhà, cố mở cổ áo thì nút áo ở cổ bị kẹt trong lỗ khuy. Cô bứt nó ra và nói với chồng, “Em sẽ kiếm thứ gì đó tốt hơn cái thứ này để gắn lên cổ áo”. Chồng cô trả lời: “Sau những gì ông Conwell nói tối nay, giờ em đã thấy nhu cầu cho việc cài khuy cổ áo dễ dàng hơn. Nơi nào có nhu cầu, nơi đó có tiền. Vậy hãy sáng tạo ra một cái khuy cổ áo đi và làm giàu nào”. Anh chồng trêu vợ, và chung quy là cười cợt tôi, đó là một trong số những điều buồn nhất lướt qua tôi như một đám mây mù thảng hoặc trong đêm khuya – dù tôi đã lao tâm vất vả suốt hơn nửa thế kỷ qua nhưng tôi vẫn chưa làm được gì nhiều. Bất chấp những lời khen to tát và hào phóng của các bạn trong tối nay, tôi tin không đến một phần mười các bạn đây có ý định kiếm một triệu đô-la vì đã có mặt ở đây; nhưng đó không phải lỗi của tôi mà lỗi ở các bạn. Tôi nói thật lòng. Bài nói chuyện của tôi để làm gì khi mọi người không bao giờ làm theo những gì tôi khuyên? Khi người chồng trêu vợ, cô ấy quyết định sẽ làm ra một chiếc khuy cổ áo tốt hơn, và khi đã quyết chí “sẽ làm”, và không nói gì, cô ấy sẽ thực hiện. Đó chính là người phụ nữ ở New England người đã phát minh ra khuy bấm mà giờ bạn thấy ở khắp nơi. Đầu tiên nó là một khuy cổ áo với phần nắp lò xo gắn vào phần nút. Ai từng mặc áo mưa hiện đại sẽ biết kiểu nút chỉ cần bấm lại, và khi tháo thì chỉ cần đơn giản tách ra là xong. Đó là kiểu khuy mà tôi thích, chính người phụ nữ ấy đã phát minh ra. Sau này cô còn phát minh ra nhiều kiểu nút nữa và đầu tư vào nhiều hơn, trở thành đối tác của những nhà sản xuất lớn. Giờ người phụ nữ đó đi nước ngoài vào mỗi dịp hè trên chiếc tàu hơi nước sở hữu riêng – vâng, và còn đưa chồng đi cùng nữa! Nếu chồng cô qua đời, cô hẳn có đủ tiền để mua một ngài công tước, bá tước hay một vị quý tộc nào kiểu vậy ở nước ngoài theo thời giá khi đó.
Bài học của tôi từ sự kiện này là gì? Đó là: Lúc đó tôi đã nói với cô ấy, dù tôi không biết cô, những điều mà giờ tôi sẽ nói với các bạn: “Giàu có ở rất gần bạn. Bạn đang nhìn lướt qua nó đấy”; và cô ấy quả đã nhìn lướt qua nó vì nó ở ngay dưới cằm cô ấy mà.
Những nhà phát minh vĩ đại trên thế giới là ai? Nhà phát minh vĩ đại ngồi ngay cạnh bạn, hay bạn chính là người ấy. “Ơ”, bạn sẽ thốt lên. “Tôi chưa từng phát minh ra bất cứ thứ gì trong đời.” Người ta không phải là nhà phát minh vĩ đại cho đến khi khám phá ra một bí mật lớn. Bạn có nghĩ người đó là một người với cái đầu to tướng, hay một người trông như bị sét đánh? Cũng không. Người vĩ đại thật sự là một người giản dị, bình thường, không phức tạp. Bạn không thể tưởng tượng người ấy là một nhà phát minh vĩ đại nếu chưa từng thấy những gì anh ấy thực sự làm. Hàng xóm của người ấy không nhìn nhận anh ấy vĩ đại. Bạn không bao giờ thấy điều gì vĩ đại ở bên kia bờ rào. Bạn nghĩ rằng hàng xóm của mình không có ai vĩ đại. Nó phải ở đâu xa xôi kìa. Sự vĩ đại của họ quá đơn giản, quá chân chất, đứng đắn, quá thực tế đến nỗi hàng xóm và bạn bè không bao giờ nhận ra.
Sự vĩ đại không chỉ gồm việc sở hữu một văn phòng nào đó trong tương lai, mà thực sự cốt ở chỗ thực hiện những kỳ công vĩ đại chỉ với những phương tiện nhỏ nhoi. Để trở nên vĩ đại, người ta phải vĩ đại ở đây, ngay lúc này, tại Philadelphia. Người đó có thể đem đến cho thành phố này những con đường tốt hơn, những vỉa hè tốt hơn, những ngôi trường tốt hơn và nhiều trường đại học hơn, hạnh phúc hơn và văn minh hơn, giàu đức tin hơn, anh ta có thể vĩ đại ở bất cứ đâu. Mỗi người ở đây hãy ghi nhớ rằng nếu các bạn muốn vĩ đại dù ở bất cứ việc gì, bạn phải bắt đầu từ ngay vị trí của mình và con người của mình, tại Philadelphia, ngay lúc này. Người đó có thể đem lại một phúc lành cho thành phố, người đó có thể là một công dân tốt khi sống ở đây, người đó có thể xây dựng những ngôi nhà tốt hơn, người đó có thể mang lại hạnh phúc dù làm việc ở cửa hàng hay ngồi sau quầy thu ngân, bất cứ việc gì trong cuộc sống, người đó sẽ trở nên vĩ đại ở bất kỳ đâu, phải trở nên vĩ đại ở Philadelphia của mình trước.