Mainz 2001-2006
Chiến thắng 1-0 của Klopp trước Duisburg ở trận ra mắt trên tư cách huấn luyện viên giúp anh có được trận đấu thứ hai. “Mọi người muốn biết chúng tôi sẽ bổ nhiệm ai làm ‘huấn luyện viên thực sự’ sau trận đấu với Duisburg, bởi tôi đã giới thiệu anh ấy trước báo chí là một huấn luyện viên tạm quyền,” Christian Heidel cho hay. “Thế nên tôi nói: ‘Jürgen Klopp sẽ ngồi đây ít nhất cho tới cuối tuần’.” Cuối tuần đến và mang về cho họ chiến thắng 3-1 trên sân nhà trước Chemnitz. Mainz vẫn ở trong khu vực xuống hạng (vị trí thứ mười lăm) nhưng chỉ bởi hiệu số bàn thắng thua. Klopp được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng cho đến cuối mùa. Anh dọn tủ đồ cá nhân một cách miễn cưỡng và chuyển vào một văn phòng nhỏ dành cho huấn luyện viên. “Tôi thấy thật khó khăn,” anh nói với Reinhard Rehberg.
“Chúng tôi có động lực,” Sandro Schwarz cho hay. “Chúng tôi cảm thấy rằng huấn luyện viên là một trong số chúng tôi, rằng chúng tôi là một cộng đồng lớn, với một người, là Kloppo, cầm lá cờ đầu. Có cảm nhận rằng mọi thứ đều đang ở trong tay chúng tôi, rằng mọi thứ đều do chúng tôi quyết định. Chúng tôi sở hữu niềm tin bất khuất, nhưng cũng có một kế hoạch ra trò hướng đến chiến thắng. Thứ này dẫn đến thứ kia.”
Klopp theo dõi những buổi tập trên đỉnh một ngọn đồi nhỏ cạnh sân đấu thuộc quyền sở hữu của hội đồng thành phố mà Mainz dùng để tập luyện. “Hồi đó tôi chưa có năng lực quan sát, để rút ra một cái nhìn tổng quan rõ ràng từ sân tập,” anh nói. “Đội chơi mười một đấu mười một, và khi tôi cắt còi, tất cả các cầu thủ phải đứng yên, giống như trong ‘Thử thách Mannequin’ rồi chờ tôi chạy xuống và chỉ cho họ chỗ mà khoảng cách giữa các tuyến trở nên quá lớn.”
“Klopp không thể chịu đựng nổi thất bại,” Jürgen Kramny nhớ lại những ngày đầu. “Đó là một nhân tố quan trọng, bên cạnh những thay đổi về chiến thuật. Anh ấy thường tham gia đá sân năm người với các cầu thủ dự bị vào sau hôm diễn ra trận đấu. Bất kỳ ai cùng đội với anh ấy đều không có một ngày dễ chịu. Anh ấy được thúc đẩy bởi tham vọng. Anh ấy có thể tỏ ra vô cùng thẳng thắn với mọi người.”
Schwarz nhớ lại những buổi tập với “cường độ cực đại”, được thiết kế nhằm giúp đội bóng đạt thể lực tốt nhất cho trận đấu sắp tới. Mỗi cuối tuần là một trận chung kết. “Chúng tôi chẳng nghĩ gì khác ngoài việc thể hiện ở trận đấu kế tiếp đó. Chúng tôi hệt như lũ ngựa bị bịt mắt. Chúng tôi đã duy trì một chuỗi trận thành công ngoài mong đợi. Đó là một kết quả hợp lý từ cách chúng tôi đối đãi với nhau và từ những màn trình diễn của cả đội.”
Mainz có thêm tám điểm từ bốn trận tiếp theo để thoát khỏi nhóm xuống hạng. Sau cú lội ngược dòng 4-2 trên sân khách trước Hannover 96 (họ bị dẫn 2-0 vào giờ nghỉ), đội bóng gần như an toàn khi giải đấu chỉ còn một tháng. “Trên đường về từ Hannover, chúng tôi dừng ở một trạm nghỉ và bố mẹ của Christof Babatz cho chúng tôi vài đồ uống để mang lên xe buýt,” Schwarz nói. “Chúng tôi lái xe thẳng đến một câu lạc bộ đêm có tên Euro Palace ở ngoại ô Mainz. Kloppo là trung tâm của bữa tiệc. Anh ấy muốn ở bên chúng tôi, những học trò của anh ấy, thay vì ngồi ở nhà, trên ghế sofa. Nhưng ngày hôm sau, đúng 10 giờ sáng, tất cả mọi người lại có mặt và tiếp tục. Phân tích băng hình, xem xét những sai lầm và biện pháp cải thiện. Là huấn luyện viên của chúng tôi nhưng anh ấy luôn muốn góp mặt vào lúc chúc tụng. Điều đó thật tuyệt.”
Cú thoát hiểm khó tin của Mainz được xác nhận với trận hòa 2-2 trên sân nhà trước LR Ahlen ở ngày thi đấu áp chót. “Jürgen, Jürgen, Jürgen,” các cổ động viên hô vang khi anh chạy về phía họ, khoác tay cùng các cầu thủ. “Tôi thấy bứt rứt,” anh nói sau đó, “tôi chẳng được thi đấu.”
Không còn mục tiêu phấn đấu cho chuyến làm khách trước Waldhof Mannheim nhưng Klopp và Heidel cảm thấy một màn ăn mừng đặc biệt cùng các cổ động viên là việc nên làm. Câu lạc bộ thuê khoảng sáu mươi chiếc xe buýt cho các cổ động viên khách và sau đó mướn “con tàu lớn nhất được phép hoạt động trên sông Rhine” (Heidel) để chở họ, đội bóng và toàn bộ ban huấn luyện ngược dòng trở lại Mainz. “Hồi đó pháo sáng vẫn hợp pháp,” Heidel cho hay. “Cả con tàu ngập trong khói lửa. Một cảnh tượng kỳ vĩ. Một thành lũy lửa, trôi ngược dòng sông trong ánh chập choạng của buổi hoàng hôn.”
Heidel và Klopp tiếp thu được một bài học quan trọng trong những tuần lễ đó. Một Mainz tầm thường chỉ có thể lớn mạnh trên phương diện một câu lạc bộ nếu có các cổ động viên sát cánh. Họ phải cảm thấy thực sự được chung tay, rằng họ là một phần quan trọng trong thành công của Mainz. “Bạn phải lôi kéo mọi người về phía mình, bằng cách luôn ở cùng một cung bậc cảm xúc với họ,” Heidel cho hay. “Chúng tôi phải là một khối thống nhất lớn mạnh. Đó là cương lĩnh và không còn cách nào khác cả. Bạn phải giải thích được những gì bạn muốn, và phải đảm bảo rằng họ góp phần vào thành công của đội bóng. Bạn chỉ có thể làm được điều đó với một người như Klopp dẫn đường. Cậu ấy có thể xông vào khu vực nhóm cổ động viên nòng cốt ở sân vận động và nói với họ: ‘Các cậu điên cả rồi.’ Họ vui vẻ thừa nhận điều đó, được nói ra từ cậu ấy. Cậu ấy luôn chú trọng việc đưa các cổ động viên cùng tham gia. Cậu ấy là một Menschenfänger (theo nghĩa đen là một người nắm bắt và được lòng quần chúng). Rõ ràng là vậy. Cậu ấy làm việc bằng cảm xúc nhưng cũng kèm theo một kế hoạch. Về điểm đó thì chúng tôi hợp nhau.”
Màn đánh cược đã mang lại kết quả. Nhiệm kỳ của Klopp trên ghế huấn luyện được chuyển thành dài hạn, anh ký hợp đồng hai năm, sau khi tham khảo lời khuyên từ huấn luyện viên đồng hương Ralf Rangnick qua điện thoại. Klopp được chính thức giới thiệu là Teamchef, người chỉ huy đội bóng, bởi anh còn thiếu chứng chỉ chuyên nghiệp để dẫn dắt một đội bóng ở Bundesliga hoặc 2. Bundesliga. (Vài năm sau đó, anh đã có thể đáp ứng được tiêu chuẩn nghiêm ngặt của Liên đoàn Bóng đá Đức qua việc nâng cấp tấm bằng của mình.) “Chúng tôi nhận thấy rằng cả đội chấp thuận việc một cựu cầu thủ làm huấn luyện viên. Đấy không phải là một thay đổi lớn bởi cậu ấy đã sở hữu một địa vị đặc biệt khi là cầu thủ, cậu ấy là một thủ lĩnh có đầu óc, hoặc có lẽ tôi nên gọi cậu ấy là bộ não của đội bóng,” Strutz cho hay. “Cậu ấy nhìn sự việc rộng hơn. Bạn cần thấy rằng khi đó chúng tôi không phải câu lạc bộ đang ở đây hôm nay. Mọi người hoặc thấy thương cảm cho chúng tôi hoặc thấy nực cười về chuyện chúng tôi muốn lên hạng. Họ cười khẩy và bảo: ‘Các cậu sẽ chẳng bao giờ làm được đâu.’ Nhưng tôi chưa từng nghi ngờ rằng Klopp sẽ tìm ra cách. Không một phút nào. Không một giây nào. Số mệnh sắp đặt cậu ấy là một huấn luyện viên.”
Quast lại không cho là vậy. “Một lần Strutz nói với tôi điều tương tự. Tôi bảo ông ấy: ‘Vớ vẩn. Nếu ông thực sự không có chút nghi ngờ nào, tại sao ông không bổ nhiệm Klopp hồi mùa thu, trước khi đưa Krautzun vào?’ Khi chuyện đã rồi, thì ai nói cũng hay. Mấy tay huấn luyện viên trước cũng vậy. Họ kể với bạn Klopp gây ngạc nhiên ra sao trong những buổi tập. ‘Cậu ấy luôn có tầm nhìn,’ đại loại vậy. Kiểu ăn theo nói leo. Nhảm nhí. Sự thật là bạn cần một người nào đó gàn dở giống Kloppo để đánh một quả liều như thế: Christian Heidel. Như trò poker vậy, khi bạn chơi tất tay mà chẳng còn gì trong túi.”
Chính Klopp từng kể với Oliver Trust của tờ Frankfurter Allgemeine Zeitung vào tháng 12 năm 2001 rằng anh “sẵn sàng cho việc huấn luyện hơn bất kỳ điều gì trong đời, dù chuyện này nghe thật kỳ quặc. Tôi có nhiều sự tự tin vào khả năng của mình để làm huấn luyện viên hơn là làm một cầu thủ.” Nhiều năm sau, anh thừa nhận điều đó có lẽ không chính xác 100 phần trăm ở thời điểm đó. “Tôi có hàng nghìn câu hỏi nhưng không ai chịu giúp tôi,” anh nói. “Ban đầu tôi thậm chí còn không thể đặt những câu hỏi bởi tôi phải giả bộ mình đã biết mọi thứ.” Klopp nhận thấy anh cần một người bạn tâm giao. Một người duy nhất trong danh sách ứng viên: Zeljko Buvac, đồng đội cũ của anh tại Mainz. “Anh ấy là sự lựa chọn đầu tiên của tôi, và anh ấy cũng sẽ là sự lựa chọn thứ hai và thứ ba của tôi nữa,” Klopp nói về cựu cầu thủ kín tiếng người Serbia, người hơn anh sáu tuổi. “Anh ấy là hiện thân của một học giả bóng đá.”
Cựu cầu thủ dẫn dắt lối chơi, gắn bó với sân Brunchweg từ năm 1992 đến 1995, sở hữu năng lực “đọc trận đấu, đoán biết đối thủ định làm gì, và đưa ra phương án hợp lý, bằng trực giác,” theo Ansgar Brinkmann nhận định. “Klopp chỉ muốn mỗi anh ấy,” Heidel cho hay. “Họ dành hàng giờ nói chuyện về chiến thuật trong ba năm chơi bóng cùng nhau. Họ chung tay để tìm ra cách tốt nhất có thể giúp đội bóng vượt qua mùa giải.”
Tiền vệ người Serbia rời Mainz để đầu quân cho Borussia Neunkirchen (hạng Ba/Tư) vào năm 1995 và bắt đầu sự nghiệp huấn luyện tại đây. “Klopp và anh ấy có một giao kèo,” biên tập viên truyền hình thường trú tại Mainz - Jan Doehling - cho hay. “Họ bảo: bất kỳ ai trở thành huấn luyện viên và có được một công việc ổn định trước sẽ đưa người còn lại vào. Về lý thuyết, Buvac đã có thể là huấn luyện viên của Mainz và Klopp là trợ lý. Nhưng sự thật là thế này: nếu Klopp là một nhân viên kinh doanh, thì Buvac phù hợp ở vị trí hỗ trợ, với những tiểu tiết đằng sau. Anh ấy không bao giờ trò chuyện. Trong từng ấy năm ở Mainz, anh ấy chẳng nói lời nào với ai đó bên ngoài câu lạc bộ. Không một lời. Tôi nhớ có một lần đứng trong phòng thay đồ cùng thủ môn người Hungary Péter Disztl, từng chơi cùng Buvac tại RW Erfurt. Chúng tôi gõ cửa. Buvac mở một cái cửa sổ gần phòng tắm và nói: ‘A, là cậu à,’ rồi lại đóng cửa lại. Tôi bị sốc: anh ấy thực sự đã cất lời! Đó là điều duy nhất tôi từng nghe từ anh ấy.”
Chucky, biệt danh quen thuộc của Buvac với các cầu thủ, tỏ ra nhiều lời hơn trên sân tập. Thi thoảng anh nhập hội, khiến cả đội phục sát đất với kỹ thuật điêu luyện của mình. Dẫu vậy, quan trọng hơn cả, anh là cạ tranh luận của tân huấn luyện viên trưởng, “một ông anh tinh thần” (theo lời Klopp). Thuận lợi thay, Klopp đã có chứng chỉ chuyên nghiệp cần thiết để huấn luyện ở 2. Bundesliga, không như người đàn anh của mình.
“Mọi người nghĩ họ luôn yêu thương nhau nhưng không hẳn vậy: họ tranh cãi đến phát gớm,” Heidel tiết lộ. “Tuy vậy, luôn luôn là về bóng đá. Buvac là người bộc lộ cảm xúc mãnh liệt. ‘Hôn mông tao đây này! Khốn nạn!’ Anh ấy ra khỏi phòng và đóng sầm cửa. Nhưng chỉ năm phút sau, họ lại vui vẻ khoác tay nhau.”
Những buổi tập của đội luôn diễn ra công khai, nhưng chỉ có vài người chú ý đến theo dõi. Doehling và huấn luyện viên bóng đá mới nổi Kosta Runjaić là hai người thường xuyên có mặt tại sân Bruchweg, hoặc tại những khu doanh trại của cảnh sát chống bạo động cấp bang, nơi Mainz luyện tập nếu sân của đội bị ngập. Họ chứng kiến cách bố trí gồm những yếu tố khác nhau đan xen thành một bài tập lý thú. Ai cũng hoạt động, liên tục. “Đối với các cầu thủ, chẳng có gì tệ hơn là việc đứng loanh quanh chờ đợi trong khi những người khác thực hiện một bài tập,” Doehling nói. “Hầu hết những bài tập đều chẳng liên quan mấy với sự vận động liên tục và những thay đổi về nhịp độ trong các trận đấu.” Ý tưởng của Buvac là mô phỏng y nguyên điều đó. Anh bắt các cầu thủ Mainz thực hiện những bài chạy vượt chướng ngại vật, giúp họ hưng phấn trước khi sút khung thành. Ngoài ra còn hơn vậy. Hàng rào và những chiếc cột được dựng lên để khiến đường bật ra của trái bóng trở nên khó lường khi thủ môn cản phá, một cơ hội để tập phản xạ và dứt điểm. Tính ngẫu nhiên như những gì các cầu thủ đối mặt trên sân đấu trở thành một phần của chương trình tập luyện. Doehling: “Họ thực sự rèn luyện để biến những bước di chuyển cụ thể thành bản năng thứ hai, kiểu tự động hóa. Nhưng Buvac phải đảm bảo rằng các cầu thủ không bao giờ được biết điều gì xảy ra tiếp theo.”
Sau này Klopp đã miêu tả Zeljko là “thương vụ đáng giá nhất mà tôi từng và sẽ tạo ra.” Heidel cho hay vụ chiêu mộ đó cho thấy Klopp “không chỉ nghe theo bản năng của mình; cậu ấy suy xét mọi thứ, và cân nhắc một bối cảnh lớn hơn.” Vào năm 2001, tân huấn luyện viên ba mươi tư tuổi này tỏ ra khá thật thà khi thừa nhận rằng anh cần sự trợ giúp. “Đó là một trong những thế mạnh lớn nhất, ở một môn thể thao đầy rẫy cái tôi cá nhân và những kẻ tự cao tự đại: biết mình có thể và không thể làm gì,” Doehling tán dương, “cùng với năng lực học hỏi và tiếp thu kiến thức mau lẹ. Đó thực sự là một ưu điểm lớn.”
Cả đội ngay lập tức hưởng ứng với cách bố trí tinh tế hơn này, khi Mainz thay đổi từ đội hình 4-4-2 sang đội hình 4-3-3 linh hoạt hơn với hơi hướng tấn công. Sau vài tuần đầu ở mùa giải mới, đội ngũ rẻ bèo gồm “những cầu thủ chẳng ai cần” (Klopp) dẫn đầu bảng xếp hạng 2. Bundesliga, thể hiện một thứ bóng đá “đẳng cấp hơn về phẩm chất và chiến thuật so với đa số các đội tại giải”, như tờ Süddeutsche Zeitung ghi lại. Các phóng viên của tờ báo quốc gia được cử đến sân Bruchweg để thẩm định về câu chuyện vịt hóa thiên nga này quay về cùng những lời dẫn gây sửng sốt. Klopp tuyên bố Mainz vận hành trận đấu “độc lập với đối thủ, trừ những tình huống bóng chết”, và rằng “chuyện thắng thua nên là thứ có thể lý giải được, không phải vấn đề về sự trùng hợp ngẫu nhiên hoặc do một pha xoạc bóng trượt ở đâu đó.” Thận trọng để không bị cho là một kẻ biết tuốt theo kiểu học gạo trong cặp kính viền thép và chịu chung số phận với Rangnick - người từng bị nhạo báng nặng nề với biệt danh “Giáo sư” sau khi buông lời tán dương những ưu điểm của hàng thủ bốn người trên sóng truyền hình quốc gia vào năm 1998 - Klopp đã gia giảm cho bài phát biểu nặng tính lý thuyết của mình bằng cách hướng đến sự thân mật trong phòng thay đồ: “Vấn đề duy nhất” của anh là “sự thiếu khoảng cách” với những người đồng đội cũ.
Kỳ chuyển nhượng năm đó ở Mainz khép lại với con số không tròn trĩnh. Sáu cầu thủ rời đi mang về lượng tiền tương đương với ngân khố: chẳng có gì. Ngân sách chơi bóng cả năm là 14 triệu DM (7 triệu euro), sân vận động vẫn là một khối gỗ và thép bong tróc, trống đến hai phần ba. Sau khi đội thoát rớt hạng trong gang tấc vào tháng 5, các cổ động viên đón chào chuỗi chiến thắng bằng sự hóm hỉnh kiểu tự giễu cợt. “Bọn ta chỉ là một Câu lạc bộ hội hè,” họ hát vang trên những khán đài. Những thành tựu bí hiểm của Klopp và sự hao hao về hình thức với một tay phù thủy học việc là gợi ý để tờ tin nhanh Bild đặt cho anh biệt danh “Harry Potter của giải hạng Hai”. “Người ta muốn lời lý giải cho việc tại sao chúng tôi lại ở trên đó,” anh nhún vai. Từ vòng đấu thứ hai trở đi, Mainz luôn ở trong nhóm thăng hạng. Chiến thắng vẻ vang 4-1 trên sân nhà trước kình địch Arminia Bielefeld trước 14.700 cổ động viên vào giữa tháng 4 năm 2002 mở toang cánh cửa đến Bundesliga. Mainz chỉ cần thêm ba điểm từ ba trận còn lại để tạo nên mùa giải đặc biệt nhất trong lịch sử câu lạc bộ. Thế rồi, họ hòa 1-1 trước Duisburg. Bị cầm chân 1-1 trên sân nhà bởi đối thủ kỵ giơ Greuther Fürth. Và ở ngày thi đấu cuối cùng, thất bại trước 1. FC Union Berlin đẩy họ xuống vị trí thứ tư. “Chúng ta sẽ tới Berlin, hoàn tất công việc của mình và trở về với tư cách một đội bóng hạng Nhất,” Heidel trước đó đã tiên đoán.
Mainz di chuyển đến sân Alten Försterei - và lao thẳng vào một cuộc phục kích. Nhiều cổ động viên trung lập bắt đầu mến mộ đội bóng tí hon đang bay cao với thứ bóng đá mang tính giải trí của họ. Nhưng ở vùng ngoại ô phía đông của thủ đô nước Đức, bầu không khí tỏ ra nặng nề với sự hiềm khích về tư tưởng chính trị. “Một bầu không khí vô cùng hung hãn, cục súc,” Heidel cho hay. “Mặc dù họ chẳng còn mục tiêu gì để phấn đấu, sự thù hận sống sượng vẫn hiện hữu. Họ tấn công xe buýt của đội, họ khạc nhổ, gọi chúng tôi là những gã Tây Đức ngạo mạn. Bên trong sân vận động, cảm giác như thể đội chủ nhà sắp thi đấu ở trận chung kết World Cup.” Mainz không sẵn sàng để đương đầu với cái nồi áp suất này.
Bầu không khí bị tẩm độc thêm bởi vài câu chữ “sáng tạo” từ một phóng viên của tờ tin nhanh Kurier ở Berlin. (“Một thằng ngu,” Strutz xù lông.) Dăm câu nói vô thưởng vô phạt của Klopp từ hồi tháng 12 về xu hướng ủng hộ kiểu bóng đá máu lửa của Union đã bị thêu dệt trắng trợn, thành như thể Klopp phỉ báng đội bóng rất được yêu mến đến từ Cộng hòa dân chủ Đức cũ là một “nhóm côn đồ” (Kloppertruppe). Thêm vào đó, Klopp bị mô tả là một gã khôn lỏi, một kẻ tự nhận mình là người đổi mới bóng đá kiểu Rangnick và là đứa con cưng to còi của DSF, kênh phát sóng 2. Bundesliga.
Union thi đấu với tinh thần quyết thắng và vươn lên dẫn trước ở phút năm mươi tám. Tiền đạo người Thụy Sĩ Blaise Nkufo vào sân với một chân quấn đầy băng, và ghi bàn gỡ hòa hai mươi phút trước khi hết giờ. “Chúng tôi nghĩ mình đã hoàn thành nhiệm vụ,” Heidel cho hay. “Nhưng rồi chúng tôi bị thủng lưới ở phút tám mươi hai, cả đội ào lên tấn công và nhận thêm bàn thua thứ ba. Đội xếp dưới chúng tôi đã thắng. Chúng tôi đứng thứ tư. Cả sân vận động hát những ca khúc châm biếm thất bại của Klopp. Đó là trận thua tệ chưa từng thấy của cậu ấy. Cậu ấy luôn là một Sonnyboy, người mà ai cũng muốn phỏng vấn bởi những câu đùa ngây ngô, người khiến ai cũng phải phì cười. Trước nay cậu ấy chưa từng nếm trải nỗi thất vọng nào lớn như vậy.”
Klopp rơi những giọt nước mắt đắng chát trong phòng thay đồ. “Mơ ước cả đời của chúng tôi đã bị hủy hoại,” anh nói, khuôn mặt nhợt nhạt. Heidel cũng vậy, tỏ ra quẫn trí, biết chắc rằng Mainz sẽ chẳng bao giờ có lại cơ hội để tranh tài ở hạng đấu cao nhất: “Một vài cầu thủ giỏi chắc chắn sẽ ra đi, tôi lo cả đội sẽ tan đàn xẻ nghé. Tôi nghĩ, vậy là hết. Cảm tưởng như ngày tận thế vậy. Chúng tôi chẳng ngờ được rằng mùa sau đó còn tệ hơn thế nhiều lần.”
Tại Berlin, các cầu thủ Mainz và ban huấn luyện gặm nhấm nỗi buồn mất suất lên hạng trong khách sạn “cho tới lúc mặt trời mọc”, Sandro Schwarz cho hay. “Chúng tôi bảo rằng bằng cách nào đó phải đổi chiều tâm trạng, biến nỗi buồn thành một thứ gì đó phấn chấn cho mùa giải sau.” Schwarz nhớ lúc tàu đến ga Mainz và anh bất ngờ khi trông thấy vài trăm cổ động viên đang ở đó, chào mừng đội bóng với cờ và những tấm băng rôn. “Bạn đã từng đi bộ trong thành phố mà chẳng ai để tâm. Chỉ khi đó chúng tôi mới nhận ra rằng các cổ động viên thực sự ở phía sau mình. Ngày hôm sau, nỗi buồn nặng trĩu biến mất, thay vào đó là một tinh thần chiến đấu thực thụ, với Klopp là người tiên phong.”
Nhưng việc tăng tốc không hề dễ dàng ở lần thứ hai này. Mainz phải cải tổ. Ba cầu thủ quan trọng (tiền đạo Nkufo, trung vệ Manuel Friedrich và hậu vệ trái Markus Schuler) đều đã ra đi. Hai khán đài của sân vận động đang trùng tu dang dở để chuẩn bị cho mùa giải Bundesliga đầu tiên nhưng bất thành. (Chính quyền bang Rhineland-Palatinate chi trả 5,75 triệu euro cho việc nâng cấp, hội đồng thành phố đã tặng lại cho câu lạc bộ và dừng việc thu của họ 100.000 euro tiền thuê theo năm.) Chấn thương xảy đến với một vài nhân sự chủ chốt cũng khiến tình hình trở nên khó khăn.
Sau chiến thắng trên sân khách trước chính Union Berlin ở trận mở màn, bất ngờ thay, đội bóng của Klopp dành phần còn lại của mùa giải đứng ngay dưới ba vị trí thăng hạng. Câu lạc bộ cho đến lúc này hoàn toàn tin tưởng rằng huấn luyện viên người Swabia (lúc đó vẫn chưa có chứng chỉ chuyên nghiệp) là cái tên hoàn hảo để đưa họ tiến lên. “Cậu ấy không chỉ dẫn dắt đội bóng, cậu ấy còn hiểu và chấp thuận cơ cấu tài chính mà chúng tôi vận hành,” Strutz nói, ngụ ý rằng tình thế của anh đã khác so với những huấn luyện viên trước đó.
Hợp đồng của Klopp được gia hạn thêm hai năm vào tháng 10 năm 2002, bất chấp một giai đoạn lao dốc với không một chiến thắng sân nhà nào kéo dài tới hai tháng. “Sự mong mỏi của tôi trong việc gia hạn cũng nhiều như từ phía câu lạc bộ,” anh nói với tờ Frankfurter Rundschau. “Làm việc ở đây và được phép để phát triển trên tư cách một huấn luyện viên là một vinh dự. Ngoài ra, bạn không thường xuyên có cơ may trong đời để được là chính mình ở nơi bạn đến. Điều đó tồn tại ở đây. Tôi không nghĩ mình thậm chí có đủ mẫu trang phục phù hợp để làm việc cho một câu lạc bộ khác.”
Còn ba trận trước khi mùa giải kết thúc, chiến thắng kịch tính 3-2 ở trận derby trước gã hàng xóm lớn mạnh Eintracht Frankfurt đưa FSV lên vị trí thứ ba. “Chưa có gì để reo lên ‘hu-ra’ hay ‘gần được rồi’ cả,” Klopp cảnh báo. Loạt trận còn lại cho thấy điều đó. Ahlen ở nhóm cầm đèn đỏ trên sân khách, nhược tiểu Lübeck trên sân nhà, Braunschweig ở nhóm cầm đèn đỏ trên sân khách. “Giờ chúng tôi cần thứ bóng đá điện xẹt này diễn ra liên tục,” Strutz nói.
Những tia lửa thực sự đã lóe lên ở sân Wersestadion bé xíu tại Ahlen. Mainz bị dẫn 2-0 trước khi ngược dòng thắng lại 3-2 sau chín mươi phút chính thức, nhưng rồi vẫn để thua. Hai bàn thắng của đội chủ nhà trong quãng thời gian bù giờ khiến họ rơi xuống vị trí thứ năm. Klopp và thủ môn Dimo Wache suýt lao vào tẩn nhau sau tiếng còi chung cuộc. Đến khi những tưởng rằng đã thất thế, thì họ trở lại. Chiến thắng 5-1 trước Lübeck mở đường cho một trận chung kết khác, lần này là với Braunschweig. Rốt cuộc Mainz phải ghi nhiều hơn đội xếp thứ ba Eintracht Frankfurt (tiếp Reutlingen trên sân nhà) một bàn để dập tắt khát vọng Bundesliga của đối phương. Klopp cùng các cầu thủ bước vào một đợt tập huấn ngắn giúp họ thoải mái đầu óc, và ý thức rằng thêm một thất bại nữa có thể biến đội bóng vốn có tiếng là yếu thế trở thành một tấn trò cười. Vài người quen gọi họ là “Bayer Leverkusen của 2. Bundesliga”, ám chỉ một đội bóng có thâm niên về nhì.
Ngày diễn ra trận đấu, không có bất kỳ một biểu hiện sợ sệt nào. Mainz vượt lên 2-0 sau hai mươi phút và dẫn 4-0 trước khi Braunschweig ghi một bàn an ủi vào phút tám mươi. Trận đấu được định đoạt ở Lower Saxony. Với tình thế hiện tại, Mainz sẽ lên hạng! Frankfurt chỉ đang dẫn 4-3 trước Reutlingen. Klopp vung cánh tay lên rồi hạ xuống, như thể muốn kìm nén niềm hân hoan. Bởi trận đấu ở Frankfurt vẫn… đang diễn ra. Đội chủ nhà vừa ghi bàn thứ năm để nâng tỉ số lên 5-3. Vị huấn luyện viên và các cầu thủ khoác tay nhau và tạo nên một vòng tròn xung quanh Axel Schuster, người quản lý đội, đang liên lạc qua điện thoại với một nhà báo ở Frankfurt. Còn lại chưa tới ba phút của thời gian bù giờ để chiến đấu tại Waldstadion. Sau hai phút rưỡi của sự lo lắng và những lời cầu nguyện, điều không tưởng đã xảy ra. Eintracht ghi bàn để ấn định tỉ số 6-3 ngay trước khi hồi còi mãn cuộc cất lên. Mainz đứng thứ tư và khóc ròng năm thứ hai liên tiếp. “Chúng tôi nghĩ, đây có phải chương trình Candid Camera không vậy?” Sandro Schwarz nói. “Chúng tôi đã có cơ hội để thắng 5-0, 6-0. Tôi thấy nổi da gà khi nghĩ lại chuyện này. Tất cả chúng tôi nhìn chằm chằm vào mặt Axel Schuster. Sau đó thì hoàn toàn chết lặng, hồn xiêu phách lạc trong vài phút. Chỉ là không thể tin nổi.”
“Die Meister der Schmerzen”, nhà vô địch của niềm đau, tờ Frankfurter Rundschau gọi họ với một sự tiếc nuối chân thành. Một số khác thì giễu cợt rằng Mainz nên được biết đến là “Đội bóng không thể lên hạng”. “Một trải nghiệm kinh hãi, bạn còn có thể nói gì được đây?” Strutz nhớ lại. Ông thổn thức trên sân bên cạnh Heidel. Klopp mau chóng chạy vào trong để tránh né sự chú ý của truyền thông và những màn hò reo vui sướng từ các cổ động viên chủ nhà. Strutz: “Cậu ấy châm một điếu thuốc rồi chẳng nói lời nào. Tôi hiểu, bởi tôi cũng vậy. Bạn hẳn sẽ nghĩ rằng mọi thứ chẳng thể nào tàn nhẫn hơn được nữa sau vụ Berlin.”
Klopp bật khóc khi con trai anh, Marc, mười ba tuổi, hỏi rằng liệu hôm sau có còn được đi học nữa không. Nhưng nhìn chung, anh đã giữ được sự điềm tĩnh cực giỏi. “Tôi tin rằng mọi thứ trong đời xảy ra đều có lý do hợp lý của nó. Một ngày nào đó, ta sẽ hiểu được tại sao chuyện hôm nay lại xảy đến…” - anh nói.
Ngày hôm sau, 8.000 người có mặt tại quảng trường trung tâm Gutenbergplatz ở Mainz (được đặt theo tên của Johannes Gutenberg, người phát minh ra máy in) để đón đội bóng trở về trong một tâm trạng đầy thách thức. Mainz bị “tát vào mặt hai lần”, Heidel cho hay, “nhưng Klopp đã đứng lên và phát biểu những lời đanh thép khiến mọi người dịu lại. Cậu ấy cảm hóa và truyền cảm hứng cho người khác một cách thật khó tin.”
“Chúng tôi sẽ tự nâng mình dậy,” vị huấn luyện viên nói. “Tất cả chúng tôi vẫn còn trẻ, chưa ai phải bỏ cuộc cả. Chúng tôi quyết tâm làm được nhiều thứ hơn nữa cho thành phố này và các cổ động viên. Tôi biết người ta nói ‘Mainz sẽ chẳng bao giờ làm được.’ Nhưng vấn đề là từ họ. Chúng tôi sẽ trở lại. Bất kỳ ai gạch tên chúng tôi đều đang mắc một sai lầm nghiêm trọng.”
Thông điệp đó, Schwarz giải thích, tỏ ra đáng tin bởi người truyền thông điệp có phẩm chất ấy. “Kloppo là người như vậy. Anh ấy là một chiến binh. Anh ấy thành thật cam kết với lời nói của mình. Tôi ngờ rằng ngay từ đầu anh ấy đã cảm nhận rằng mọi chuyện đều là một phần của những thử thách và nỗi thống khổ trong cuộc đời, rằng chúng tôi có thể kiểm soát điều đó bằng cách cứ làm điều đúng đắn, tập trung vào thời điểm ngay trước mắt, và không quan tâm đến quá khứ. Điều đó, theo quan điểm của tôi, là bản chất của Kloppo. Anh ấy khiến người khác tin mình bởi anh ấy nhận thức được. Anh ấy chẳng bao giờ giả đò bất cứ điều gì trước chúng tôi. Anh ấy hỏi: ‘Phương án dự phòng là gì? Chúng ta không thể giải tán đội bóng này.’ Hiển nhiên là chúng tôi phải duy trì, và đối với anh ấy hiển nhiên là nỗ lực tiếp theo sẽ thành công. Tôi vẫn nhớ anh ấy từng nói: ‘Chúng ta thiếu một điểm vào năm 2002. Chúng ta thiếu một bàn thắng vào năm 2003. Các cậu hiểu điều gì sẽ đến tiếp theo, phải không?’ Và đó là cách mọi chuyện diễn ra.”
Điều đó đã đến. Nhưng không hẳn theo cách được mong đợi. Mùa giải trọn vẹn thứ ba đương nhiệm của Klopp là năm tệ nhất mà anh có, nếu xét về mặt điểm số. Tiền đạo ngôi sao người Ukraine Andriy Voronin, với hai mươi bàn thắng, tỏ ra quá hiệu suất để chơi tại giải hạng Hai, và đã chuyển tới 1. FC Köln, để lại một khoảng trống khổng lồ trên hàng công. Những màn trình diễn phần lớn đều tỏ ra nhạt nhòa. Heidel cảnh báo rằng có quá nhiều cầu thủ đang mơ tưởng về cuộc sống ở Bundesliga thay vì tập trung vào nhiệm vụ nặng nề phía trước. Klopp biện hộ mạnh mẽ cho đội bóng của mình trước sự chỉ trích từ bên ngoài: “Tôi không thể chịu nổi khi các huấn luyện viên chiếm công trạng cho những chiến thắng nhưng lại đổ lỗi cho các cầu thủ khi thất bại.” Nhưng sự thiếu nhất quán đã gây ra một cuộc khủng hoảng ghê gớm. Trong giai đoạn từ giữa tháng 12 đến giữa tháng 4, FSV chỉ thắng được hai trận. Họ đứng thứ tám, kém sáu điểm so với vị trí thứ ba khi còn năm trận nữa.
“Mùa giải tưởng như đã kết thúc với chúng tôi,” Kramny cho hay. “Đã có những bàn bạc về việc cải tổ đội bóng. Sau ba thất bại, bạn chẳng thể bằng lòng với những khuôn mặt đó trong phòng thay đồ được nữa. Khá nhiều cầu thủ được thông báo có thể ra đi. Tôi đoán ý tưởng tiếp theo sẽ là nỗ lực một lần nữa với một đội ngũ mới.” Mainz cũng phải cắt giảm chi phí, một cách cấp bách. Câu lạc bộ đã thâm hụt tiền sau hai mùa giải gần nhất và cần huy động vốn để bù đắp chi phí tiên liệu cho việc xây lại sân vận động.
Mùa xuân năm đó, Kramny nói thêm, Klopp có vẻ như “lần đầu tiên hơi cạn giải pháp”. Vị huấn luyện viên tiến hành một cuộc khảo sát trong phòng thay đồ, yêu cầu các cầu thủ viết ra những lý giải về tình trạng bất ổn của đội bóng dưới dạng ẩn danh. Chẳng ai nêu ra được thứ gì hữu ích. Ở buổi gặp mặt đội sau đó, Klopp yêu cầu các cầu thủ của mình ngừng ngẫm nghĩ về những thứ tiêu cực; và phải có trách nhiệm thay đổi tâm trạng để tạo ra tinh thần tươi mới. “Đó là nhiệm vụ của chúng ta cho năm trận đấu cuối cùng,” anh ra lệnh.
May mắn cho Mainz, Duisburg thể hiện sức kháng cự khá yếu ớt ở trận đấu sau đó, gục ngã 4-1 tại Bruchweg. Tại Lübeck, Mainz lại thắng 4-1. Sau đó là chiến thắng 2-0 trên sân nhà trước Unterhaching. Nhưng ở chuyến làm khách trước nhược tiểu vùng Bavaria Regensburg, đội bóng của Klopp lại thất bại trong việc ghi danh lên bảng tỉ số. Trận hòa 0-0 khiến Mainz giậm chân ở vị trí thứ tư. Họ chỉ có thể lên hạng nếu đánh bại Eintracht Trier trên sân nhà và Alemannia Aachen (xếp thứ ba) không thắng tại Karlsruher SC ở vòng cuối.
Klopp treo một tấm băng rôn trong phòng thay đồ: “Jaaaaaaaa!” - dòng chữ ghi. “Anh ấy muốn gỡ bỏ áp lực nặng nề khỏi đội bóng, bằng cách tạo nên một dự cảm,” Rehberg và Karn viết, “viễn cảnh nếm trải một thời khắc hân hoan được xem là tâm điểm, thay vì mệnh lệnh chiến thắng.” Mainz thực tế đã thắng trước sự chứng kiến của lượng khán giả đến kín sân, với tỉ số 2-0. Nhưng một lần nữa, họ cần một kết quả có lợi cho mình ở nơi khác. Trận đấu ở Karlsruhe vẫn đang diễn ra sau khi tiếng còi mãn cuộc cất lên ở Bruchweg. Aachen đang bị dẫn 1-0. Một vài phút căng thẳng trôi qua, Mainz cuối cùng đã có điều họ muốn.
Tổng cộng năm mươi tư điểm có được chỉ ra họ là đội bóng thăng hạng Bundesliga với số điểm ít nhất từng ghi nhận. Điều đó chẳng thành vấn đề. “Cả thành phố vỡ òa,” Heidel nói. “Một nơi phố thị nhiều cảm xúc. Họ yêu thích tiệc tùng và tỏ ra vô cùng hãnh diện. Tuy nhiên, những gì xảy ra vào ngày Chủ nhật đó, chưa ai từng trải qua cả.” Mainz, một thành phố chẳng có chút vị thế đáng chú ý nào về bóng đá, đã phải lòng môn thể thao này cùng đội bóng của họ sau chín mươi chín năm kể từ khi FSV được thành lập. “Một sự hỗn loạn. Đâu đâu cũng thấy người.” Xe buýt của đội mất khoảng thời gian dài như vô tận để di chuyển một đoạn ngắn từ sân vận động đến quảng trường Gutenbergplatz giữa biển người với những khuôn mặt rạng rỡ, đê mê. Các cầu thủ và ban huấn luyện leo lên ban công của Nhà hát Quốc gia để trò chuyện với đám đông, và tất nhiên Klopp là người cầm micro, ướt đẫm trong rượu sâm banh và những giọt nước mắt. Anh gào lên chỉ một từ duy nhất: “Jaaaaaaaa!”
Một màn ăn mừng là không đủ sau hai lần thất vọng, Heidel và vị huấn luyện viên quyết định một cách ngẫu hứng. “Chúng tôi thông báo tất cả sẽ gặp lại nhau vào ngày hôm sau cho một bữa tiệc thăng hạng ở địa điểm cũ. Ba mươi nghìn người có mặt. Hôm đó thứ Hai đấy! Thành phố chật cứng. Diện mạo của tất cả những chuyện này, phải nói rằng, chính là Kloppo. Không chút nghi ngờ. Nhưng cậu ấy không khi nào, cho tới giờ vẫn thế, tỏ ra tự đắc tới mức nhận công lớn về mình. Ngay cả những người không biết chút gì về cậu ấy cũng phải nhận định cậu ấy là người thẳng thắn, chân thật. Bởi thực sự là như vậy.”
Bài diễn văn của Klopp ở trung tâm thành phố “làm cho ai cũng rơm rớm nước mắt và khiến các bà mẹ bế thốc con mình dậy, hét lên rằng họ sẽ đặt tên chúng theo tên anh ấy,” Doehling nói, với một chút cường điệu.
“Lên hạng ở mùa thứ ba là phép màu lớn nhất trong tất thảy,” Strutz nói. Cha ông trước đây cũng là chủ tịch của câu lạc bộ. Việc Mainz có lần đầu tiên trong lịch sử tiến lên hạng đấu cao nhất là thành quả hoàn mỹ tạo nên từ công sức của hơn cả một đời người. “Thường thường, các đội bóng ở vào hoàn cảnh của chúng tôi sẽ vỡ vụn sau hai thất bại đau đớn như vậy. Ngẫm lại, việc không lên hạng sớm hơn là điều tuyệt vời nhất. Biết tại sao không? Ai ai mê bóng đá cũng thấy mừng cho chúng tôi. Bởi chúng tôi đáng mến. Bởi chúng tôi khẳng định rằng: ‘Chúng ta sẽ không bỏ cuộc, chúng ta sẽ tự nâng mình dậy từ nơi tận cùng.’ Trước đây chẳng ai buồn ngó ngàng đến chúng tôi. Nhưng giờ thì chúng tôi là Mainz 05.” Một câu lạc bộ cỡ nhỏ không “từ chối” một câu trả lời nào, một kẻ thất bại hàng loạt hét “chấp nhận” vào khuôn mặt ngớ ngẩn của số phận. “Điều này chỉ có thể xảy đến bởi mối quan hệ đặc biệt giữa Klopp và các cầu thủ của cậu ấy. Từ đó tới giờ, chẳng ai cảm thấy không hứng thú về việc chơi cho chúng tôi nữa. Các cầu thủ muốn chơi bóng ở đây và những người từng đá ở đây mười năm trước muốn quay lại.”
Lẽ hiển nhiên rằng các đội bóng có xu hướng giống với huấn luyện viên của mình sau một quãng thời gian, nhưng tại Mainz, sự giống nhau đó tỏ ra quá đỗi rõ ràng hơn bất kỳ đâu. “Họ là những cầu thủ có trình độ hạn chế, chẳng ai nổi trội, ngoại trừ trung vệ Manuel Friedrich,” Quast cho hay. “Nhiều cầu thủ gợi cho tôi nhớ về Kloppo. Toni da Silva, ‘người Brazil duy nhất không thể đá bóng,’ Kloppo từng nói vậy. Vậy mà anh ấy biến cậu ta thành một ngôi sao. Tất cả đều là lính đánh thuê, những cầu thủ khá xoàng chẳng có cơ hội để làm điều gì đó đặc biệt ở đâu khác. Rồi một Marco Rose bước xuống xe buýt của đội và hét vào máy quay: ‘Marco Rose là cầu thủ của Bundesliga. Ai phản đối không?’ Cậu ta sẽ chẳng thể chơi ở một giải hạng Nhất tại bất kỳ thành phố nào khác trên hành tinh này. Chỉ ở Mainz mà thôi. Họ đều sở hữu thứ tinh thần mà chính Kloppo có. Họ bất chấp, họ trao đi tất cả. Họ sẽ đi uống ở Ballplatzcafé cùng nhau, các cầu thủ và huấn luyện viên. Hãy chỉ cho tôi một huấn luyện viên nào khác làm được vậy đi.”
Suất thăng hạng dành cho Mainz đã gấp đôi ngân sách của câu lạc bộ lên 20 triệu euro mỗi mùa và xoa dịu những mối quan ngại về tài chính liên quan đến việc xây dựng sân vận động. Những cựu binh như Sandro Schwarz và Jürgen Kramny cuối cùng cũng được đề nghị hợp đồng mới. Nhưng vẫn chẳng còn đồng nào để chiêu mộ những ngôi sao.
“Mainz sẽ cạnh tranh với SC Freiburg ở khía cạnh câu lạc bộ thú vị nhất Bundesliga,” tờ Süddeutsche Zeitung viết, “nhưng đừng ai bỏ qua thực tế rằng sẽ rất khó khăn cho họ. Đây là một đội bóng làm việc chăm chỉ nhưng chẳng hề bị ngờ vực về chuyện theo đuổi tính nghệ thuật. Họ lao động quần quật trong lúc các cổ động viên hát những ca khúc lễ hội trên khán đài, và lối chơi của họ hé lộ niềm say mê của vị huấn luyện viên trưởng dành cho phong cách chơi bóng kiểu Anh.”
“Bundesliga đang trông ngóng chúng tôi nhập hội,” Klopp tuyên bố. “Chúng tôi đã sẵn sàng.”
Hồi tháng 6 năm 2004, bóng đá Đức sa cơ lỡ vận, lạc lối và chán nản. Đội tuyển quốc gia của Rudi Völler vừa bị loại khỏi giải vô địch châu Âu sau vòng bảng mà không có một chiến thắng nào lần thứ hai liên tiếp. Họ đã tự làm khó mình với những màn trình diễn chậm chạp, tệ hại đến mức bị gọi là “bóng đá toa giường nằm” và Rumpelfußball (xuất phát từ rumpeln: giật cục và vấp váp) bởi những nhà bình luận và cánh báo chí.
Lối chơi được thể hiện bởi những tinh tú của đất nước tỏ ra lạc hậu một cách vô vọng tới mức không một huấn luyện viên lão luyện nào muốn dẫn dắt đội vào thời điểm đó, hai năm trước thềm World Cup được tổ chức ngay trên sân nhà. Không còn bất kỳ sự lựa chọn chính thống nào, Liên đoàn Bóng đá Đức miễn cưỡng giao phó nhiệm vụ cho Jürgen Klinsmann. Nhà cải cách định cư ở California này chỉ ra sự cần thiết trong việc đưa thêm tốc độ cùng cách tái định vị táo bạo, trẻ trung cho đội tuyển quốc gia. “Nước Đức luôn là một quốc gia chủ động nhưng khi đó chúng tôi đã ngừng chơi thứ bóng đá chủ động,” anh nhắc lại một thập kỷ sau.
Phải chờ hai năm sau khi giải đấu khép lại, những phương pháp từng bị ngờ vực nặng nề của cựu tiền đạo này mới được bào chữa một cách chính thức. Nhưng ở Bundesliga, sự đổi thay đến nhanh hơn. Mùa 2004-05 là lúc giải vô địch quốc gia nhàm chán, nặng nề, lạc hậu về mặt chiến thuật của nước Đức có sự chuyển biến. Ba huấn luyện viên trẻ người Swabia học được ở giải hạng Hai rằng những đội bóng nhỏ có thể trở nên mạnh và hay hơn nhờ vào chiến lược tài tình và sự thể hiện tận tụy. Và công thức của họ thực sự tỏ ra hiệu quả trước những đội bóng lớn truyền thống ở giải quốc nội. “Có một biến động ở Bundesliga,” tờ Frankfurter Allgemeine viết. “Thứ bóng đá liều mạng, phòng ngự từ tuyến trên, gây áp lực bằng sự tăng tốc: đó là đặc tính được cô đọng bởi những đội bóng chiếu dưới ‘tội nghiệp’.” Những trung vệ quét và những cầu thủ dẫn dắt lười biếng không còn chỗ đứng, mà thay vào đó, sức mạnh tập thể được khẳng định và phá vỡ nhận thức đại chúng về những cá nhân tạo nên sự khác biệt. “Họ chơi thứ bóng đá có ý tưởng, không phải kiểu dựa vào người hùng,” tờ Berliner Zeitung ghi nhận về làn sóng mới của “lứa huấn luyện viên tiên tiến” đang lay chuyển hiện trạng.
Tại Schalke 04, Ralf Rangnick cấm những đường chuyền về trong các buổi tập và quy định tối đa có hai lần chạm bóng. Uwe Rapolder của Arminia Bielefeld, người dẫn dắt đội bóng đến từ phía đông Westphalia lên hạng trước Mainz, có được số trận thắng đáng kinh ngạc với một đội ngũ kém xa mức trung bình nhưng được rèn giũa hoàn hảo đã chế ngự và vượt trội những đối thủ khéo léo hơn nhiều. Và huấn luyện viên Jürgen Klopp của Mainz, cái tên thứ ba và là người ồn ào nhất của bộ ba những đạo diễn bóng đá vùng Tây nam, đã trải qua một mùa giải ra mắt đầy hân hoan. Chẳng mấy chốc anh đã làm tỉnh ngộ những kẻ giễu cợt rằng FSV sẽ tiệc tùng từ đầu cho tới lúc nhận suất rớt hạng. Năm chiến thắng và ba trận hòa trong mười trận đầu tiên cho thấy đội bóng tân binh tuy không dư dả về tài chính nhưng vẫn thắng thế ở thời điểm trọng đại.
Bất chấp nền tảng lý thuyết vững chắc trong lối chơi, Schalke, Bielefeld và Mainz được ca tụng là Spaßmannschaften, những đội bóng giải trí. Các huấn luyện viên của họ không chỉ trình diễn một lối chơi thú vị, hiện đại, mà còn nói ra những điều tương tự. Đặc biệt là Klopp, tỏa sáng trong tâm điểm của sự chú ý, tán tỉnh công chúng bằng những miêu tả tỉ mỉ về chiến lược của đội bóng và biểu dương tinh thần chiến đấu của họ. Anh nhấn mạnh rằng kế hoạch hoàn hảo nhất sẽ chẳng là gì nếu thiếu những đôi chân và đam mê để đương đầu với thử thách. Hai cuộc phỏng vấn lớn với Der Spiegel và Taz cung cấp đủ số lời dẫn thú vị để dùng cho cả một thập kỷ. Chúng đọc lên không giống những màn hỏi đáp thông thường, mà như một bản tuyên ngôn cho một trường phái bóng đá khác, và một kiểu huấn luyện khác, dựa trên những nguyên tắc về tính nhân văn và sự kính trọng.
“Chúng tôi muốn kiểm soát trận đấu,” vị huấn luyện viên trẻ thứ hai trong lịch sử giải đấu sau Matthias Sammer nói về sách lược của anh. “Đặc biệt là khi không có bóng. Chúng tôi ép đối thủ đưa bóng vào đúng khu vực mình muốn. Đối thủ cầm bóng chính là cách chúng tôi triển khai bóng để ghi bàn. Chúng tôi muốn giành lại bóng nhanh tới mức chỉ cần thêm một đường chuyền để có thể đối mặt với thủ môn. Chúng tôi không chạy nhiều hơn những đội khác, nhưng chạy không ngừng nghỉ. Sao phải ngừng lại nhỉ? Chúng tôi luyện tập cả tuần để sung sức cho chín mươi phút. Và chúng tôi có một phương pháp rành mạch. Chúng tôi không lao vào mọi thứ trong tầm nhìn như một đàn ong bắp cày. Chúng tôi nhử đối thủ và sau đó mới tấn công anh ta.”
“Trải nghiệm,” anh nói thêm, “quan trọng hơn kết quả. Erlebnisfußball (thứ bóng đá mang đến trải nghiệm), chính xác là lối chơi mà tôi muốn chứng kiến. Chúng tôi muốn chạy không ngừng. Đó là biểu tượng của chúng tôi. Chúng tôi là tiên phong của những gã hay la cà ở quán rượu. Họ muốn chúng tôi chạy và chiến đấu. Vé vào cửa của chúng tôi được xác định rõ ràng, tuần này qua tuần khác, bằng sự đam mê, sẵn sàng, quyết tâm. Nếu một trong số khán giả rời sân và nghĩ, ‘hôm nay bọn này đáng ra phải chạy nhiều hơn và chiến đấu ác hơn’, thì là lỗi của chúng tôi. Tôi yêu môn thể thao này bởi nó liên quan tới sức mạnh, bởi nó hất tung đám bụi. Bạn chỉ có thể chạm được vào cảm xúc của trận đấu bằng tốc độ và hành động. Chỉ một chiến thắng đứng riêng lẻ thì chẳng bao giờ có cảm xúc cả. Một trận đấu hay phải khiến tóc gáy của bạn dựng đứng lên cho tới tận thứ Hai hoặc thứ Ba. Bóng đá như sân khấu vậy. Nếu không diễn một màn xuất sắc, đến cuối chỉ còn hai người ngồi lại đó thôi.”
Mức độ gắn kết cao của Mainz trên sân đấu được bảo lãnh bởi một sự cam kết đặc biệt, Klopp lý giải. Hai năm trước, anh có đưa cả đội đến một căn nhà gỗ hẻo lánh ở Rừng Đen, nơi họ phải tự túc nấu nướng và giặt giũ. Trước mùa giải đầu tiên tại Bundesliga, một chuyến hành xác cực kỳ gian khổ đến Thụy Điển mang đến bốn ngày mưa gần như không ngớt, vô vàn vết muỗi đốt, thái độ gần như nổi loạn từ các cầu thủ (“họ muốn thuê một chiếc trực thăng để rời khỏi đó ngay lập tức”) nhưng rồi sau đó, một sự khăng khít bắt đầu hình thành. Klopp yêu cầu các cầu thủ viết một bức thư cho chính họ dưới ánh lửa trại, kể chi tiết những ấn tượng và cảm nhận của mình về chuyến đi đến miền hoang dã xứ Scandinavia. Những bức thư để trong phong bì và được Klopp tập hợp, anh bảo với các học trò rằng chúng sẽ được lưu giữ, để gợi lại trong trường hợp đội bóng trải qua một cuộc khủng hoảng trong những tháng tới. “Mỗi người trong số họ sau đó có thể đọc được những gì anh ta viết vào thời khắc ấy, khi ngồi quanh đống lửa với các đồng đội của mình, nhớ về những cảm xúc đặc biệt và đầy sinh lực đó.”
Các cầu thủ Mainz cũng được cho xem một đoạn phim tài liệu về đội tuyển bóng bầu dục New Zealand All Blacks. Klopp hỏi các học trò thấy sao về việc tự gọi mình là All Reds. Liệu họ có thấy xấu hổ không? Hoặc có thể họ sẽ mặc chiếc áo của 05 vào và thề rằng sẽ nỗ lực đến tận cùng giới hạn, chừng nào còn khoác nó trên mình. Mainz chưa từng biểu diễn điệu nhảy haka trong phòng thay đồ. Nhưng những bài đồng ca của người Maori đã được bật trên loa xe buýt đội bóng khi tiến vào các sân vận động.
Vì câu lạc bộ không có đủ điều kiện để mua những cầu thủ không phù hợp với định hình về bóng đá và tâm lý, Heidel và Klopp quyết định thực hiện những buổi tuyển dụng trên diện rộng với những tân binh triển vọng. Nếu có thể, cầu thủ ấy được mời đến Mainz cùng vợ hoặc bạn gái. Klopp sẽ nói chuyện riêng với anh ta trước, trong vòng ba, bốn, năm tiếng đồng hồ, về bóng đá, trong lúc Heidel giới thiệu những nơi đẹp nhất ở Mainz cho vợ hoặc bạn gái họ. Sau đó, Heidel mới trò chuyện với cầu thủ. “Tôi muốn tìm hiểu về lý lịch và gia đình của anh ta, tôi muốn thấy dấu ấn của anh ta trên tư cách một con người,” ông nói. “Và tôi kể với anh ta nhiều điều về Jürgen Klopp. Thật ngớ ngẩn khi làm điều đó mà lại ngồi cùng cậu ấy trong phòng. Tôi nói với cầu thủ ấy rằng anh ta rồi sẽ quý mến vị huấn luyện viên này thôi. Đại loại vậy.”
“Có hai câu hỏi chính. ‘Cậu có thích tập luyện không?’ Nếu ai đó nói: ‘À, không hẳn, nhưng tôi sẽ đạt phong độ cao nhất vào cuối tuần’ - chào tạm biệt. Không có cơ hội. Và: ‘Có thích chạy không?’ Nếu ai đó nói: ‘Tôi muốn làm điều đó cùng kỹ năng của mình hơn’ hoặc ‘Tôi chả cần’ - chúng tôi không nhận họ. Tôi luôn nói với họ: ‘Nếu cậu nghĩ mình sẽ ghi ba bàn vào cuối tuần mà không cần luyện tập gì nhiều thì làm ơn hãy nói với tôi ngay. Bởi cậu sẽ không bao giờ được chơi ở đây. Bất chấp tên cậu là gì.’ Nhiều cầu thủ phản ứng lại với sự thẳng thắn đó. Chúng tôi không nhận nhiều cầu thủ bởi chúng tôi cảm thấy họ không thể mang tới những gì được yêu cầu. Ngoài ra nếu ai đó bảo: ‘Mainz chỉ là…’, húng tôi sẽ mời anh ta đi chỗ khác. Kloppo luôn nói: ‘Tôi muốn có một cảm nhận rằng các cậu chỉ hình dung về việc chơi cho một câu lạc bộ duy nhất ngay lúc này: Mainz. Nếu các cậu không có cảm giác đó, nếu các cậu nghĩ mình phải nói chuyện với các đội bóng khác trước, thì xin lỗi. Nếu các cậu không thấy hứng thú sau khi nghe tôi nói về câu lạc bộ, thì các cậu không nên đến đây. Và hãy thành thật, bởi điều đó sẽ không đi đến đâu cả.’ Các cầu thủ đều ấn tượng bởi cách nói đó. Và rồi chúng tôi mời họ ra về, mà không có một đề nghị cụ thể nào. Chúng tôi nói: ‘Hãy nghĩ về điều đó đi. Cậu có tưởng tượng được mình sẽ chơi bóng ở đây không?’ Chúng tôi bảo anh ta rằng chúng tôi cũng sẽ cân nhắc. ‘Chúng tôi sẽ thông báo nếu thấy cần cậu. Nếu chuyện này không thành bởi vấn đề tiền bạc, thì hãy chấp nhận nó.’ Nhưng gần như là luôn thành công. Cầu thủ chúng tôi dẫn dụ được thì sẽ thuộc về chúng tôi. Chúng tôi khiến họ mê mệt. Khi họ ký kết xong, Kloppo và tôi đập tay nhau ăn mừng. Trơn tru như một cái máy.”
Tiền đạo người Ai Cập Mohamed Zidan là một vụ tiêu biểu ở điểm này. Người đại diện của anh bác bỏ vụ chuyển nhượng đến 05 từ Werder Bremen, “Mainz ư? Anh ta muốn gì ở Mainz cơ chứ?” Heidel nhớ lại. “Nhưng sau khi nói chuyện với chúng tôi, anh ta vô cùng hào hứng, chỉ muốn đầu quân cho chúng tôi, không phải bất cứ đội nào khác.” Bên cạnh hệ thống chức năng tận dụng tối đa tố chất của các cầu thủ qua đó tăng thêm tính khả mại của họ (“Bất cứ ai chơi bóng ở Mainz, đến một giai đoạn nào đó, đều có cơ hội để kiếm được những gì các cầu thủ khác đang có,” Klopp dự đoán), câu lạc bộ còn mang tới một sự cân bằng công việc và cuộc sống đáng khao khát. Heidel: “Những thành phố khác đâu chắc đã tốt lành bằng? Tại đây bạn có thể sống một cuộc đời bình thường trên tư cách một cầu thủ bóng đá. Ở Cologne, bạn chẳng thể đi dạo phố được. Ở Mainz, bạn được hoàn toàn thoải mái là chính mình. Khó tìm được một cầu thủ nào đó không thích chơi cho chúng tôi. Chúng tôi chưa bao giờ phải phạt ai vì sự vô ý. Điều đó không cần thiết.”
Nói như vậy không phải là những quy định thông thường không được áp dụng. Đến tập muộn bị phạt với mức phí vài trăm euro. Cũng có một biểu giá dành cho chính huấn luyện viên nếu đi trễ: 500 euro. Có một câu chuyện khi Mainz vẫn đang ở giải hạng Hai và Klopp còn đang lưu trú tại khu vực của tầng lớp dưới trung lưu Gallusviertel ở Frankfurt. Hằng ngày, Klopp thường ghé qua đón tiền đạo Michael Thurk ở gần đó, rồi xuôi theo cao tốc A66 nổi tiếng đông đúc. Nhiều hồi chuông cửa không ai trả lời. Klopp ấn tất cả các chuông cho tới khi ai đó để anh vào, rồi gõ cửa nhà Thurk. Một lúc sau cánh cửa mở ra: là Thurk, trong chiếc quần lót. “Ôi, thầy, em xin lỗi…”
“Tôi cho cậu đúng hai phút, bằng không tôi sẽ đi mà không có cậu.”
Tròn chín mươi giây sau, Thurk có mặt, với hổ lốn mấy thứ quần áo vơ vội. Chuyến đi đến Mainz tỏ ra “khá áp lực”, theo lời Quast, người đi cùng xe. “Tắc đường, các phương tiện dồn ứ. Kloppo toát mồ hôi bởi khi đó anh ấy không có nhiều tiền. Năm trăm euro là rất nhiều. Thurk cũng bắt đầu đổ mồ hôi - Klopp bắt cậu ta phải trả số tiền đó nếu họ đến muộn. Vậy mà bằng cách nào đó chúng tôi đã đến kịp mà vẫn thừa hai giây.”
Klopp luôn đối xử với các cầu thủ của anh theo cách mà trước đây anh mong muốn những huấn luyện viên đối xử với mình. Tiền vệ Fabian Gerber được nghỉ một ngày tập để mừng sinh nhật mẹ - sự kiện đáng lên mặt báo, bị tranh cãi dữ dội ở một Bundesliga vốn không khoan nhượng. “Tôi đã không thể ở bên con trai mình trong ngày đầu đi học mười năm trước và đến giờ vẫn tự hỏi tại sao tôi lại ngu dại đến mức nghe theo mệnh lệnh đó từ huấn luyện viên,” Klopp giải thích về sự nhân hậu của anh. “Tôi muốn mọi người xung quanh tôi vui vẻ. Cuộc sống là vậy. Đúng, chúng tôi chơi bóng đá, ngôn từ thì thô lỗ và đôi khi còn hơn thế. Nhưng không cần thiết phải làm ai buồn. Tôi không muốn phải mang hình phạt ra dọa nạt để bắt họ chiến đấu. Việc của tôi là chỉ cho các cầu thủ mục tiêu theo cái cách mà họ tự động muốn giành được. Đó là những gì tôi tin tưởng.”
Các tiền đạo của 05 là Benjamin Auer và Thurk từng lên tiếng biện hộ cho một lối chơi dễ chịu hơn, nhưng đều không thành công. Klopp tỏ ra kiên quyết khi nói đến tư tưởng bóng đá của mình. “Chỉ trừ một cầu thủ,” Heidel nhấn mạnh, “không hợp với Mainz một chút nào: Hanno Balitsh. Anh ta luôn bảo rằng Klopp và đội bóng cư xử như kiểu tăng động, suốt ngày cười đùa. Anh ta không thể chịu nổi điều đó, và cho rằng thật lạ khi các cầu thủ gọi huấn luyện viên là ‘Du’ - không theo cách trang trọng hơn như ‘Sie’. Hanno và tôi vẫn cười cợt về chuyện đó khi gặp nhau. Nhưng tôi thách bạn tìm được người khác - kể cả những người không được thi đấu thường xuyên - chê bai một từ về Mainz. Họ sẽ không làm vậy đâu. Tôi luôn bảo những cầu thủ triển vọng gọi và hỏi xin ý kiến các cựu cầu thủ. Họ chẳng có lý do gì để nói láo cả.”
Mainz chiếm được cảm tình của khá nhiều nhà bình luận bởi lòng quả cảm thể hiện ở trận thua 4-2 trước Bayern của Felix Magath tại sân Olympic vào cuối tháng 11. Nhưng bóng tối đang đến gần. Thêm bảy thất bại và một trận hòa không bàn thắng trước Bielefeld của Rapolder cầm chân họ ở vị trí thứ mười lăm, bốn điểm hơn khu vực xuống hạng. Không còn những cuộc phỏng vấn sâu sắc trên những ấn phẩm học thuật dành cho vị huấn luyện viên, thay vào đó là những câu hỏi về sự đảm bảo cho chiếc ghế anh đang ngồi. Tuy nhiên, ban lãnh đạo của Mainz tuyên bố rõ ràng rằng Klopp vẫn sẽ ở lại với tư cách huấn luyện viên, kể cả trong trường hợp đội xuống hạng. Những nghi vấn lại được rút đi. “Việc tống khứ cậu ấy chưa bao giờ được đem ra bàn luận,” Strutz cho hay, “chúng tôi tin vào cậu ấy trên tư cách một huấn luyện viên lẫn một con người.”
Klopp hô hào các cổ động viên tại sân Bruchweg ngừng đung đưa theo những điệu nhạc lễ hội và thay vào đó hãy tán dương cho từng cú đoạt bóng thành công. Anh mất ngủ nhiều đêm và sau đó thừa nhận cảm thấy cô đơn giữa lớp lớp những kết quả tệ hại (“tôi không thể thỉnh cầu bất kỳ ai bởi các huấn luyện viên thường có xu hướng khó lòng vượt qua được tám thất bại liên tiếp”) nhưng vẫn tỏ ra lạc quan trong phòng thay đồ và cố gắng thể hiện sự điềm tĩnh. “Các cầu thủ chẳng bao giờ tự nghi ngờ bản thân, đó là thành quả thực sự của cậu ấy khi làm huấn luyện viên,” Rehberg và Karn viết. Một cải tiến về chiến thuật - Mainz bắt đầu sử dụng đội hình 4-3-2-1 - giúp họ tìm lại chính mình. Những chiến thắng trước Freiburg (5-0), Schalke (2-1), Hannover (2-0) và Bochum (6-2) xoa dịu nỗi lo xuống hạng. Sau vòng 32, một thất bại 4-2 trên sân nhà trước các nhà vô địch Bayern không làm thay đổi cục diện. Cả hai đội bóng cùng ăn mừng với các cổ động viên, nốc ừng ực những quại bia trên sân. Mainz kết thúc mùa giải Bundesliga đầu tiên trong lịch sử ở vị trí thứ mười một.
Klopp rất có năng lực trong việc nâng tầm bản thân, triết lý bóng đá và câu lạc bộ của mình, ngay cả vào những lúc khó khăn nhất, điều đó khiến anh khác biệt so với Wolfgang Frank, Doehling cho hay. “Frank không có cái tài đó. Ông ấy nổi điên sau mỗi thất bại, than thở rằng Mainz không chịu nỗ lực hơn, còn sân thì trống huếch trống hoác. Klopp rút kinh nghiệm từ điều đó. Anh ấy biết cách nói chuyện với mọi người. Thay vì nói: ‘Rặt một lũ ngu chẳng hiểu gì về bóng đá đỉnh cao,’ anh ấy sẽ nói: ‘Trận này hết nấc đấy. Ai không đến xem sẽ hối tiếc vô cùng. Các bạn nên đến đi.’ Anh ấy rất tài trong việc giữ vẻ tích cực. Và quan trọng nhất, chắc bạn từng nghe rồi, anh ấy thu phục được mọi người. Không nhiều người ở Đức có thể làm điều đó. Liệu bạn có thể khiến mọi người ủng hộ bạn, ủng hộ ý kiến của bạn? Chính trị chẳng khác gì nghề huấn luyện cả. Anh ấy là một chính trị gia bẩm sinh. Với công chúng, chớ có đẩy họ vào lửa. Chỉ cần bạn làm thế một lần, họ sẽ bỏ mặc bạn. Bạn phải dẫn họ vào trận đánh và đưa họ trở lại, giúp họ sống sót. Bạn giải cứu họ. Khi đó họ sẽ phục tùng bạn.”
Việc đội bóng trụ hạng ở mùa 2004-05 là một “câu chuyện cổ tích bóng đá”, theo lời Quast. Người dân Mainz gần như đã trở nên quen thuộc với những phép màu, điều lạ thường đã trở thành lệ thường. Quast nhớ như in cảnh các cổ động viên Bayern há hốc mồm đứng bên ngoài sân, nhìn chằm chằm vào Klopp - khi đó đang tiệc tùng với các cổ động viên Mainz trong quán rượu Haasekessel của câu lạc bộ thuộc khuôn viên sân vận động sau tiếng còi mãn cuộc. “Gượm đã, kia có phải huấn luyện viên của họ không nhỉ? - Các cổ động viên đội khách tự hỏi. Họ tiến đến gần anh ấy, chụp vài tấm hình. Klopp có mặt ở đó, lần lượt cụng ly với hai mươi lăm cổ động viên, những người đã từng chứng kiến anh ghi bốn bàn tại Erfurt. Anh ấy chẳng muốn thay đổi. Anh ấy là vậy. Và vậy mới là Mainz.”
Vài tuần sau khi có suất ở lại hạng đấu cao nhất, vận mệnh của Mainz rẽ sang một hướng thậm chí còn khó tưởng tượng hơn. Câu lạc bộ nhỏ bé nhất Bundesliga thấy mình như đang trải qua một giấc mơ trong một giấc mơ, giống như Christopher Nolan trong bộ phim Inception. Nhờ vào cách cư xử đồng điệu giữa các cầu thủ, các quan chức và cổ động viên - cộng thêm cả may mắn nữa - FSV trở thành một trong hai đội bóng tại châu Âu được tham dự UEFA Cup theo bảng xếp hạng Fair Play. (Dù vậy, hình ảnh câu lạc bộ vui vẻ, dễ mến này không nhận được sự ủng hộ của tất cả. Nhiều tháng sau đó, các nhóm ultra của Hannover 96 đã trưng ra những tấm băng rôn đả kích “Phát ọe với sự dễ thương của chúng mày”.)
Jürgen Klopp tỏ ra điềm nhiên. “Cảm nghĩ về UEFA Cup ư? Có giống như ợ nóng không?” Anh đáp lại những câu hỏi về cú rẽ hoàn toàn không định trước của Mainz vào giải đấu châu lục. Những lo lắng về kỳ vọng tăng cao dành cho đội ngũ tuy gắn kết nhưng non kinh nghiệm cũng được gạt qua một bên theo cách tương tự: “Tự chuốc phiền muộn vào thân làm gì. Chỉ khác cái là bớt được gặp vợ thôi mà.”
Nhưng đó không phải là sự khác biệt duy nhất. Những chuyến đi đầy phiêu lưu đến Armenia (thắng 4-0 sau hai lượt trước FK Mika Ashtarak), Iceland (thắng 4-0 sau hai lượt trước Keflavik) và Tây Ban Nha (thua 0-2 sau hai lượt trước Sevilla) mang đến niềm hứng khởi to lớn nhưng đồng thời cũng khiến cả đội mệt mỏi và kiệt sức ngay ở giai đoạn đầu của mùa giải 2005-06. Mainz thua cả năm trận đầu ở Bundesliga. Có thể đó là hội chứng mùa giải thứ hai, nhiều người bảo vậy, và bữa tiệc đã kết thúc. Cuối cùng thì trọng lực đã đưa đội bóng đang bay cao trở lại vị thế quen thuộc của họ. “Không chắc tập thể vui nhộn của Mainz sẽ tiếp tục như thế này được bao lâu nữa dưới áp lực ngày càng tăng,” tờ Neue Zürcher Zeitung ái ngại.
Klopp tìm được cảm hứng trong bộ truyện tranh “Thông minh và Lém lỉnh” mà anh đọc từ thời niên thiếu. Dưới nét bút của họa sĩ người Tây Ban Nha Francisco Ibanez, câu chuyện kể về hai tay gián điệp thường xuyên phải hứng chịu những tai nạn khủng khiếp và những lần bị cắt xén cơ thể trầm trọng nhưng không hề để lại bất cứ tổn thương lâu dài nào, và xuất hiện lành lặn ở ngay tập tiếp theo. “Tôi mê những cuốn truyện đó,” Klopp nói. “Thời gian các nhân vật cần để tái sinh thực là khó tin. Kể cả khi bạn có bị xe lu chèn qua hay rơi từ một vách đá cao 800 mét xuống đất - mọi thứ vẫn tiếp diễn!”
Trong truyện “Thông minh và Lém lỉnh”, những định luật về vật lý và sinh học không tồn tại. Nhưng Bundesliga là một môi trường kém khoan dung hơn nhiều. Phong độ của Mainz chỉ được cải thiện sau khi họ bị loại ở UEFA Cup vào cuối tháng 9. Khi đó, họ phải đối mặt với kết quả hoàn toàn trái ngược kỳ vọng. Mùa giải trải qua mười vòng đấu, FSV rơi vào khu vực xuống hạng với vỏn vẹn bảy điểm. Trận thua 3-1 trên sân khách trước Hertha BSC là điển hình của sự thiếu liên quan khó cắt nghĩa giữa thứ bóng đá tấn công đẹp mắt và bảng tỉ số gây rầu rĩ. Klopp dẫn mọi người nhìn xa hơn các con số. “Chúng ta sẽ phân tích trận đấu này mà không dựa trên kết quả,” anh nói với các phóng viên ở thủ đô nước Đức. Tờ báo khổ lớn địa phương taz có chút bất ngờ khi nhận thấy các cầu thủ Mainz vẫn giữ vững niềm tin, quyết “trung thành với hình ảnh đội-bóng-vui-vẻ của giải đấu, không ngừng chống trả can đảm, không ngừng thể hiện lối chơi tấn công, tốc độ theo một kế hoạch riêng, và trên hết, tiếp tục thể hiện bản thân để khiến những khán giả khó tính nhất cũng nhận thấy niềm đam mê với trái bóng của mình.”
Bản thân Klopp vẫn yêu thích việc chơi bóng, điều này quá rõ ràng với những người gần gũi anh. Anh thường xuyên đá cho đội bóng của Kemweb, một công ty truyền thông có trụ sở gần nhà ở ngoại ô Gonsenheim. Kemweb đối đầu với các công ty khác - ở lĩnh vực ngân hàng, siêu thị, xây dựng - tại một giải đấu dành riêng cho cầu thủ nghiệp dư, và họ thường xuyên thiếu nhân sự. Một hôm, Peter Krawietz, người từng làm việc cho họ, hỏi Klopp rằng liệu anh có muốn gia nhập hay không. Anh đồng ý ngay. Cứ ba hoặc bốn tuần một lần, dù lịch thi đấu của Mainz tại Bundesliga cho phép hay không, anh vẫn chơi bóng đâu đó ở miền quê giữa những vườn nho và ruộng củ cải “với mấy gã bụng bia vượt mặt và những cầu thủ siêu tệ - toàn những nhà vô địch thế giới của ‘hiệp thứ ba’,” như Martin Quast nhớ lại. “Kloppo vui nhất là khi có mặt ở đó, giữa những anh chàng đó. Anh ấy đứng trên sân và cười lăn cười bò khi có mấy ông cố sút vào khung thành nhưng thay vào đó lại trúng cột phạt góc. Sau đó, mọi người vây quanh Klopp trong một cái rạp hay một quán rượu nào đó, và anh ấy cười không ngừng cả tối. Cái điệu cười ha hả ấy. Chỉ nhìn thấy toàn răng là răng. Những con người gặp nhau hoàn toàn ngẫu nhiên bỗng trở nên thân thiết. Lúc ra về, họ nói: ‘Này Klopp, bọn tôi biết cậu là huấn luyện viên, nhưng không ngờ cậu lại thú vị đến vậy. Quá ngầu luôn. Cậu vẫn có thể chơi ở giải hạng bảy ấy nhỉ?’ Đó là lời khen mà anh ấy thích nhất. Bởi anh ấy chẳng bao giờ giả bộ làm ai đó không phải là mình.”
Khi thời gian không còn nhiều, hàng công mạnh mẽ của Mainz 05 - gồm cầu thủ dẫn dắt da Silva, các tiền đạo Michael Thurk, Benny Ayer, Petr Ruman và Mohamed Zidan - cuối cùng cũng biết cách biến hàng loạt cơ hội ghi bàn thành kết quả hữu hình. Cho đến Giáng sinh, Mainz đã tích lũy được 16 điểm. Nguồn xung lực tích cực này không thể bị coi nhẹ. Klopp được đề nghị gia hạn hợp đồng thêm hai năm cho tới kỳ nghỉ đông năm 2008, và anh chấp nhận. Christian Heidel không phủ nhận những tin đồn về việc lương của vị huấn luyện viên được nâng lên thành 1,2 triệu euro, kém không nhiều so với những huấn luyện viên hàng đầu tại Bundesliga thời điểm đó.
“Mainz 05 là một câu lạc bộ tuyệt vời,” Klopp trả lời tờ Frankfurter Rundschau trong một cuộc phỏng vấn cùng Heidel vào tháng 1 năm 2006. “Họ đã thật sự bùng nổ, nếu nhìn vào sự phát triển trong 5 năm gần đây, mà vẫn không thay đổi cá tính của câu lạc bộ. Với tôi, được làm việc ở đây vẫn là một thử thách lớn, đồng thời mang lại nhiều niềm vui. Tìm kiếm thử thách khác chưa phải là điều tôi nghĩ tới lúc này.”
Klopp, chất mồi cho màn bùng nổ của Mainz, phủ nhận sự thay đổi do sự chú ý của công chúng nhưng thừa nhận rằng hồ sơ của mình đã bắt đầu mang lại tác động tiêu cực. “Bạn phải làm quen với việc bị nhận ra, cuộc sống riêng tư của bạn bị xáo trộn,” anh nói. “5 năm trước, nếu ai đó tươi cười với tôi như bây giờ (năm 2005), chắc tôi phải sốc lắm. Thời đó, kể cả tôi có khỏa thân chạy quanh Mainz cũng chẳng ai biết tôi là ai.”
Việc trần truồng chạy qua những con phố tao nhã của khu Gonsenheim quả nhiên là không còn phù hợp, nhưng Klopp cũng chẳng hề che giấu mình. Tên anh vẫn xuất hiện trên chuông cửa nhà. (Nó vẫn ở đó cho đến tận tháng 11 năm 2016). Bạn sẽ tìm thấy anh trên sân thượng của quán Café Raab cách đó một đoạn ngắn, hoặc bắt gặp anh đang thuê vài chiếc đĩa DVD ở cửa hàng Video Toni vào buổi tối nào đó. Một ngày nọ, Toni, người chủ tiệm, nói với Klopp rằng anh sẽ được thuê đĩa miễn phí trọn đời nếu cửa hiệu của ông này được xuất hiện trên truyền hình. Nghe thấy vậy, Martin Quast bèn đưa Toni vào một chương trình tiêu điểm về Klopp trên kênh Sport1. Toni đã giữ lời hứa. “Giờ thì Kloppo sẽ không phải trả tiền nữa,” ông nói.
Heidel thậm chí đã cảnh báo Klopp rằng anh sẽ từ “người nổi tiếng nhất Mainz” thành một ai đó được biết đến “bởi tám mươi triệu dân Đức, bao gồm mọi cụ ông và cụ bà”, sau quãng thời gian cộng tác cho đài ZDF tại World Cup. Nếu ẩn ý của cuộc đàm luận trên tờ Rundschau - rằng Klopp đang dần có tiếng hơn Mainz 05 - bị bất kỳ ai coi nhẹ, thì vị huấn luyện viên đảm bảo điều đó được giải thích rõ ràng. “Sự sẵn lòng của tôi để làm huấn luyện viên tại Mainz sẽ không kéo dài mãi,” anh nói. “Tôi không thể tưởng tượng nổi việc mình vẫn ở đây trong mười năm nữa. Tôi quá tò mò về mọi thứ. Tôi sẽ tự thúc đẩy mình (để có được sự chuyển biến sau này).”
Nét chất phác của Klopp có thể tạo ra sự chú ý không mong muốn cho anh, nhưng nó lại biến thành tiền mặt cho câu lạc bộ, Heidel cho hay: “Chẳng ai ghen tị cả. Ngược lại, chúng tôi tận dụng sự nổi tiếng của cậu ấy. Hiệu ứng Kloppo giúp chúng tôi giành được những khoản tài trợ và bán được vé.” Câu lạc bộ bắt đầu nghĩ lớn, nghĩ xa hơn trận đấu kế tiếp và sự cần kíp để tránh xuống hạng trong lần thứ hai. Họ thực hiện một nghiên cứu về tính khả thi trong việc xây một sân vận động mới. Và sau mười lăm năm đương nhiệm, Heidel cuối cùng cũng trở thành giám đốc điều hành câu lạc bộ dưới hình thức toàn thời gian. “Chúng tôi có cơ hội để tạo dựng một cơ sở hạ tầng mà chúng tôi còn chẳng dám mơ đến vài năm trước,” Klopp nói. “Tôi muốn là một phần trong thử thách đó. Khi tôi rời đi, tôi muốn câu lạc bộ được hưởng lợi từ tôi. Kế hoạch luôn là vậy. Tôi muốn để lại một dấu ấn.”
“Những cuộc thương lượng với Kloppo mất có hai phút,” Heidel nói. “Tôi đưa cậu ấy một mảnh giấy kèm một con số. Cậu ấy được phép điền số năm cạnh đó. Bắt tay, xong việc. Chúng tôi không bao giờ kỳ kèo. Cậu ấy luôn chấp thuận đề nghị của tôi. Bạn biết đấy, cậu ấy luôn phàn nàn về việc kiếm được quá ít thời còn là cầu thủ, nhưng cậu ấy chắc chắn là huấn luyện viên được trả lương cao nhất tại giải hạng Hai. Bỏ xa những người còn lại. Và cậu ấy cũng không phải là dạng nghèo đói gì ở giải hạng Nhất. Bởi tôi biết cậu ấy quan trọng như thế nào. Cậu ấy kiếm bằng ba, bốn cầu thủ cộng lại. Cậu ấy sẽ bảo: ‘Thôi, như thế nhiều quá.’ ‘Không. Cậu xứng đáng.’ Đôi lúc có người gọi đến để dụ cậu ấy đi và cậu ấy cười như điên. Bởi chẳng ai hình dung được chúng tôi đang trả cậu ấy bao nhiêu. Bảy con số đấy. Nhiều huấn luyện viên tại Bundesliga cũng chưa tới mức đó. Klopp lấp đầy cả sân vận động. Cậu ấy là hình tượng đại diện quảng bá cho Mainz 05. Bạn chẳng thể đong đếm được hiệu ứng đó trên phương diện tiền bạc. Nó vượt xa công sức của cậu ấy trong việc đào tạo.”
Tình trạng mất cân bằng rõ rệt nhắm vào tuyến trên của đội bóng, ở thời điểm đó, đòi hỏi một sự tư duy lại về chiến thuật. Những cầu thủ hay nhất của Mainz đều nằm ở hàng công, thế nên một biến thể của sơ đồ 4-4-2 với hàng tiền vệ hình kim cương - Thurk ở phía sau hai tiền đạo - được đưa vào để tận dụng những phẩm chất của họ. Tuy nhiên trong chuyến làm khách trước Dortmund vào tháng 2, sơ đồ mới dường như khiến tuyến giữa của đội tỏ ra quá mong manh. Ban huấn luyện đã nghĩ đến việc từ bỏ thử nghiệm này vào giờ nghỉ, khi Mainz bị dẫn 1-0 và không thể kiểm soát được thế trận. Họ bế tắc. Nhưng không hiểu vì sao, mọi thứ suôn sẻ trở lại, Thurk ghi bàn và đội khách cuối cùng còn tỏ ra kém may mắn khi không giành được trọn vẹn ba điểm. “Đó là một thời khắc rất khó khăn,” Klopp nói sau đó, “một trong nhiều bài học giá trị dành cho chúng tôi.” Bảy điểm sau ba trận tiếp theo đưa họ thoát khỏi nhóm xuống hạng.
Sự thừa nhận công lao to lớn của Klopp còn đến dưới một hình thái khác: trung vệ Manuel Friedrich được Jürgen Klinsmann triệu tập - cầu thủ Mainz đầu tiên trong lịch sử góp mặt ở Nationalmannschaft. “Manu là một hậu vệ đẳng cấp và là một anh chàng siêu hạng. Tôi thấy mừng cho Jürgen Klinsmann vì anh ấy được quen biết cậu ta,” Klopp vui vẻ nói, lộ rõ sự hãnh diện.
Mainz chỉ thua một trong bảy trận tiếp theo, 3-0 trên sân khách trước Nürnberg, trong sơ đồ đã được điều chỉnh. Tuy vậy, thành quả từ các đối thủ khác kết hợp chống lại họ trước trận đấu trên sân nhà trước đội đầu bảng FC Bayern Munich ở vòng 31. Đội bóng bị giữ chân ở một vị trí ảm đạm. Nhưng điều đó chẳng liên quan gì đến cú trượt chân khó ngờ của họ vào khu vực rớt hạng. Theo lời mời từ Bộ trưởng Tư pháp Herbert Mertin của bang Rhineland-Palatinate, Klopp đưa đội bóng đến thăm nhà tù liên bang Rohrbach. Một tù nhân nói với vị huấn luyện viên rằng y từng ngồi cạnh anh trên chuyến xe dành cho cổ động viên đến một trận đấu tại giải hạng Hai của Mainz khi Klopp bị treo giò và di chuyển cùng họ. Huấn luyện viên của Mainz lắng nghe chăm chú chuyện đời của người tù. “Này anh bạn, hãy tu tỉnh khi được ra tù,” anh khuyên y, tờ Frankfurter Rundschau thuật lại. Klopp nói với tờ báo này rằng điều quan trọng là để các cầu thủ của anh “trải nghiệm một thế giới hoàn toàn khác, không hề có sự vui thú và xa hoa. Điều đó khiến bạn trưởng thành trên tư cách một con người lẫn một cầu thủ, kể cả khi nó hoàn toàn chẳng giúp bạn thắng được Bayern.”
Tuy vậy, mục đích cao cả nhất của chuyến đi khác thường này, là cơ hội “để giúp những chàng trai tại đây có thêm vài giờ bên ngoài xà lim”, anh nói thêm. Được biết rằng trong nhà tù không truyền hình trực tiếp bóng đá, Klopp thỉnh cầu Mertin lắp đặt một bộ giải mã TV để các tù nhân có thể xem trận đấu của Mainz với Bayern. Vị chính trị gia chỉ mỉm cười trước lời gợi ý thẳng thắn này nhưng cảm thấy chuyến ghé thăm của đội bóng giống như một “cú hích” cho một vài tù nhân trên con đường hoàn lương.
Trở lại sân đấu, Mainz hòa 2-2 với Bayern. “Sẽ là thảm họa nếu Mainz xuống hạng,” Giám đốc Điều hành Uli Hoeness của Bayern phát biểu sau chín mươi phút bất phân thắng bại. Sau đó, chiến thắng 3-0 trong tâm trạng âu lo trên sân khách trước VfL Wolfsburg đưa câu lạc bộ vào một vị trí rất hứa hẹn. Và thêm một lần nữa sân Bruchweg mở hội ở vòng đấu áp chót. Mainz đánh bại Schalke 1-0. Họ đã trụ hạng. Klopp nghẹn ngào, nốc cạn bia và cưỡi lên hàng rào sân vận động để hát những ca khúc đầy phấn khích cùng các cổ động viên. “Anh là một ultra trong số các huấn luyện viên Bundesliga,” tờ Süddeutsche Zeitung viết, và “Mainz 05 trở thành phương tiện bộc lộ cá tính của anh”. Một câu lạc bộ nơi mà các cầu thủ và đám đông cùng “hòa vào sự điên cuồng” bởi một người đàn ông trên đường biên và “mười nghìn người sống cùng những cảm xúc được truyền đi bởi huấn luyện viên của họ.”
Sau trận hòa 0-0 tại Duisburg ở vòng đấu cuối cùng, câu lạc bộ nghèo nhất giải (quỹ lương 13 triệu euro của họ kém hơn một nửa mức trung bình của mười bảy đội còn lại, 28 triệu euro) một lần nữa lại được xếp là đội bóng hay thứ mười một trong nước. Vài cầu thủ tự hỏi liệu có phải họ đã thể hiện dưới năng lực của bản thân hay không, nhưng Friedrich giữ nguyên quan điểm rằng câu lạc bộ biết chính xác những gì họ đã làm được. “Việc tiếp tục được chơi ở Bundesliga mùa tới là điều tuyệt vời nhất dành cho chúng tôi,” anh nói. “Chúng tôi vẫn tận hưởng mỗi trận đấu như một món quà, giống những đứa trẻ với đôi mắt mở to.”
Tuy vậy, như một bản violin âm thầm lạc điệu giữa dàn nhạc giao hưởng, có những bất hòa nhỏ nhặt và phiền phức ảnh hưởng không đáng kể lên những màn ăn mừng. Các cổ động viên của Mainz đã giận dữ la ó cựu tiền vệ FSV Mimoun Azaouagh trong trận đấu với Schalke - một dấu hiệu, có lẽ vậy, rằng câu lạc bộ tự xưng là có phong cách lễ hội này đang trở nên kém đặc biệt đi đôi chút, bắt đầu giống với một đội bóng thông thường. “Đó không phải là kiểu của chúng tôi,” Klopp khiển trách các cổ động viên. Hai là, những người theo dõi thường xuyên nhận thấy rằng Heidel phản kháng quyết liệt hơn mức cần thiết khi ai đó phàn nàn với ông rằng việc để mất nhạc trưởng da Silva (đến Stuttgart) và tiền đạo chủ chốt Mohamed Zidan (trở lại Werder) sẽ khó để bù đắp. “Chúng tôi đã nghe những điều đó cả mười lăm năm nay rồi,” ông đáp một cách dửng dưng.
Mùa hè năm đó, một màn tháo chạy diễn ra. Ngoài da Silva và Zidan, tiền đạo Benny Auer và hậu vệ Mathias Abel cũng rời đi. Tai hại hơn cả, theo nhiều khía cạnh, là cuộc chia tay của trụ cột thứ năm, Michael Thurk. Mười hai bàn thắng của tiền đạo này ở mùa 2005-06 đóng vai trò lớn giúp Mainz trụ hạng, cũng như sáu bàn ở giai đoạn hai của mùa giải trước đó. Thurk là kiểu tiền đạo mà người Đức gọi là Schlitzohr, nghĩa đen là “gã tai sứt”. Từ này có nguồn gốc cách đây vài trăm năm, khi những người thợ thủ công học việc phải chịu hình phạt xé rách tai vì dám đeo hoa tai bằng vàng. Trên sân, Thurk giống như dân anh chị, một gã lưu manh đáng mến và là mẫu tiền đạo gây hấn hàng loạt đối với các hậu vệ đối phương. Anh lớn lên ở Gallus thuộc Frankfurt, một khu công nghiệp của tầng lớp lao động nằm giữa hai tuyến đường ray xe lửa chính. Dân địa phương gọi khu này là Kamerun, do số lượng lớn dân nhập cư tại đây.
Cú đúp của Thurk ở vòng cuối mùa 2003-04 trước Eintracht Trier đưa Mainz lên Bundesliga, nhưng anh lại đóng vai một người hùng cô độc, quẫn trí giữa niềm vui sướng ngây ngất của đội nhà. Trước đó, Thurk đã đồng ý chuyển tới Energie Cottbus ở mùa giải kế tiếp, do chắc mẩm câu lạc bộ vùng Đông Đức sẽ có suất lên hạng đấu cao nhất. Nhưng thay vì thế, Mainz mới là đội lên hạng. “Như cái thổ tả. Mình có thực sự phải đến đó không nhỉ?” Thurk làu bàu trong suốt bữa tiệc diễn ra ở trung tâm thành phố, và thổn thức khôn nguôi.
Heidel hứa với tiền đạo này rằng anh sẽ được chào đón trở lại nếu việc chuyển tới Cottbus không đi đến đâu. Khi mọi chuyện không như ý, Thurk tự trả một phần phí chuyển nhượng để xúc tiến màn tái hợp của mình vào tháng 1 năm 2005. “Trong lịch sử của Mainz, chúng tôi đã đưa ra hai quyết định nhân sự vô cùng đúng đắn,” Strutz nói sau này, “Một là Klopp. Việc còn lại là đưa Thurk trở lại từ Cottbus. Những gì chàng trai này thể hiện trên sân là không tưởng.”
Vào tháng 7 năm 2006, Thurk nghe ngóng được sự quan tâm từ Eintracht Frankfurt. Việc chuyển về đội bóng quê nhà tỏ ra vô cùng hấp dẫn với anh, cả về mặt tình cảm lẫn tài chính. Mainz muốn anh ở lại. Thurk bèn gây ra một cuộc xung đột với Heidel, và Klopp buộc phải bán gấp anh. Cầu thủ này tỏ ra thất vọng vì vị giám đốc điều hành của Mainz không thông báo cho anh về việc Eintracht hỏi mua, sau đó công kích Klopp vì không ủng hộ anh như kỳ vọng trước cơ hội được triệu tập lên đội tuyển quốc gia. “Tôi phải cân nhắc về điều đó,” vị huấn luyện viên Mainz thật thà đáp lại khi ai đó hỏi anh về triển vọng sát cánh với Klinsmann của Thurk. “Đấy không đơn thuần là một phát biểu tiêu cực,” Thurk oán trách, “tôi thấy như thể ông ta đang giỡn tôi.” Cầu thủ ba mươi tuổi thậm chí còn đẩy vấn đề đi xa hơn rất nhiều. Klopp, theo lời Thurk, là một “ông giáo làng lắm chiêu” mà năng lực dùng người được tâng bốc vô tội vạ. “Cái kiểu lúc nào cũng vui vẻ đó thật lố bịch. Những gì ông ta nói trong những buổi họp, cách khích lệ của ông ta, tôi chả thèm để tâm, bởi tôi đã nghe cả nghìn lần. Nhàm rồi. Nhiều điều ông ta nói, tôi không thể ngửi nổi nữa.”
Không có đường lui sau phát biểu đó. Mainz đẩy anh sang đội bóng kình địch địa phương. Tuy nhiên, sự thay đổi này không giúp ích cho Thurk. Anh chỉ ghi được bốn bàn trong ba mươi sáu trận trước khi chuyển tiếp tới FC Augsburg. “Những gì Thurk nói thật khó tha thứ, thật phũ phàng,” Quast cho hay. “Kloppo là Chúa ở Mainz, bạn không thể làm điều đó. Quá đụng chạm cá nhân. Sau bao nhiêu chuyến đi chung xe ngược xuôi Frankfurt, họ đã rất thân thiết, như Topf und Arsch vậy. Micha tính toán mọi thứ. Cậu ta muốn câu lạc bộ để mình đi. Biết phải xử trí với một gã như vậy thế nào đây? Trong một thời gian dài, mối quan hệ của họ rất căng thẳng. Tôi chắc chắn Kloppo sẽ cắt đứt mọi liên hệ. Nhưng rồi, ở mùa 2015-16, Augsburg đến làm khách tại Liverpool. Và ai đang ngồi ở khu VIP cạnh Ulla - vợ Klopp - kia nhỉ? Là Michael Thurk! Kloppo đã mời cậu ta đến với tư cách khách mời danh dự. Thurk từng chơi cho Augsburg, vì thế đây cũng là trận đấu của cậu ta, theo một cách nào đó. Không còn chút ác cảm, oán giận nào. Tuyệt thật. Tôi ngưỡng mộ những người có thể để chuyện quá khứ trôi vào dĩ vãng như thế.”
Khởi đầu của mùa giải 2006-07 thật ngoạn mục. Liverpool của Rafael Benítez bị vùi dập 5-0 trong một trận giao hữu ở Bruchweg. Mainz đánh bại VfL Bochum 2-1 ở trận đấu mở màn mùa giải Bundesliga. Nhưng tất cả chỉ có vậy, nếu nói về những chiến thắng. Tập thể mới tạo dựng không thể vận hành nổi một hệ thống đòi hỏi khắt khe. Tám trận hòa và tám trận thua khiến họ phải đội trên đầu cả bảng xếp hạng khi mùa giải mới chỉ đi qua nửa chặng đường.
Lời công kích của Thurk đưa tới sự lý giải thuyết phục cho những kết quả tệ hại của Mainz: Klopp không còn có thể truyền cảm hứng trong phòng thay đồ. Có thể do anh quá bận bịu trong việc mổ xẻ những trận đấu của đội tuyển quốc gia trên đài ZDF đến mức không thể tập trung vào những vấn đề tầm thường ở Bundesliga chăng, một số tờ báo đặt câu hỏi.
Strutz lại cho rằng đó không phải là vấn đề. “Trước một trận đấu nọ với Schalke 04, Klopp có một bài diễn văn khó tin trong buổi họp báo. Cậu ấy chỉ nói và nói, cho đến cuối, tôi chắc rằng chúng tôi sẽ tiến lên và giành chiến thắng. Tôi đã hỏi xin một trong những người quay phim cuộn băng ghi âm đó.” “Chúng tôi sẽ nuôi niềm tin khờ dại này,” Klopp nói, “chúng tôi không mang theo cảm giác thấp hèn tới Schalke với những cái lưng cúi rạp hay tâm trạng suy sụp. Bất cứ ai cố gắng bám trụ, không bỏ cuộc, không ngừng nỗ lực cuối cùng sẽ được tưởng thưởng. Đó là niềm tin cốt lõi của tôi. Chúng tôi sẽ tiếp tục chiến đấu cho tới khi có ai đó bảo: ‘Các cậu có thể ngừng lại được rồi, mùa giải đã kết thúc’.” Trận đó Mainz thất bại, 4-0.
Trận đấu trước kỳ nghỉ đông, tiếp FC Bayern Munich trên sân nhà, cũng với tỉ số tương tự. Một làn sóng kiểu Mexico quét qua sân Bruchweg chật kín khán giả, một phần chống đối, hai phần mỉa mai. Strutz không thích điều này. “Thà rằng họ cười nhạo lũ cầu thủ còn hơn.” Các ông chủ của câu lạc bộ đều cho rằng đội bóng, đặc biệt là những tân binh, thiếu năng lực và sự chuyên tâm. Sẽ có một vài thay đổi trong đợt nghỉ lễ, nhưng không phải trên ghế huấn luyện. Heidel tuyên bố Klopp không thể bị sa thải. “Chúng tôi sẽ nhảy cẫng lên nếu cậu ấy gia hạn hợp đồng đến sau năm 2008,” ông trả lời báo chí.
Klopp phủ nhận đội bóng của anh hoảng sợ trước màn viếng thăm của Những người Bavaria - “các cầu thủ của tôi không hề bĩnh ra quần, tôi nhìn kỹ rồi” - và luôn lạc quan một cách khắc kỷ. Quãng thời gian nghỉ ngơi sẽ mang đến cơ hội để tạo ra những thay đổi cần thiết. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, anh nói với các phóng viên, kết thúc một năm ở vị trí cuối bảng Bundesliga không phải là Giáng sinh tệ nhất anh từng có: “Hồi năm tuổi, tôi muốn có một cái xe đạp Bonanza. Khi có rồi thì bác hàng xóm Franz, người đóng vai Ông già Noel, ngồi lên nó để pha trò. Cái vành xe bị uốn cong như hình số tám vậy. Tôi không thể đi nó nữa và buồn bã vô cùng.”
“Không hẳn như cháy nhà vậy đâu,” Neven Subotić nói, trong lúc ngồi ở Tasty Pasty Company, một quán cà phê lạ mắt được trang trí bằng gạch mộc do một người Anh đang sống tại Cologne điều hành. “Mùa giải đó, không phải chỉ toàn là hỗn loạn hay vô tổ chức đâu. Vẫn có nhiệm vụ như thường. Chúng tôi tập luyện chăm chỉ và thi đấu với một kế hoạch rõ ràng vào cuối tuần, hiểu rằng giành một điểm thôi cũng là tuyệt rồi. Đó là trọng tâm của chúng tôi. Không hề có cảm giác về một sự bế tắc trầm trọng hay suy nghĩ tiêu cực rằng chúng tôi chẳng làm được gì nên hồn. Tôi nghĩ mọi người đều nhận thức được rằng chúng tôi không sở hữu phẩm chất của những đội bóng lớn hơn, rằng chúng tôi về cơ bản thuộc về khu vực bên dưới này. Tuy nhiên, là một cầu thủ trẻ, tôi cũng có đôi chút lo lắng cho bản thân mình.”
Heidel dùng tiền để chặn đà đi xuống của đội bóng. “Tiểu Pharaoh” Mohamed Zidan, một tiền đạo vô lo vô nghĩ - giống Thurk - chỉ thực sự phát huy hết tiềm năng dưới thời Klopp, được đưa trở lại từ Werder Bremen với giá 2,8 triệu euro vào tháng 1, một bản hợp đồng kỷ lục của Mainz. Tiền vệ người Đan Mạch Leon Andreasen (cũng từ Werder) đến theo hợp đồng cho mượn sáu tháng để cải thiện khu vực giữa sân; cầu thủ chạy cánh người Colombia Elkin Soto được bổ sung sau khi hết hạn hợp đồng ở CD Once Caldas. Các cổ động viên cũng tỏ ra khẩn trương. Họ khởi động một chiến dịch mang tên “Nhiệm vụ khả thi 15” để cứu Mainz khỏi xuống hạng. (Vị trí thứ mười lăm là đủ để trụ hạng.) Các nhóm ultra của Mainz tự hứa sẽ biến sân Bruchweg, nơi FSV đang có xu hướng trở nên dễ bị bắt nạt, thành một chảo lửa huyên náo một lần nữa.
Klopp, được tờ Guardian mô tả là “một người đàn ông trẻ, râu ria lồm xồm không ngừng nhảy nhót phấn khích trong một tòa lâu đài bằng hơi tưởng tượng”, đã thể hiện những gì tốt nhất khi mùa giải trở lại. Zidan, Andreasen và, ở mức thấp hơn một chút là Soto (không lâu sau đó dính chấn thương), là những nhân tố chủ chốt tạo nên năm chiến thắng trong sáu trận đầu ở Rückrunde. Mainz nhảy lên vị trí thứ mười. Lại có những bàn tán về việc dự UEFA Cup lần thứ hai. “Các đồng đội của tôi chiến đấu như thể đối thủ đang dọa cướp con của họ vậy,” Andreasen nói đầy ngưỡng mộ. Strutz tán dương đội bóng là “những nam chính kiểu Braveheart phiên bản Bundesliga”. Tuy nhiên, bất cứ sự tương đồng nào với những cuộc nổi dậy của người Scotland cũng chỉ là vẻ bề ngoài. Bên dưới những chiếc váy kilt của Mainz, chẳng có nhiều biến chuyển đến vậy.
Những sai lầm của trọng tài, những chấn thương, những cơ hội bị bỏ lỡ, những bàn thua ngớ ngẩn, là những lời biện minh quen thuộc của các đội bóng rớt hạng. Tất cả những điều đó là có thực, là để đổ lỗi, ở một chừng mực nào đó, cho việc Mainz thua bảy trong chín trận tiếp theo. Quan trọng hơn, nửa đầu mùa bết bát khiến số điểm dự trữ phòng khi sảy chân quá ít ỏi cho một đội hình sở hữu năng lực có hạn. Chiến thắng trên sân nhà ở vòng áp chót, 3-0 trước Gladbach, là quá muộn. Mainz phải đánh bại FC Bayern 7-0 trên sân khách mới có cơ may trụ hạng. Giành được một kết quả như vậy ở trò PlayStation đã là một viễn cảnh phi thực tế, chứ đừng nói là ở Allianz Arena. Cuộc phiêu lưu ở Bundesliga kết thúc. FSV tụt hạng sau 102 trận ở giải đấu cao nhất.
Đối với Subotić, việc xuống hạng ở mùa giải đầu tiên trở thành cầu thủ chuyên nghiệp, ngạc nhiên thay, lại không tỏ ra đau đớn đến vậy. “Không khí trong phòng thay đồ vẫn khá thoải mái,” anh nói. “Chúng tôi luôn là một tập thể, chúng tôi ở bên nhau. Đó là một trải nghiệm rất quan trọng dành cho tôi. Nó giúp tôi phát triển trên phương diện một cầu thủ. Mọi thứ không trở nên quá tệ hại hay quá ồn ào. Có thể chỉ một chút, không hề nhiều.”
Sân Bruchweg tất nhiên không mất đi âm hưởng của nó. Những tràng pháo tay hòa cùng màn diễu hành tri ân sau tiếng còi mãn cuộc ở trận đấu với Gladbach. “Chúng tôi muốn thấy đội bóng” - những tiếng hô vang buộc toàn đội bước ra khỏi phòng thay đồ để đi vòng thứ hai. Họ lại hát “You’ll Never Walk Alone”. “Khăn tay của tôi ướt đẫm,” Chủ tịch Liên đoàn Bóng đá Đức Dr Theo Zwanziger thừa nhận. “Bóng đá không thể đạt được hơn những gì chúng tôi có ở đây,” Strutz nói về màn chia tay đầy cảm xúc.
Klopp cầm micro lên. Thêm lần nữa, một nhân vật hoạt hình tạo điểm nhấn cho bài nói của anh. Bằng cách diễn giải nhan đề bộ phim hoạt hình Pink Panther phiên bản tiếng Đức, anh hứa rằng “đây không phải là một sự kết thúc, chúng ta sẽ trở lại, không nghi ngờ gì cả - như triết gia màu hồng đó nói.” Klopp “có giọng điệu gần như vui tươi về chuyện xuống hạng, để thể hiện hồn cốt chân chính của Mainz,” tờ Frankfurter Allgemeine cảm nhận. Việc xuống hạng không bị coi là một thảm họa mà được chấp nhận như một hệ lụy khó tránh. “Tất cả những gì xảy ra là chuyện mà ai cũng đã tiên liệu,” tờ báo khổ lớn viết. Klopp: “Thật kinh ngạc khi chứng kiến cách mọi người ở đây đối mặt với việc rớt hạng. Đời là vậy mà. Một khi đã nỗ lực hết sức mình, bạn hoàn toàn có thể đương đầu với thất bại. Các cổ động viên và câu lạc bộ đã ứng xử bằng một thái độ mẫu mực. Ở đây, cầu thủ chẳng bao giờ là những tên xuẩn ngốc vì để thua một trận đấu cả.” Tại Munich, cầu thủ FSV và các quan chức đội những chiếc mũ chóp cao màu đỏ trước giờ thi đấu và giơ một tấm băng rôn hướng về các cổ động viên khách. “Chúng tôi xin ngả mũ trước các bạn,” dòng chữ viết.
Klopp thú nhận về một khoảng thời gian đấu tranh nội tâm: “Tôi tự vấn mình. Nếu tôi thấy mình chịu 90 phần trăm trách nhiệm cho thảm họa này, thì tôi phải đưa ra những quyết định cần thiết.” Và anh đã cam kết bổn phận của mình với đội bóng. “Tôi không có quyền dừng lại lúc này. Tôi muốn khẳng định rằng tôi có thể trở về Mainz sinh sống sau khi nghỉ hưu hoặc bị sa thải ở đâu đó, mà không còn bất kỳ vấn đề nào chưa giải quyết.” Anh thừa nhận rằng có một vài cầu thủ muốn rời đến các câu lạc bộ Bundesliga khác, nhưng tình thế của anh khác. “Tôi mới gần bốn mươi, tôi có thể đảm nhận công việc này thêm vài năm nữa. Tôi chưa hết thời gian. Các cầu thủ có ít thời gian hơn, họ buộc phải quyết định. Đối với tôi, quan trọng là làm tròn trách nhiệm. Tôi hạnh phúc khi làm điều đó.”